09/11/2015

Dưỡng sinh theo quy luật vận hành 12 kinh lạc của cơ thể người

   Các kinh lạc trong cơ thể chúng ta là cái gốc của sinh mệnh, chúng lại vận hành có quy luật rõ ràng. Vì vậy, việc hiểu và thực hành lối sống thuận theo quy luận vận hành của các kinh lạc là mở cánh cửa cho sức khỏe chúng ta. Dưới đây xin trình bày lại quy luật vận hành của 12 kinh lạc cùng những hướng dẫn cụ thể hữu ích trong sinh hoạt hàng ngày.


kinh-lac
1. Thủ thái âm phế kinh
phe-kinh
Thủ thái âm phế kinh
Giờ Dần (từ 3 – 5 giờ): Phế kinh vượng. Giờ dần ngủ tốt thì sắc hồng tinh khí đủ.
“Phế hướng về trăm mạch”. Phế vào giờ Sửu đưa máu huyết vào giai đoạn mới, máu mới cung cấp cho phế, rồi qua phế đưa đến toàn thân. Vì thế sắc mặt vào sáng sớm thường hồng hào, tinh lực dồi dào.
Người bị bệnh phổi sẽ phát mạnh nhất vào giờ Dần, ví như ho hay thở khò khè làm tỉnh ngủ.
Chứng thực: Chướng bụng, dễ táo bón, dễ bị trĩ, lưng và vai khó chịu, đau răng, da dẻ khác thường, thượng quản khác thường…[ads1]

2. Thủ dương minh đại tràng kinh
trang-kinh
Thủ dương minh đại tràng kinh
Giờ Mão (5 – 7 giờ): Đại tràng kinh vượng. Giờ Mão đại tràng hoạt động thải chất độc và cặn bã.
“Phế và đại tràng tương quan biểu lý”. Phế mang máu mới phân bố khắp toàn thân, giúp đại tràng đi vào trạng thái hưng phấn, hoàn thành quá trình hấp thụ dinh dưỡng và nước trong đồ ăn, thải chất cặn bã. Sáng sớm sau khi dậy là thời gian đại tiện rất tốt.
Chứng thực: Dễ đói, dạ dày yếu, xương khớp khác thường, thèm ăn, miệng khô, dễ táo bón.
Dưỡng sinh: Tranh thủ dậy sớm và uống một ly nước ấm, sau đó vào nhà vệ sinh thải những chất cặn bã tích trữ cả ngày hôm trước! Tuy nhiên cũng không nên vào nhà vệ sinh quá sớm, vì có nhiều người già bị trúng gió vì nguyên nhân này. Nên nghỉ ngơi khoảng 10 – 20 phút cho đầu óc tỉnh táo rồi đi. Lời khuyên về đồ ăn: cà tím, rau chân vịt, chuối, nấm, mộc nhĩ, ngô, đậu cô-ve, đậu Hà Lan…

3. Túc dương minh vị kinh
vi-kinh
Túc dương minh vị kinh
Giờ Thìn (7 – 9 giờ): Vị kinh vượng.
Giờ Thìn ăn sáng, ổn định dinh dưỡng cơ thể. Ăn sáng vào giờ này dễ tiêu hóa, hấp thu cũng tốt. Ăn sáng có thể dùng đồ ăn nhẹ giúp bảo vệ dạ dày, như cháo, ngũ cốc, bánh bao… Đồ ăn quá khô nóng sẽ làm nóng dạ dày khiến môi khô nẻ, nhiệt… Còn nhịn ăn sáng sẽ dễ bị bệnh tật.
Chứng thực: Tỳ vị bất hòa, tiêu hóa và hấp thu không tốt sẽ dễ sinh đầy bụng, đau đầu, mệt mỏi, xương khớp khó chịu, bài tiết khác thường…
Dưỡng sinh: Chú ý ăn sáng. Nếu bao tử đói sẽ không ngừng tiết axít dạ dày, lâu dần sẽ gây loét dạ dày, viêm dạ dày, tá tràng, túi mật… Sau khi ăn khoảng một giờ có thể mát xa kinh vị giúp điều tiết công năng dạ dày.

4. Túc thái âm tỳ kinh
ty-kinh
Túc thái âm tỳ kinh
Giờ Tỵ (9 – 11 giờ): Tỳ kinh vượng, cơ thể tạo máu.
“Tỳ chủ vận hóa, tỳ thống huyết”. Tỳ là cơ quan điều hành toàn bộ việc tiêu hóa, hấp thu, bài tiết, lại quản về máu. “Tỳ khai khiếu ra miệng, phát ở môi”. Công năng của tỳ tốt thì việc hấp thu và tiêu hóa cũng tốt, chất lượng máu cũng tốt, môi sẽ hồng mịn. Môi trắng cho thấy khí huyết không đủ, môi thâm cho thấy khí lạnh nhiễm kinh tỳ.
Dưỡng sinh: Tỳ vị bất hòa, tiêu hóa và hấp thu không tốt, tỳ hư khiến trí nhớ suy giảm… Đây là thời gian kinh tỳ vận hành khai huyệt, cũng là thời gian bảo vệ tỳ tốt nhất. Kiến nghị nếu có điều kiện hãy dành cho bữa trưa nhiều lựa chọn về món ăn: đậu cô-ve, khoai lang, khoai tây, đậu hũ, rau cần tây… Trái cây có thể chọn táo, cam, quýt… Nước trà có thể chọn trà xanh, trà hoa nhài, mật ong…
5. Thủ thiếu âm tâm kinh
Giờ Ngọ (11 – 13 giờ): Tâm kinh vượng. Giờ Ngọ nên nghỉ ngơi để an thần dưỡng tinh khí.
“Tâm chủ thần minh, khai khiếu ở lưỡi, phát ở mặt”. Tim đẩy máu vận hành, dưỡng thần, khí, và cơ bắp. Một giấc ngủ ngắn vào giờ Ngọ có tác dụng dưỡng tim rất tốt, giúp buổi chiều tối sinh lực tràn đầy.
6. Thủ thái dương tiểu tràng kinh
Giờ Mùi (13 – 15 giờ): Tiểu tràng kinh vượng. Giờ Mùi phân trong đục, uống nước giúp hạ hỏa.
Tiểu tràng phân chia trong đục, đưa nước thải về bàng quang, cặn bã về đại tràng, chất tinh túy lên tỳ. Tiểu tràng kinh vào giờ Mùi điều hòa dinh dưỡng trong ngày. Nếu tiểu tràng kinh nóng sẽ dễ ho khan, trung tiện. Lúc này uống nhiều nước, uống trà có lợi cho tiểu tràng thải độc hạ hỏa.

7. Túc thái dương bàng quang kinh
bang-quang-kinh
Túc thái dương bàng quang kinh
Giờ Thân (15 – 17 giờ): Bàng quang kinh vượng. Giờ Thân nước miếng đủ thì cơ thể dưỡng âm tốt.
Bàng quang chứa nước thải và nước miếng, nước thải bài tiết ra khỏi cơ thể, nước miếng tuần hoàn trong cơ thể. Nếu bàng quang nóng sẽ tiểu són. Giờ Thân nhiệt độ cơ thể nóng, người âm hư là nổi rõ nhất. Lúc này vận động sẽ hỗ trợ tuần hoàn nước miếng trong cơ thể, uống nước trà “bổ âm hạ hỏa” hỗ trợ rất tốt cho người âm hư.

8. Túc thiếu âm thận kinh
than-kinhTúc thiếu âm thận kinh
Giờ Dậu (17 – 19 giờ): Thận kinh vượng. Thận tàng tinh, giờ Dậu nạp nguyên khí mạnh.
“Thận chứa tinh chất của sinh sản và tinh chất của lục phủ ngũ tạng. Thận là cái gốc tiên thiên”. Khi qua giờ Thân cơ thể hạ hỏa thải độc, đến giờ Dậu thận tới lúc tích chứa tinh hoa. Lúc này không thích hợp cho những hoạt động mạnh, cũng không hợp uống nước nhiều.

9. Thủ quyết âm tâm bao kinh
tam-bao-kinhThủ quyết âm tâm bao kinh
Giờ Tuất (19 – 21 giờ): Tâm bao kinh vượng, giảm áp lực để tim dễ chịu.
“Tâm bao kinh là lớp da mỏng bên ngoài tim, bên cạnh có mạch, đường thông khí huyết. “Tà” không được vào, nếu không tim sẽ tổn thương”. Tâm bao kinh là bộ phận màng ngoài để bảo vệ tim, cũng là đường thông khí huyết. Tâm bao kinh vào giờ Tuất vượng nhất, giúp loại bỏ những nhân tố gây bệnh xung quanh tim để tim đạt trạng thái tốt nhất. Lúc này cần giữ tâm trạng đặc biệt thoải mái, có thể đọc sách, nghe nhạc, đi spa, khiêu vũ… để thả lỏng tâm trạng, giải tỏa áp lực.
10. Thủ thiếu dương tam tiêu kinh
Giờ Hợi (21 – 23 giờ): Tam tiêu kinh vượng, là giờ thông bách mạch.
Tam tiêu là tạng phủ lớn nhất trong lục phủ ngũ tạng, chủ về khí và có công dụng thông nước. Giờ hợi tam tiêu có thể thông bách mạch, vì thế ngủ vào giờ này là cách dưỡng sinh rất tốt, có lợi cho sức khỏe và giữ dung nhan. Đặc điểm chung của nhiều người già là ngủ vào giờ Hợi. Người hiện đại nếu không thể ngủ vào giờ này thì nên nghe nhạc, đọc sách, xem phim, luyện yoga. Tuy nhiên tốt nhất là không để qua giờ hợi mới ngủ.

11. Túc thiếu dương đảm kinh
Giờ Tý (23 – 1 giờ): Đảm kinh vượng. Giờ Tý ngủ đủ thì không bị thâm quầng mắt.
Lý luận Trung y cho rằng: “Khí dư của gan tiết vào mật, tụ lại thành tinh (dịch mật)”. Người ngủ trước giờ Tý thì mật hoàn thành trao đổi chất. Dịch mật sung túc thì não bộ tỉnh táo. Người ngủ trước giờ Tý thì sáng dậy đầu óc minh mẫn, khí sắc hồng hào, không bị thâm quầng mắt. Ngược lại, trong giờ Tý không ngủ thì khí sắc nhợt nhạt, thâm vành mắt. Ngoài ra, vì dịch mật thải độc không tốt nên dễ kéo theo kết tinh, kết thạch (sỏi mật).

12. Túc quyết âm can kinh
can-kinh
Túc quyết âm can kinh
Giờ Sửu (1 – 3 giờ): Can kinh vượng. Theo lý luận Trung y: can tàng huyết, khi nằm máu về can.
Nếu giờ Sửu không ngủ thì can sẽ tiếp tục phải chuyển vận năng lượng kích thích tư duy và hành động, việc trao đổi chất bị ảnh hưởng. Vì thế trước giờ Sửu không đi vào giấc ngủ thì sắc mặt xanh xám, tâm trạng uể oải, dễ bị bệnh gan và mặt đốm rỗ.
Chứng hư: Khả năng miễn nhiễm của da suy giảm, trời lạnh tay chân dễ tê lạnh, cổ họng khô, ho khan…
Chứng thực: Hơi thở không thông, cổ họng khó chịu, tức ngực, thở khò khè, viêm amidan, ho, đau mỏi vai, dễ bị bệnh trĩ…
Dưỡng sinh: Lúc này cơ thể cần nhiều dưỡng khí, cần thở sâu, vì thế mà phải ngủ sâu. Nếu lúc này không thể ngủ thì tốt nhất hãy uống ly nước ấm cho cơ thể dễ chịu và để phổi không bị khô.
Theo NTDTV

50 tư thế tạo dáng chụp hình chân dung đẹp cho nữ


   Trang Digitalcameraworld đưa ra một số gợi ý về các tư thế cho người được chụp trong phong cách truyền thống, với ảnh toàn thân, ảnh ngồi, ảnh đứng, ảnh chụp từ trên xuống, ảnh chụp chỉ phần đầu và ảnh chụp ngang vai.


Các bạn có thể xem gợi ý cách tạo 50 dáng ở bên dưới đây
















06/11/2015

Không quân Việt Nam hiện tại

Loạt infographic sau đây sẽ đem lại một cái nhìn toàn cảnh về các loại máy bay và vũ khí, trang thiết bị kèm theo mà Không quân Nhân dân Việt Nam đang sở hữu.

Các tiêm kích Su-30MK2 và Su-27 là những chiếc chiến đấu cơ mạnh mẽ và hiện đại nhất Không quân Nhân dân Việt Nam hiện nay. Hiện Không quân Nhân dân Việt Nam có trong biên chế 11 chiếc Su-27 và 36 Su-30MK/MK2 (gồm cả số đang chờ nhận từ Nga).
Tuy Su-27/30 là chiến đấu cơ hiện đại nhất nhưng chiếm số lượng máy bay chiến đấu đông đảo nhất trong Không quân Nhân dân Việt Nam lại là các máy bay Su-22 và MiG-21. Su-22 và MiG-21 từng là hai mẫu chiến đấu cơ mạnh mẽ nhất của Không quân Nhân dân Việt Nam trước khi Su-27 bắt đầu phục vụ.
Bên cạnh các chiến đấu cơ, Không quân Nhân dân Việt Nam còn sở hữu các máy bay huấn luyện 2 chỗ ngồi cũng có khả năng chiến đấu khi cần. Quan chức Nga khẳng định Việt Nam đã đặt hàng máy bay huấn luyện chiến đấu Yak-130 hiện đại.
Về trang bị trực thăng, đóng vai trò chủ lực trong Không quân Nhân dân Việt Nam là các máy bay trực thăng đa nhiệm Mi-8/17.  Mi-171 là biến thể trực thăng Mi-8 hiện đại nhất trong số máy bay Mi-8/17 của Việt Nam.
 Ngoài họ Mi-8/17, Không quân Nhân dân Việt Nam còn sở hữu hơn 20 chiếc trực thăng tấn công Mi-24 huyền thoại có khả năng tiêu diệt xe tăng. Việt Nam cũng có số lượng nhỏ (khoảng 12-15 chiếc) trực thăng đa dụng UH-1H do Mỹ sản xuất, ta thu được sau năm 1975.
 Trước năm 2013, các trực thăng hải quân Ka-28 và Ka-32 nằm trong biên chế Trung đoàn 954, Không quân Nhân dân Việt Nam.   Ka-28 hiện là máy bay săn ngầm chủ lực của Không quân Hải quân Việt Nam.
 Ngoài các loại trực thăng phục vụ nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, Không quân Nhân dân Việt Nam còn có trong trang bị một số máy bay bay dịch vụ.   Các máy trực thăng đa nhiệm EC-155, EC-225 do hãng Eurocopter (châu Âu) sản xuất, thuộc biên chế Binh đoàn 18 (tức Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam). 
 Nòng cốt lực lượng máy bay vận tải Không quân Nhân dân Việt Nam hiện nay gồm chủ yếu vận tải cơ An-26 và An-2. An-26 bắt đầu phục vụ trong Không quân Nhân dân Việt Nam từ đầu những năm 1980 với vai trò chuyển quân, chuyển hàng hóa và có lúc được cải tiến để ném bom.
 Tương lai, máy bay vận tải C-295 và C-212 thế hệ mới sẽ thay thế dần dàn An-26 vốn “tuổi cao, sức yếu” trong Không quân Nhân dân Việt Nam. C-295 có thể là "xương sống" không quân vận tải Việt Nam trong tương lai gần.

05/11/2015

Mấy điều lưu ý khi ngâm chân mùa Đông

Mùa đông sắp đến, hãy dành một chút thời gian sưởi ấm đôi chân của bạn để máu lưu thông nhanh hơn, đôi chân của bạn sẽ khỏe mạnh hơn trong mùa đông lạnh giá sắp tới.
1. Không ngâm chân khi ăn quá no hay quá đói
Khi ngâm chân tránh những lúc ăn quá no hay quá đói, bởi ngâm chân sẽ làm máu lưu thông nhanh hơn, sẽ dễ rơi vào tình trạng chóng mặt. Tốt nhất đợi 30 phút sau khi ăn cơm mới ngâm chân, sẽ không ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho dạ dày.
2. Trẻ con không cần ngâm chân
Cơ thể trẻ con vốn dễ bị nóng, dễ sốt. Nếu như dùng nước nóng để ngâm chân, ra mồ hôi thì nóng càng thêm nóng. Đặc biệt là trẻ nhỏ, sự phản ứng với nhiệt độ không như của người lớn, người lớn cảm thấy vừa ấm nhưng với trẻ nhỏ thì rất nóng mà trẻ nhỏ lại không biết cách biểu đạt suy nghĩ của mình. Do đó không nên dùng nước nóng ngâm chân cho trẻ. Mỗi ngày chỉ cần lấy nước ấm rửa sạch chân, sau đó mát xa chân cho trẻ.
3. Người tiểu đường nên chú ý nhiệt độ nước
Người mắc bệnh tiểu đường phải chú ý nhiệt độ của nước, bởi người mắc bệnh này sẽ khiến dây thần kinh phản ứng với nhiệt độ của nước không bình thường, cho dù nhiệt độ nước rất cao nhưng họ cũng không cảm nhận được, do đó sẽ dễ bị bỏng và một số hậu quả khác.
4. Người mắc bệnh nấm chân phải cẩn thận tránh bị nhiễm trùng
Người mắc bệnh nấm chân khi bệnh tình nghiêm trọng không nên dùng nước nóng ngâm chân, bởi như vậy vết thương rất dễ bị nhiễm trùng.
5. Người già không nên ngâm chân quá lâu
Người cao tuổi khi ngâm chân quá lâu sẽ dẫn đến tình trạng bị đổ mồ hôi, căng thẳng. Do đó, mỗi ngày trước khi đi ngủ người cao tuổi chỉ nên ngâm chân không quá 20 phút.
6. Những người mắc bệnh tim mạch, suy tim, huyết áp thấp, người hay hoa mắt, chóng mặt nên chú ý.
Những người mắc bệnh tim mạch, suy tim, huyết áp thấp, người hay hoa mắt, chóng mặt đều không nên dùng nước quá nóng hay ngâm chân quá lâu. Bởi khi ngâm trong nước quá nóng hay quá lâu các mạch máu sẽ giãn nở, máu dồn về các mạch máu dưới da, từ đó dẫn đến tình trạng thiếu ô xy và thiếu máu cục bộ tại các cơ quan quan trọng như não, tim, não … như vậy nguy cơ tái phát bệnh tim hay huyết áp thấp sẽ tăng cao.
Làm thế nào để ngâm chân hiệu quả?
Bước 1: Hãy ngồi ngay ngắn, hai chân duỗi thẳng phía trước, hai tay thả lỏng, hít thở đều. Lưng thẳng hơi ngả phía sau. Hai chân giữ thẳng hướng về phía trước, xoay khớp cổ chân ít nhất 10 lần.
Bước 2: Lưng thẳng hơi ngả về phía sau. Lấy mắt cá chân làm trọng tâm cố gắng xoay chân trước sau ít nhất 10 lần.
Bước 3: Xoay đều 2 bàn chân ít nhất 10 lần. Đầu tiên xoay hai bàn chân theo chiều kim đồng hồ và ngược lại; tiếp theo đó xoay chân trái theo chiều kim đồng hồ, chân phải theo ngược chiều kim đồng hồ và ngược lại.
9 giờ tối là khoảng thời gian lý tưởng cho việc ngâm chân. Nhưng các bạn hãy lưu ý sáu trường hợp nêu trên để ngâm chân có tác dụng tốt nhất và tránh những trường hợp đáng tiếc xảy ra.

Nguồn: Weixin
Người dịch: Trâm Vũ

04/11/2015

Thực hành 7 câu nói hằng ngày.

Hằng ngày luôn ghi nhớ  và thực hành 7 câu nói dưới đây để trở thành người Tốt hơn.
Một câu nói chân thực:
1.        Trân quý sinh mệnh, vui vẻ với cuộc đời
Hai câu nói thành tâm:
1.        Đừng để ngoại vật sai khiến tâm linh của mình
2.        Đừng để tiền bạc thay thế tình thân
Ba câu nói lương tâm:
1.        Hiếu kính tốt cha mẹ, bởi vì họ là người đã sinh ra và dưỡng dục mình
2.        Bồi dưỡng tốt con cái, bởi vì chúng mới chính là hy vọng của mình
3.        Hòa thuận tốt với vợ, chồng bởi vì họ mới chính là người ở bên mình cả đời
Bốn câu nói nội tâm
1.        Dù sống vừa mệt vừa khổ cũng phải nở một nụ cười
2.        Những sự tình không như ý trong cuộc đời thường là 8 -9 phần, đừng nhìn vào 8-9 phần này mà hãy nghĩ đến 1-2 phần còn lại.
3.        Thường xuyên gột rửa tâm linh, loại bỏ tro bụi
4.        Học cách sống đơn giản, đơn giản là một loại tưởng bình thường mà lại không bình thường
Năm câu nói tri tâm
1.        Đừng vì việc nhỏ mà phải so đo
2.        Đừng vì tiền bạc mà chịu phiền não
3.        Đừng vì tham lam mà bị che phủ
4.        Đừng vì tình cảm mà làm phức tạp
5.        Đừng tìm người khác để đi so sánh
Sáu câu danh ngôn
1.        Tin tưởng bản thân, hãy mỉm cười để đón nhận mọi thử thách của cuộc đời.
2.        Khích lệ chính mình, dùng hành động và sự cố gắng để chứng minh bản thân mình không thua kém người khác.
3.        Ủng hộ chính mình, khiến mình luôn bảo trì một lòng hướng lên
4.        Tôi luyện chính mình để tâm tính của mình luôn bảo trì sự thanh thản
5.        Hoàn thiện chính mình để mình trở thành hoàn mỹ
6.        Quên đi chính mình để nhanh chóng tìm được con đường đến với Phật
Bảy câu nói của người xưa
1.        Đừng so sánh, đừng tự giận mình
2.        Làm nhiều, nói ít, trong tâm cân bằng
3.        Ăn ít muối, ăn nhiều chua, ít chơi bài bạc, đi bộ nhiều
4.        Ngủ đúng giờ, dậy đúng giờ, rèn luyện thể dục thể thao
5.        Vợ chồng yêu thương nhau, con cái hiếu thảo, coi trọng gia đình
6.        Hành thiện, tích đức, trong lòng hướng Phật

7.        Chịu một chút thiệt thòi, một chút khổ, ngốc một chút, ngốc cũng là phúc. 

03/11/2015

KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN (Tứ Diệu Đế)

Dhammcakkappavattana sutta



Giới thiệu: Ðây là bài Pháp đầu tiên Ðức Phật thuyết giảng cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển sau khi Ngài đắc đạo. Bài Pháp nầy tóm tắt các điểm chính yếu của Ðạo Giải Thoát, đó là Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo.
Sau đây là bản dịch của Phạm Kim Khánh trong quyển "Ðức Phật và Phật Pháp", nguyên tác của Hòa Thượng Narada (The Buddha and His Teachings). Ngoài ra, còn có một bản dịch khác của Hòa Thượng Thích Minh Châu trong Tương Ưng Bộ Kinh do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (Chùa Vạn Hạnh) xuất bản năm 1993, và một bản lược dịch của HT Thích Thiện Châu (xem phần cuối).
-oOo-

Lúc ấy tôi có nghe như thế này:
Một thời nọ, lúc Ðức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Uyển (1) xứ Isipatana (2), gần Benares, Ngài dạy năm vị tỳ khưu như sau:
"Hỡi nầy các Tỳ Khưu, có hai cực đoan (anta) mà hàng xuất gia (pabbajitena) phải tránh:
1.   Sự dể duôi trong dục lạc (3) -- là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhơn, và vô ích.
2.   Sự thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh (4) -- là đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhơn, và vô ích.
Từ bỏ cả hai cực đoan ấy, Như Lai (5) đã chứng ngộ con đường Trung Ðạo (Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan (cakkhu) và tri kiến (nana) và đưa đến an tịnh (vupasamaya) (6), trí tuệ cao siêu (abhinnãya) (7), giác ngộ (sambhodhaya) (6) và Niết Bàn.
Hỡi các Tỳ Khưu, con đường Trung Ðạo mà Như Lai đã chứng ngộ, con đường đem lại nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết Bàn là gì?
Chính là Bát Chánh Ðạo (con đường có tám chi) -- là Chánh Kiến (samma ditthi), Chánh Tư Duy (samma samkappa), Chánh Ngữ (samma vaca), Chánh Nghiệp (samma kammanta), Chánh Mạng (samma ajiva), Chánh Tinh Tấn (samma vayama), Chánh Niệm (samma sati), và Chánh Ðịnh (samma samadhi). Hỡi này các Tỳ Khưu, đó là con đường Trung Ðạo mà Như Lai đã chứng ngộ.
(Ðức Phật giảng tiếp:)
Hỡi này các Tỳ Khưu, bây giờ, đây là Chơn Lý Cao Thượng về Sự Khổ (dukkha - ariya - sacca, khổ thánh đế):
Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, tử là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ, tóm lại chính thân ngủ uẩn là khổ (9).
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây là Chơn Lý Cao Thượng về Nguồn Gốc của Sự Khổ (dukkha-samudaya-ariya-sacca, tập khổ thánh đế):
Chính Ái Dục là nguyên nhân của sự tái sanh (ponobhavika). Ái hợp với tâm thiết tha khao khát, bám víu cái nầy hay cái kia (đời sống). Chính là Ái, đeo níu theo nhục dục ngũ trần (kamatanha), ái, đeo níu theo sự sinh tồn (bhavatanha, sanh ái, luyến ái trong ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu), và ái, đeo níu theo ý tưởng không sinh tồn (vibhavatanha, vô sanh ái, luyến ái trong ý tưởng cho rằng sau cái chết là hư vô).
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây là Chơn Lý Cao Thượng về Sự Diệt Khổ (dukkha-nirodha-ariya-sacca, diệt khổ thánh đế):
Ðó là sự xa lánh trọn vẹn và sự tận diệt chính cái ái ấy. Ðó là sự rời bỏ, sự từ khước, sự thoát ly, và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục.
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây là Chơn Lý về Con Ðường dẩn đến Sự Diệt Khổ (dukkha-nirodha-gamini-patipada-ariya-sacca, đạodiệt khổ thánh đế):
Ðó là Bát Chánh Ðạo: Chánh Kiến , Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn , Chánh Niệm, và Chánh Ðịnh.
I-1) Ðây là Khổ Thánh Ðế
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
I-2) Khổ Thánh Ðế này phải được nhận thức (parinneya)
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
I-3) Khổ Thánh Ðế này đã được nhận thức (parinnata).
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
II-1) Ðây là Tập Khổ Ðế
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
II-2) Tập Khổ Ðế nầy phải được tận diệt (pahatabba)
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
II-3) Tập Khổ Thánh Ðế này đã được tận diệt (pahinam)
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
III-1) Ðây là Diệt Khổ Thánh Ðế
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
III-2) Diệt Khổ Thánh Ðế nầy phải được chứng ngộ (sacchikatabba)
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
III-3) Diệt Khổ Chánh Ðế nầy đã được chứng ngộ (sacchikatam)
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
IV-1) Ðây là Ðạo Diệt Khổ Thánh Ðế
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
IV-2) Ðạo Diệt Khổ Thánh Ðế nầy phải được phát triển (bhavetabbam)
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
IV-3) Ðạo Diệt Khổ Thánh Ðế nầy đã được phát triển (bhavitam)
Như vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
(Ðể kết luận bài Pháp, Ðức Phật, dạy:)
Hỡi này các Tỳ Khưu , ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức (10) chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn, Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác (anuttaram samma sambodhim)
Ðến khi, hỡi này các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ thì, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn, Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Và lúc ấy tri kiến và tuệ giác phát sanh đến Như Lai (nanadassana) -- Tâm của Như Lai đã hoàn toàn giải thoát một cách vững chắc, không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống cuối cùng, không còn sinh tồn nào khác nữa (11)."
Ðức Phật giảng như thế ấy và các vị Tỳ Khưu lấy làm hoan hỷ tán dương lời dạy của Ðức Thế Tôn.
Khi Ðức Phật giảng xong bài Pháp, Pháp Nhãn (Dhammacakkhu) (12) của Ngài Kiều-Trần-Như (Kondanna) không còn vướng bụi, hết bợn nhơ, và Ngài thấy rằng: "cái gì có sanh tức phải có diệt " (13).
Lúc Ðức Thế Tôn chuyển Pháp Luân, chư Thiên trên quả địa cầu hoan hô: "Pháp luân này quả thật tuyệt diệu! Không có sa môn, bà la môn, chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên nào trên thế gian có thể giảng được, Ðức Thế Tôn đã vận chuyển Pháp Luân tại vườn Lộc Uyển, chổ Chư-Thiên-Ðọa Xứ (Isipatana) gần Ba-La-Nại (Benares)."
Nghe như vậy chư thiên ở các cung Trời Tứ Ðại Thiên Vương, Ðao Lợi, Dạ Ma, Ðâu Xuất Ðà, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại, và chư Thiên ở cõi Phạm Chúng Thiên, Brahma Purohita, Ðại Phạm Thiên, Thiều Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên, Thiều Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Quang Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiên Thiên, và chư Thiên ở cảnh giới Hoàn Toàn Tinh Khiết, cảnh giới Trường Cửu, Thanh Tịnh, Ðẹp Ðẽ, Quang Ðảng và Tối Thượng, cũng đồng thanh hoan hô.
Chính tại lúc ấy, trong khoảnh khắc ấy, tiếng hoan hô thấu đến cỏi Phạm Thiên. Mười ngàn thế giới ấy chấn động, lung lay và rung chuyển mạnh mẽ.
Một hào quang rực rỡ phát chiếu, rọi sáng thế gian, sáng tỏ hơn hào quang của chư Thiên nhiều. Ðức Thế Tôn nói: "Kondanna quả đã chứng ngộ, Kondanna quả đã chứng ngộ ".
Do đó Ngài Kondanna có tên là Annata Kondanna (A nhã Kiều Trần Như).
Kinh Chuyển Pháp Luân
Dhammcakkappavattana sutta


Chú thích:
1.        Mahavagga tr. 10, Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ), quyển V, trang 420.
2.        Hiện nay là Sarnath, nơi mà, trong một tiền kiếp. Ðức Thế Tôn đã hy sinh mạng sống để cứu một con thỏ cái đang lâm nạn cùng với một thỏ con chưa sanh. Trong kiếp sống ấy Bồ Tát có tên là Saranganatha, người bảo vệ loài nai, do đó có tên hiện tại của nơi nầy là Sarnath.
3.        Kamasukhallikanuyoga.
4.        Attakilamathanuyoga.
5.        Ðúng theo nghĩa "Người đã đến như thế ấy" hay "Người đã đi như thế ấy." Ðức Phật thường dùng hình dung từ nầy để tự xưng.
6.        Chế ngự dục vọng.
7.        Chứng ngộ Tứ Diệu Ðế.
8.        Thành đạt bốn đạo và bốn quả.
9.        Pancupadanakkhandha -- Theo Phật Giáo, cái được gọi là chúng sanh gồm năm nhóm hay năm uẩn là: Sắc (rupa, vật chất), Thọ (Vedana), Tưởng (sanna), Hành (samkhara) và Thức (Vinnana). Ðó là năm thành phần tâm-vật-lý cấu tạo nên một chúng sanh. Săc gồm những năng lực và đặc tánh. Tâm gồm những trạng thái tâm (cetasikas, tâm sở). Có tất cả năm mươi hai tâm sở. Trong năm mươi hai tâm sở ấy, Thọ (vedanna) và Tưởng (sanna) được kể như hai nhóm riêng biệt. Năm mươi tâm sở còn lại được gọi chung là Hành (samkhara).
10.   Mỗi Ðế có ba sắc thái, vậy bốn Ðế gồm tất cả mười hai phương thức.
11.   Ám chỉ quả vị A La Hán (arahattaphala).
12.   Dhammacakkhu - Pháp Nhãn - Có nghĩa là một trong ba thánh đạo: Tu Ðà Hườn, Tư Dà Hàm, và A Na Hàm. Lúc ấy ngài Kiều Trần Như đắc quả Tu Ðà Hườn. Về sau các vị kia cũng đắc Tu Ðà Hườn như vậy.
13.   Yam kinci Samudayadhammam sabbam tam nirodha dhammam.


Chân thành cám ơn anh TABTT đã có thiện tâm đánh máy lại bài kinh nầy .


Bản lược dịch của HT Thích Thiện Châu:

Kinh Chuyển Pháp Luân
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế tôn ở trong Lộc Uyển, tại I-si-pa-ta-na, gần Bâ-râ-nâ-si. Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói với đoàn năm Tỳ kheo rằng:
Có hai điều cực đoan mà người xuất gia không nên làm theo. Những gì là hai? Một là đắm say dục lạc thấp hèn, đê tiện, phàm phu, không ích lợi, không cao cả. Hai là lao mình trong khổ hạnh, đau khổ, không cao cả, không ích lợi.
Này các Tỳ kheo, xa lánh hai điều cực đoan này. Như Lai chánh giác chứng ngộ Trung đạo, phát sinh sự thấy, sự hiểu, đưa đến an tịnh, thắng trí, Niết bàn.
Này các Tỳ kheo, thế nào là Trung đạo do Như lai chánh giác chứng ngộ, phát sinh sự thấy, sự hiểu, đưa đến an tịnh, thắng trí, Niết bàn? Ðó là Thánh đạo tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này các Tỳ kheo, tâm Thánh đạo này là Trung đạo do Như Lai chánh giác chứng ngộ, phát sinh sự thấy, sự hiểu, đưa đến an tịnh, thắng trí, Niết bàn.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, oán thù tụ hội là khổ, thương yêu biệt ly là khổ, mong cầu không được là khổ; tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.
Này các Tỳ kheo. Ðây là thánh đế về Khổ nhân: chính ái dục dẫn đến tái sanh, do ái cấu kết với hỷ và tham, tìm kiếm thú vui nơi này chỗ khác; tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ diệt: chính là ly tham đoạn diệt hoàn toàn, xả bỏ, giải thoát, không chấp trước ái dục.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt: chính là Thánh đạo tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ cần phải hiểu rõ, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ đã được hiểu rõ, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ nhân, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ nhân cần phải đoạn trừ, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ nhân đã được đoạn trừ, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ diệt, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ diệt đã được chứng đạt, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt, đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt đã được tu tập, là điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này các Tỳ kheo, cho đến khi nào tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba chuyển, mười hai tướng như trên không hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta không tự nhận chứng đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong thế giới với chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên, quần chúng Sa môn, Bà La Môn, Trời và Người.
Này các Tỳ kheo, khi nào mà tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba chuyển và mười hai tướng hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta mới tự nhận đã chứng đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong thế giới với chư Thiên, Ma Vương, Phạm Thiên, quần chúng Sa môn, Bà La Môn, Trời và Người. Bấy giờ, tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta; đây là lần sinh cuối cùng, Ta không tái sinh nữa".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, đoàn năm Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ lời Phật dạy. Trong lúc nghe pháp, Tôn giả Kondanna khởi lên pháp nhãn thanh tịnh không ô nhiễm như sau: "Tất cả các pháp do nhân duyên khởi ra đều bị hoại diệt".
HT Thích Thiện Châu lược dịch