27/11/2015

Giả thích rõ hơn bản Hán văn của Kinh Bát Nhã

Tổng hợp trên internet và trải nghiệm.

Kinh Đại Bát Nhã, bản dịch Huyền Trang, thế kỷ thứ 8, 
Bảo tàng Quốc gia Kyoto

Bát-nhã Ba-la-mật-đa: (Bát-nhã: phiên âm từ chữ Prajna trong tiếng Phạn, có nghĩa là trí tuệ, sự sáng suốt + Ba-la-mật-đa: phiên âm từ Paramita của Phạn ngữ, có nghĩa là tuyệt hảo): Trí tuệ tuyệt hảo (perfect wisdom);
Ngũ uẩn: Năm thành phần cấu tạo nên một con người sống trên cõi trần:
1. Sắc: sắc tướng, vật thể, xác thân (Phạn ngữ: Rupa; Anh ngữ: material, body, matter);
2. Thụ (Thọ): cảm nhận, cảm giác (Phạn ngữ: vedana; Anh ngữ: feeling, sensation).
3. Tưởng: ý tưởng, ý nghĩ, sự mường tượng (Phạn ngữ: samjna; Anh ngữ: conception, thought, idea, imagination).
4. Hành: hành động, hành vi, quyết định làm điều gì (Phạn ngữ: samskara; Anh ngữ: volition, will, decision, determination). Hành là do Thụ và Tưởng mà có. Thí dụ như khi cảm thấy (thụ) đói thì quyết định (hành) ăn. Hay khi nghĩ (tưởng) người đó không bằng mình thì sinh ra (hành) ý khinh rẻ, v.v.  
5. Thức: Biết, nhận thức, ý thức, tri giác (Phạn ngữ: vijnana; Anh ngữ: conscious-ness, thought-faculty).
Trong ngũ uẩn thì xác thân được gọi là uẩn Sắc, vì có thể nhìn thấy. Còn 4 uẩn còn lại (thụ, tưởng, hành, thức) gọi là các uẩn Danh vì chỉ nghe tên gọi mà không nhìn thấy được. Người sống có 5 uẩn, trong khi các vong linh, vía nói riêng, chỉ có 4 uẩn danh, vì uẩn sắc, tức thân xác, sau khi chết đã không còn.
Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể được xem là bài kinh, chú phổ biến nhất của Phật giáo Đại thừa. Phật tử Việt trước nay vẫn niệm bài tâm kinh này, thường được cho là do ngài Đường tăng Huyền Trang dịch năm 649. Và cái quan niệm sắc sắc không không từ bao đời nay là từ kinh này mà có. Nhưng thật ra, đằng sau sự thân quen đã thành đời thường đó, bài tâm kinh này từ bao đời nay đã làm tốn nhiều giấy bút của các học giả nghiên cứu Phật học và Phạn ngữ trên thế giới.
 
Đường Tăng trở về từ Tây Trúc. Con voi trắng là quà tặng của vua Ấn Độ 
Harsha Vardhana.
Trên đường về gặp cướp, con voi hoảng sợ nhẩy xuống sông và chết đuối.
 Một số kinh do đó bị mất. Thế kỷ thứ 8, Đôn Hoàng, Trung Quốc. Ảnh Paul Getty Trust

Từ thế kỷ thứ 19 đã có nhiều học giả bỏ công sức ra nghiên cứu bài Bát nhã tâm kinh. Thí dụ như giáo sư Max Müller của Đại học Oxford, Anh Quốc, đã bắt đầu nghiên cứu bài tâm kinh này từ năm 1846. Bát-nhã Tâm kinh cũng là đề tài được khảo cứu sâu rộng bởi các hội nghiên cứu Phật học trên thế giới trước nay, như các hội  Bukkyo Dendo Kyokai (BDK) ở Nhật Bản, Viện Vipassana Research Institute (VRI) của Ấn Độ, Hội Pali Text Society của Sri Lanka, Taisho Chinese Buddhist Electronic Text Association (CBETA) ở Đài Loan, hay các nhóm phiên dịch Kanjur ở Tây Tạng, v.v.
Nổi tiếng nhất là Tiến sỹ Edward Conze (1904-1979). Ông cũng là giáo sư giảng dậy tại đại học Oxford.  Conze đã cất công tìm ra nhiều thủ bản hay bản khắc Phạn ngữ cổ của bài Bát nhã Tâm kinh, rồi năm 1947 đúc kết lại thành bản Tâm kinh Bát nhã Phạn ngữ phổ biến hiện nay.
Trong số các cổ bản Bát nhã tâm kinh Phạn ngữ, với 12 bản tìm được ở Nepal; 7 từ Trung Quốc; 2 từ Nhật Bản; 1 từ Tây Tạng, được ông Conze dùng để nghiên cứu, có bản được viết trên lá bối từ đầu thế kỷ thứ 6 và được lưu giữ tại đền Hōryū-ji, ở quận Nara, Nhật Bản, từ năm 609. Cũng có vài nguồn bên Trung Quốc phản bác niên đại này của bản văn, nhưng nó vẫn được xem là văn bản cổ nhất của Tâm kinh Bát nhã còn tồn tại đến giờ. Nếu niên đại do người Nhật và các học giả Tây phương công bố là đúng, thì văn bản này đã xuất hiện trước thời của Đường Tăng Trần Huyền Trang.
 
Bản sao hai lá bối chữ Phạn ở đền Hōryū-ji, Nhật Bản

Các bản Tâm kinh Bát nhã cổ bằng tiếng Phạn và tiếng Pali đều gần như đồng nhất với nhau, chỉ có vài tiểu tiết sai lạc đâu đó ở một vài chữ hay một vài nét viết nhầm.
Trong khi đó các bản dịch ra Hán văn thì khác nhau khá nhiều. Có điều lạ là các bản văn Phạn ngữ của bài tâm kinh này được viết với văn phong của Hán ngữ chứ không phải là của bản ngữ Phạn văn.
Bản Phạn ngữ ở động Đôn Hoàng, Thư viện Quốc gia Pháp

Hiện nay mọi sự chú tâm đều hướng vào 3 bản dịch ra Hán văn nổi trội nhất, được cho là của Chi Khiêm, tức Lokasema (222-252); Cưu Ma La Thập, tức Kumara-jiva (344-413); và Đường Huyền Trang (602-664). Nhất là 2 bản sau. Bản dịch Hán văn của ngài Huyền Trang được các nước Đồng văn xem là bài tiêu chuẩn.
Bản dịch của Huyền Trang là bản độc nhất gọi bài chú này là kinh (Sutra). Trong khi tất cả các bản dịch Hán văn khác đều gọi là chú (Dharani). Chi Khiêm dùng tên gọi Thần chú, Cưu Ma La Thập thì dùng danh xưng Đại thần chú. Nhưng đọc toàn bài thì thấy quả là bài kinh này đặt trọng tâm vào câu thần chú ở cuối bài. Phần còn lại chỉ là sự giới thiệu về câu chú đó. Bản dịch của Huyền Trang cũng là bản độc nhất dùng danh xưng Quán Tự Tại (Avalokitesvara), trong khi tất cả các bản Phạn ngữ, các bản dịch Hán văn khác, và kể cả các đệ tử của ngài Huyền Trang, đều dùng tên Quán Thế Âm (Avalokitasvara ) theo lối cổ. 
(Avalokitesvara: (Ava: từ trên xuống +Lokita: nhìn, quan sát, để ý + Isvara: thánh, chúa, thượng đế, v.v): Vị thánh quan sát xuống (trần gian); Avalokitasvara: (Ava: từ trên xuống + Lokita: nhìn, quan sát, để ý + svara: âm thanh, tiếng gọi, tiếng kêu): Vị để ý xuống tiếng kêu bên dưới;)
Sự khác nhau của các bản dịch Hán văn có thể là do việc tam sao thất bản, vì được hậu thế chép lại và công bố khá lâu sau khi dịch giả đã qua đời. Thí dụ như bản dịch của Cưu Ma La Thập được công bố năm 703, trong khi vị tỳ khưu này viên tịch năm 413. Ngoài ra còn do lỗi cú pháp của những người viết lại sau này. Bản dịch bài tâm kinh Bát nhã ra Hán văn của Cưu Ma La Thập cũng là bản có nội dung lạ nhất.
Nếu viết hết về sự dị biệt giữa các bản dịch Hán văn của bài tâm kinh Bát nhã, hay sự khác biệt giữa các bản Hán văn và bản tiếng Phạn, thì khá dài. Nhưng có thể đơn cử một vài thí dụ. Như câu nổi tiếng trong bài tâm kinh này đối với chúng ta trước nay là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” (thể xác chẳng khác hư không, hư không chẳng khác thể xác) trong bản dịch của Huyền Trang, thì trong bản dịch được cho là của Cưu Ma La Thập viết là “Phi sắc dị không, phi không dị sắc” (không phải là thể xác khác hư không, không phải là hư không khác thể xác).
Hay trong khi bản dịch Huyền Trang dịch Sariputra thành Xá Lợi Tử, thì bản được cho là của Cưu Ma La Thập dịch là Xá Lợi Phất, là sự sai lạc không nên có của một chuyên gia Phạn ngữ. Chữ Sari phiên âm ra Hán ngữ thành Xá Lợi là đúng rồi. Còn chữ Putra trong tiếng Phạn có nghĩa là con trai, hay một đứa trẻ trai đáng tuổi con mình. Dịch ra là Tử thì đúng nghĩa. Nhưng Cưu Ma La Thập lại dịch chữ Putra thành Phất. Theo hủ kiến kỳ thị xã hội, giới tính của dân tộc Ấn Độ thời cổ, người đàn ông không có con trai sẽ bị sa vào địa ngục. Chữ Put trong tiếng Phạn có nghĩa là địa ngục. Đứa con sinh ra để cha nó không bị sa địa ngục là đứa con trai, là Putra. Chữ Phất trong bản dịch bài Bát nhã Tâm kinh của Cưu Ma La Thập là do chữ Put, rút ngắn từ Putra, mà ra. Và đây không phải là sự dùng chữ xác đáng của một vị như Cưu Ma La Thập. Nên biết rằng bản dịch bộ kinh Đại phẩm bát-nhã (Pañca-viśatisāhasrika-prajñāpāramitā-sūtra) vĩ đại ra Hán văn, đã được xác minh là của Cưu Ma La Thập, là một tuyệt phẩm không có tì vết nào.

Sariputra ở bên phải đức Phật, thế kỷ thứ 9 Trung Quốc, Bảo tàng Asia Society, New York
Bản dịch Hán văn được cho là của Cưu Ma La Thập còn có những câu mà không bản nào khác chứa đựng, cả Phạn lẫn Hán. Thí dụ như ở gần đầu bài kinh, sau đoạn “Thụ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị (Thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế cả)”, còn có đoạn:
“Xá Lợi Phất! Sắc không cố vô não hoại tướng. Thụ không cố vô thụ tướng. Tưởng không cố vô tri tướng. Hành không cố vô tác tướng. Thức không cố vô giác tướng. Hà dĩ cố?” Có nghĩa là: “Xá Lợi Phất! Sắc (sắc tướng, thân xác) là không, cho nên không có sự hủy hoại. Thụ là không, cho nên không có sự cảm nhận. Tưởng là không cho nên không có sự suy nghĩ. Hành là không cho nên không có sự tạo ra (duyên, nghiệp, v.v). Thức là không cho nên không có tri giác. Là vì sao (2)?” (舍利弗! 色空故無惱壞相, 受空故無受相, 想空故無知, 行空故無 作相, 識空故無覺相。何以故?)
Hay ở phần giữa bài còn có thêm đoạn: “Thị không pháp: phi quá khứ, phi vị lai, phi hiện tại.” Nghĩa là: “Pháp không này: không có quá khứ, không có vị lai, không có hiện tại (3).” (是空法, 非過去、非未來、非現在。)
Ngoài những điều khác biệt kể trên, những phần còn lại của hai bản dịch Huyền Trang và Cưu Ma La Thập giống nhau từng chữ một.
Sự khác biệt giữa các bản dịch Hán văn với bản Phạn ngữ cũng nhiều, và có khi làm đổi cả ý nghĩa của câu văn. Thí dụ như vế được xem là chủ đề của bài tâm kinh này với 2 câu, “Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc bất dị không, không bất dị sắc” (có nghĩa là “thể xác là hư vô, hư vô là thể xác. Thể xác không khác hư vô, hư vô không khác thể xác”) trong bản dịch Hán văn của Huyền Trang, thì trong bản Phạn ngữ vế này gồm có 3 câu, chứ không chỉ có 2 như thế.
Nguyên bản Phạn ngữ của vế này là: “Rupam sunyata, sunyataiva rupam. Rupam na-prithag sunyata, sunyata na-prithag rupam. Yad rupam sa sunyata, ya sunyata tad rupam”.
(Rupam (rupa): sắc tướng, vật thể, thể xác; 
sunyataiva: Sunyata: trống không, hư vô + iva: giống hệt như;
Na: không (ngược với có);
prithag: tách khỏi, lìa ra, hay cũng còn có nghĩa là: một cách khác biệt;
yad… sa hay ya… tad: cái gì là… cũng là.)
Ba câu này có nghĩa là: “Thể xác là hư vô, hư vô giống hệt như thể xác. Thể xác không tách rời hư vô, hư vô không tách rời thể xác (hay còn dịch là “Thể xác không khác hư vô, hư vô không khác thể xác”). Cái gì là thể xác cũng là hư vô, cái gì là hư vô cũng là thể xác”.
Hay một đoạn chính yếu nữa của bài tâm kinh này cũng có sự khác biệt giữa các bản Hán và Phạn ngữ. Bản Hán ngữ của Huyền Trang viết: “Xá Lợi tử! dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại, cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.” Tức là: “Con trai của Xá Lợi! Vì không đạt (ở đây có nghĩa là đạt niết bàn), cho nên Bồ-đề-tát-đỏa nương vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên tâm ngài không còn chướng ngại (vô minh). Không còn chướng ngại cho nên không sợ hãi, tránh xa được các mộng tưởng điên đảo, và rút cuộc đạt được niết bàn.”
Đoạn này trong bản tiếng Phạn là: “Tasmac Sariputra! Apraptivad, Bodhisatt-vasya Prajnaparamitamasritya Viharatya cittavaranah. Cittavarana-nastivad atrasto viparyasatikranto, nisthanirvana.”
Nghĩa là: “Bởi thế, con trai của Xá Lợi! Dù đã nói không đạt (niết bàn), nhưng vì chư Bồ tát nhất tâm thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên tâm các ngài dứt được mọi chướng ngại. Tâm hoàn toàn không vướng chướng ngại cho nên không sợ hãi, chế ngự được các suy tưởng sai lạc, và rút cuộc vẫn nhập niết bàn.”
(Tasmac: Vì thế
Putra: Con trai, đứa bé trai bằng tuổi con mình, tiếng gọi thân tình “thằng con”;
SariPutra: Tên gọi của đại đệ tử của Phật Thích Ca. Cha ông tên là Tissa và mẹ ông tên là Sari (phiên âm ra Hán văn là Xá Lợi). Theo tục cổ bên Ấn Độ người ta gọi con trai cả bằng tên mẹ, cho nên ông được gọi là Sariputra có nghĩa là con trai của bà Sari. Vì tên cha ông là Tissa, cho nên có khi ông còn được gọi là Upatissa;
Apraptivad: (A: không, ngược lại với có + Prapta: đạt được, sở đắc + Vad: rút ngắn của Vadate: nói, khẳng định, tuyên bố): Đã nói (tuyên bố) là không sở đắc (đạt được);
Bodhisattvasya: (Bodhisattva: Bồ tát + Vasya: nhất tâm, chăm chỉ): Bồ tát nhất tâm;
Asritya: thực hành, luyện tập, tu luyện…;
Viharatya: dứt, cắt đứt;
Cittavarana: (Citta: tâm, tim, lòng + Varana: chướng ngại, lưỡng lự, ngăn trở): tâm bị chướng ngại;
Cittavarananastivad: (Cittavarana: Tâm vướng chướng ngại + Nasti: không hiện hữu, không có + Vad: khẳng định): Tâm hoàn toàn không vướng chướng ngại;
Atrasto: (A: không + trasta: sợ hãi, run sợ): không sợ hãi;
Viparyasariskranto: (Viparyasa: Sai lầm, tưởng tượng sai lạc sai thành đúng, trái thành phải, v.v. +Ariskranta: chế ngự, vượt qua, thoát được): chế ngự được các suy tưởng sai lạc;
Nisthanirvana: (Nistha: cuối cùng, rút cuộc, lên trên, vào trong + Nirvana: niết bàn): Rút cuộc nhập niết bàn;)
Trong các bản dịch ra Hán văn phổ biến không thấy câu khai chú của Bát-nhã Ba-la-mật-đa Bồ-tát như trong bản Phạn ngữ: “Namo Bhagavataya Arya Prajna-paramitaya”, tức là “Nam mô Bạt dà phạm đa dạ A lị da Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạ”. Hay câu khai chú “Namo sarvajnaya”, tức là “Nam mô Nhất Thiết Trí dạ” của phái Kim Cương. Ngoài ra, đoạn “Độ nhất thiết khổ ách (cứu giúp mọi khổ nạn)” ở cuối vế đầu trong bản dịch Hán văn của Huyền Trang cũng không thấy có trong các bản Phạn ngữ. Và trong bản Phạn ngữ còn có chữ “na apraptih” tức là “vô vô đắc” mà các bản Hán văn không có. Toàn thể đoạn này phải là “Na jnanam, na praptih na apraptih”, tức là “vô trí, vô đắc, diệc vô vô đắc (không suy nghĩ, không đạt, thậm chí không có cả sự không đạt)”.
Phần còn lại của các bản Phạn và Hán thì đại đồng tiểu dị tương đối giống nhau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét