Dhammcakkappavattana sutta
Giới thiệu: Ðây là bài Pháp đầu tiên Ðức Phật thuyết giảng cho năm
anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển sau khi Ngài đắc đạo. Bài Pháp nầy tóm
tắt các điểm chính yếu của Ðạo Giải Thoát, đó là Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo.
Sau đây là bản dịch của Phạm Kim Khánh trong quyển "Ðức Phật
và Phật Pháp", nguyên tác của Hòa Thượng Narada (The Buddha and His
Teachings). Ngoài ra, còn có một bản dịch khác của Hòa Thượng Thích Minh Châu
trong Tương Ưng Bộ Kinh do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (Chùa Vạn Hạnh)
xuất bản năm 1993, và một bản lược dịch của HT Thích Thiện Châu (xem phần cuối).
-oOo-
Lúc
ấy tôi có nghe như thế này:
Một
thời nọ, lúc Ðức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Uyển (1) xứ Isipatana (2), gần
Benares, Ngài dạy năm vị tỳ khưu như sau:
"Hỡi
nầy các Tỳ Khưu, có hai cực đoan (anta) mà hàng xuất gia (pabbajitena) phải
tránh:
1.
Sự
dể duôi trong dục lạc (3) -- là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm
hạnh của bậc Thánh nhơn, và vô ích.
2.
Sự
thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh (4) -- là đau khổ, không xứng phẩm hạnh
của bậc Thánh nhơn, và vô ích.
Từ
bỏ cả hai cực đoan ấy, Như Lai (5) đã chứng ngộ con đường Trung Ðạo (Majjhima
Patipada), là con đường đem lại nhãn quan (cakkhu) và tri kiến (nana) và đưa
đến an tịnh (vupasamaya) (6), trí tuệ cao siêu (abhinnãya) (7), giác ngộ
(sambhodhaya) (6) và Niết Bàn.
Hỡi
các Tỳ Khưu, con đường Trung Ðạo mà Như Lai đã chứng ngộ, con đường đem lại
nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết
Bàn là gì?
Chính
là Bát Chánh Ðạo (con đường có tám chi) -- là Chánh Kiến
(samma ditthi), Chánh Tư Duy (samma samkappa), Chánh Ngữ (samma vaca), Chánh
Nghiệp (samma kammanta), Chánh Mạng (samma ajiva), Chánh Tinh Tấn (samma
vayama), Chánh Niệm (samma sati), và Chánh Ðịnh (samma samadhi). Hỡi này các Tỳ
Khưu, đó là con đường Trung Ðạo mà Như Lai đã chứng ngộ.
(Ðức Phật giảng tiếp:)
Hỡi
này các Tỳ Khưu, bây giờ, đây là Chơn Lý Cao Thượng về Sự Khổ (dukkha
- ariya - sacca, khổ thánh đế):
Sanh
là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, tử là khổ, sống chung với người mình không ưa
thích là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ, tóm
lại chính thân ngủ uẩn là khổ (9).
Bây
giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây là Chơn Lý Cao Thượng về Nguồn Gốc của Sự
Khổ (dukkha-samudaya-ariya-sacca, tập khổ thánh đế):
Chính
Ái Dục là nguyên nhân của sự tái sanh (ponobhavika). Ái hợp với tâm thiết tha
khao khát, bám víu cái nầy hay cái kia (đời sống). Chính là Ái, đeo níu theo
nhục dục ngũ trần (kamatanha), ái, đeo níu theo sự sinh tồn (bhavatanha, sanh
ái, luyến ái trong ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu), và ái, đeo
níu theo ý tưởng không sinh tồn (vibhavatanha, vô sanh ái, luyến ái trong ý
tưởng cho rằng sau cái chết là hư vô).
Bây
giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây là Chơn Lý Cao Thượng về Sự Diệt Khổ (dukkha-nirodha-ariya-sacca, diệt khổ
thánh đế):
Ðó
là sự xa lánh trọn vẹn và sự tận diệt chính cái ái ấy. Ðó là sự rời bỏ, sự từ
khước, sự thoát ly, và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục.
Bây
giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây là Chơn Lý về Con Ðường dẩn đến Sự Diệt
Khổ (dukkha-nirodha-gamini-patipada-ariya-sacca, đạodiệt
khổ thánh đế):
Ðó
là Bát Chánh Ðạo: Chánh Kiến , Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng, Chánh Tinh Tấn , Chánh Niệm, và Chánh Ðịnh.
I-1)
Ðây là Khổ Thánh Ðế
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
I-2)
Khổ Thánh Ðế này phải được nhận thức (parinneya)
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
I-3)
Khổ Thánh Ðế này đã được nhận thức (parinnata).
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
II-1)
Ðây là Tập Khổ Ðế
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
II-2)
Tập Khổ Ðế nầy phải được tận diệt (pahatabba)
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
II-3)
Tập Khổ Thánh Ðế này đã được tận diệt (pahinam)
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
III-1)
Ðây là Diệt Khổ Thánh Ðế
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
III-2)
Diệt Khổ Thánh Ðế nầy phải được chứng ngộ (sacchikatabba)
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
III-3)
Diệt Khổ Chánh Ðế nầy đã được chứng ngộ (sacchikatam)
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
IV-1)
Ðây là Ðạo Diệt Khổ Thánh Ðế
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
IV-2)
Ðạo Diệt Khổ Thánh Ðế nầy phải được phát triển (bhavetabbam)
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
IV-3)
Ðạo Diệt Khổ Thánh Ðế nầy đã được phát triển (bhavitam)
Như
vậy, hỡi này các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng phát sanh đến Như Lai.
(Ðể kết luận bài Pháp, Ðức Phật, dạy:)
Hỡi
này các Tỳ Khưu , ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn
pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức (10)
chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước
thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn,
Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác (anuttaram samma sambodhim)
Ðến
khi, hỡi này các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp
thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ
thì, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma
Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn, Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như
Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Và
lúc ấy tri kiến và tuệ giác phát sanh đến Như Lai (nanadassana) -- Tâm của Như
Lai đã hoàn toàn giải thoát một cách vững chắc, không còn lay chuyển, và đây là
kiếp sống cuối cùng, không còn sinh tồn nào khác nữa (11)."
Ðức
Phật giảng như thế ấy và các vị Tỳ Khưu lấy làm hoan hỷ tán dương lời dạy của
Ðức Thế Tôn.
Khi
Ðức Phật giảng xong bài Pháp, Pháp Nhãn (Dhammacakkhu) (12) của Ngài
Kiều-Trần-Như (Kondanna) không còn vướng bụi, hết bợn nhơ, và Ngài thấy rằng:
"cái gì có sanh tức phải có diệt " (13).
Lúc
Ðức Thế Tôn chuyển Pháp Luân, chư Thiên trên quả địa cầu hoan hô: "Pháp
luân này quả thật tuyệt diệu! Không có sa môn, bà la môn, chư Thiên, Ma Vương
hay Phạm Thiên nào trên thế gian có thể giảng được, Ðức Thế Tôn đã vận chuyển
Pháp Luân tại vườn Lộc Uyển, chổ Chư-Thiên-Ðọa Xứ (Isipatana) gần Ba-La-Nại
(Benares)."
Nghe
như vậy chư thiên ở các cung Trời Tứ Ðại Thiên Vương, Ðao Lợi, Dạ Ma, Ðâu Xuất
Ðà, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại, và chư Thiên ở cõi Phạm Chúng Thiên, Brahma
Purohita, Ðại Phạm Thiên, Thiều Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm
Thiên, Thiều Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Quang Quả Thiên,
Vô Tưởng Thiên, Vô Phiên Thiên, và chư Thiên ở cảnh giới Hoàn Toàn Tinh Khiết,
cảnh giới Trường Cửu, Thanh Tịnh, Ðẹp Ðẽ, Quang Ðảng và Tối Thượng, cũng đồng
thanh hoan hô.
Chính
tại lúc ấy, trong khoảnh khắc ấy, tiếng hoan hô thấu đến cỏi Phạm Thiên. Mười
ngàn thế giới ấy chấn động, lung lay và rung chuyển mạnh mẽ.
Một
hào quang rực rỡ phát chiếu, rọi sáng thế gian, sáng tỏ hơn hào quang của chư
Thiên nhiều. Ðức Thế Tôn nói: "Kondanna quả đã chứng ngộ, Kondanna quả đã
chứng ngộ ".
Do
đó Ngài Kondanna có tên là Annata Kondanna (A nhã Kiều Trần Như).
Kinh Chuyển Pháp Luân
Dhammcakkappavattana sutta
Chú thích:
1.
Mahavagga tr. 10, Samyutta Nikaya (Tương
Ưng Bộ), quyển V, trang 420.
2.
Hiện nay là Sarnath, nơi mà, trong một
tiền kiếp. Ðức Thế Tôn đã hy sinh mạng sống để cứu một con thỏ cái đang lâm nạn
cùng với một thỏ con chưa sanh. Trong kiếp sống ấy Bồ Tát có tên là
Saranganatha, người bảo vệ loài nai, do đó có tên hiện tại của nơi nầy là
Sarnath.
3.
Kamasukhallikanuyoga.
4.
Attakilamathanuyoga.
5.
Ðúng theo nghĩa "Người đã đến như thế ấy" hay
"Người đã đi như thế ấy."
Ðức Phật thường dùng hình dung từ nầy để tự xưng.
6.
Chế ngự dục vọng.
7.
Chứng ngộ Tứ Diệu Ðế.
8.
Thành đạt bốn đạo và bốn quả.
9.
Pancupadanakkhandha -- Theo Phật Giáo,
cái được gọi là chúng sanh gồm năm nhóm hay năm uẩn là: Sắc (rupa, vật chất),
Thọ (Vedana), Tưởng (sanna), Hành (samkhara) và Thức (Vinnana). Ðó là năm thành
phần tâm-vật-lý cấu tạo nên một chúng sanh. Săc gồm những năng lực và đặc tánh.
Tâm gồm những trạng thái tâm (cetasikas, tâm sở). Có tất cả năm mươi hai tâm
sở. Trong năm mươi hai tâm sở ấy, Thọ (vedanna) và Tưởng (sanna) được kể như
hai nhóm riêng biệt. Năm mươi tâm sở còn lại được gọi chung là Hành (samkhara).
10.
Mỗi Ðế có ba sắc thái, vậy bốn Ðế gồm tất
cả mười hai phương thức.
11.
Ám chỉ quả vị A La Hán (arahattaphala).
12.
Dhammacakkhu - Pháp Nhãn - Có nghĩa là
một trong ba thánh đạo: Tu Ðà Hườn, Tư Dà Hàm, và A Na Hàm. Lúc ấy ngài Kiều
Trần Như đắc quả Tu Ðà Hườn. Về sau các vị kia cũng đắc Tu Ðà Hườn như vậy.
13.
Yam kinci Samudayadhammam sabbam tam
nirodha dhammam.
Chân thành cám ơn anh TABTT đã có thiện tâm đánh máy lại bài kinh
nầy .
Bản lược dịch của HT Thích Thiện Châu:
Kinh Chuyển Pháp Luân
Tôi
nghe như vầy: Một thời Thế tôn ở trong Lộc Uyển, tại I-si-pa-ta-na, gần
Bâ-râ-nâ-si. Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói với đoàn năm Tỳ kheo rằng:
Có
hai điều cực đoan mà người xuất gia không nên làm theo. Những gì là hai? Một là
đắm say dục lạc thấp hèn, đê tiện, phàm phu, không ích lợi, không cao cả. Hai
là lao mình trong khổ hạnh, đau khổ, không cao cả, không ích lợi.
Này
các Tỳ kheo, xa lánh hai điều cực đoan này. Như Lai chánh giác chứng ngộ Trung
đạo, phát sinh sự thấy, sự hiểu, đưa đến an tịnh, thắng trí, Niết bàn.
Này
các Tỳ kheo, thế nào là Trung đạo do Như lai chánh giác chứng ngộ, phát sinh sự
thấy, sự hiểu, đưa đến an tịnh, thắng trí, Niết bàn? Ðó là Thánh đạo tám ngành,
tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng,
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này
các Tỳ kheo, tâm Thánh đạo này là Trung đạo do Như Lai chánh giác chứng ngộ,
phát sinh sự thấy, sự hiểu, đưa đến an tịnh, thắng trí, Niết bàn.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết
là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, oán thù tụ hội là khổ, thương yêu biệt ly là
khổ, mong cầu không được là khổ; tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.
Này
các Tỳ kheo. Ðây là thánh đế về Khổ nhân: chính ái dục dẫn đến tái sanh, do ái
cấu kết với hỷ và tham, tìm kiếm thú vui nơi này chỗ khác; tức là dục ái, hữu
ái, phi hữu ái.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ diệt: chính là ly tham đoạn diệt hoàn toàn,
xả bỏ, giải thoát, không chấp trước ái dục.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt: chính là Thánh đạo
tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ, là điều đối với các pháp từ trước chưa
từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ cần phải hiểu rõ, là điều đối với các pháp
từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang
sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ đã được hiểu rõ, là điều đối với các pháp
từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang
sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ nhân, là điều đối với các pháp từ trước
chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ nhân cần phải đoạn trừ, là điều đối với các
pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh,
quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ nhân đã được đoạn trừ, là điều đối với các
pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh,
quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ diệt, là điều đối với các pháp từ trước
chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ diệt đã được chứng đạt, là điều đối với các
pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh,
quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt, đối với các pháp từ
trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang
sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập, là
điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ
sinh, minh sinh, quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt đã được tu tập, là
điều đối với các pháp từ trước chưa từng nghe, nơi Ta nhãn sinh, trí sinh, tuệ
sinh, minh sinh, quang sinh.
Này
các Tỳ kheo, cho đến khi nào tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba chuyển,
mười hai tướng như trên không hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta không tự
nhận chứng đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong thế giới với chư Thiên, Ma
vương, Phạm Thiên, quần chúng Sa môn, Bà La Môn, Trời và Người.
Này
các Tỳ kheo, khi nào mà tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba chuyển và mười
hai tướng hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta mới tự nhận đã chứng đạt Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác trong thế giới với chư Thiên, Ma Vương, Phạm
Thiên, quần chúng Sa môn, Bà La Môn, Trời và Người. Bấy giờ, tri kiến khởi lên
nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta; đây là lần sinh cuối cùng, Ta
không tái sinh nữa".
Thế
Tôn thuyết giảng như vậy, đoàn năm Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ lời Phật dạy. Trong
lúc nghe pháp, Tôn giả Kondanna khởi lên pháp nhãn thanh tịnh không ô nhiễm như
sau: "Tất cả các pháp do nhân duyên khởi ra đều bị hoại diệt".
HT Thích Thiện Châu lược dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét