16/12/2015

Các đặc điểm của thép làm dao

(Bài viết có sự giúp đỡ từ Cold Steel và Buck Knives) 
Bài viết sẽ cho ta biết được đặc điểm của thép đặc biệt là thép làm dao.
Nội dung chính
  • Luyện và tạo hình thép
  • Đặc tính của Thép
  • Ký hiệu thép
  • Các hợp kim
  • Các loại thép
  • Các thép dùng làm dao
  • Một số thép làm dao khác

Luyện và tạo hình thép

Thép chính là kết hợp của sắt và các-bon (viết theo kiểu Nhân dân thời báo ). Tất cả các loại thép đều chứa một số thành phần khác với hàm lượng được kiểm soát, rất nhỏ, như mangan (Mn), lưu huỳnh (S), silic (Si), và phốt-pho (P). Nếu không có các thành phần khác, thì thép được gọi là thép carbon thường. Thép dùng cho lưỡi dao được cải thiện bởi các phụ chất, và được gọi là thép hợp kim (alloy steels). Các phụ chất này tạo ra nhiều loại thép với đặc tính riêng. Thép hợp kim các đặc tính chống gặm mòn (corrosion-resitant) được gọi là thép không rỉ (stainless steels), và là loại thép hay sử dụng nhất trong chế tạo lưỡi dao.
Việc luyện thép không rỉ bắt đầu bằng việc nung chảy thép trong lò. Các chất (trong hợp kim) được thêm vào mẻ nấu, và thép nung chảy đó được đổ vào khuôn, để tạo thỏi. Khi các thỏi cứng lại, nó được cho vào máy cán để tạo hình và kích thước phù hợp (tấm phẳng, xoắn…). Các dao của Buck có cả loại phẳng và xoắn, tùy vào kiểu thép và độ dày. Các tấm phẳng được cắt la-ze (laser) để thành bộ phận của dao, trong khi các thép xoắn được tạo hình bằng việc ép phôi tinh vi.

Đặc tính của Thép

Việc chọn thép cho các ứng dụng chuyên biệt dựa trên các đặc tính của thép và những yếu tố khác như quy trình sản xuất – loại thép khó chế tạo sẽ không khả thi trong việc sử dụng ở môi trường sản xuất. Các đặc tính của thép này được tạo bởi các hợp kim thêm vào, và phương pháp sử dụng trong chế tạo. Một số đặc tính quan trọng của lưỡi dao bằng thép có thể nói đến:
  • Độ cứng (hardness): Phản ánh khả năng của thép chống lại sự biến dạng vĩnh viễn (như méo, dãn) (đo trên thang Rockwell)
  • Tính luyện cứng (hardenability): khả năng thép có thể được làm cứng qua quy trình nhiệt luyện.
  • Khỏe (strength): khả năng chịu lực.
  • Dẻo (ductility): khả năng uốn cong mà không bị rạn/nứt/gãy.
  • Bền (toughness): khả năng chịu lực trước khi rạn/nứt/gãy.
  • Độ sắc ban đầu (initial sharpness): độ sắc lưỡi dao nguyên bản.
  • Độ bền sắc cạnh (edge retention): khả năng mà dao giữ lưỡi bén mà không cần thường xuyên mài lại.
  • Chống gặm mòn (corrosion resistance): khả năng chống bị hỏng bởi tương tác với môi trường.
  • Chống trầy xước (wear resistance): khả năng chống mòn hay xước khi sử dụng.
  • Chế tác (manufacturability): độ dễ dàng mà thép cho phép khi xử lý bằng máy, phôi, nguội, tôi (làm thành lưỡi dao).
Vì không có yếu tố nào là hơn hẳn trong các loại đặc tính, Buck Knives chọn những yếu tố cho phép đặc tính tối ưu với từng loại mục đích.

Ký hiệu thép

Ký hiệu sử dụng cho các loại thép và đặc tính của chúng thường từ cấu trúc kim bên trong kim loại. Vì thép được nung và làm nguội, cấu trúc bên trong này thay đổi. Các cấu trúc trong quá trình chuyển đổi này có tên như Austenite và Martensite. Martensite là cấu trúc rất rắn và có thể định hình nhờ làm lạnh đột ngột một số loại thép trong quá trình nhiệt luyện. Các thép cho phép tạo Martensite được gọi là thép martensite, và đây là loại thép được ưa chuộng nhất trong sản xuất dao kéo. S30V, BG-43, 154CM, 420HC và 420J2 là các loại thép martensite không rỉ.

Các hợp kim

Các đặc tính của thép còn thay đổi bởi một số thành phần phụ thêm vào trong quá trình nấu chảy. Các thành phần hợp kim quan trọng trong chế tạo dao được liệt kê dưới đây với mô tả ngắn gọn về ảnh hưởng của chúng tới đặc tính thép.
  • Carbon – không phải thành phần hợp kim vì nó có trong thép carbon thường. Tuy nhiên, tăng lượng carbon làm thép cứng hơn.
  • Chromium – cải thiện tính luyện cứng, chống trầy xước và gặm mòn. Nó là thành phần chính trong thép không rỉ martensite, và rất hay được sử dụng trong các ứng dụng thể thao.
  • Molybdenum – tăng tính luyện cứng, độ chịu lực căng, chống gặm mòn, đặc biệt là rỗ.
  • Nickel – tăng độ bền, tính luyện cứng và chống gặm mòn. Nickel là thành phần chính trong thép không rỉ austenite và thi thoảng được dùng cho dao lặn.
  • Vanadium – tăng tính luyện cứng và cho hạt mịn. Cấu trúc hạt trong thép là một yếu tố quan trọng chống trầy xước và khả năng chịu lực. Thông thường, các cấu trúc hạt mịn là cái được hướng đến.

Các loại thép

Các nhà sản xuất thép theo những công thức chính xác để đảm bảo mỗi hợp kim riêng được chế tạo đạt được đúng các đặc tính mong muốn. Những công thức này được biết đến như các bản đặc tả, và chúng chỉ rõ hàm lượng mỗi hợp kim. Một công thức hợp kim hay loại, được gọi tên theo một con số quy ước. Ví dụ thép không rỉ martensite được đánh số như Loại 410, 420, và 425.

Các thép dùng làm dao

(Thông tin được giúp đỡ bởi Buck Knives) 
S30V – Được phát triển chủ yếu cho sản xuất dao kép bởi Crucible Steel, S30V chứa một hàm lượng carbon và vanadium cao hơn BG-42 một cách rõ rệt. Việc tăng carbon và vanadium giúp giữ được sắc cạnh cực tốt và chống trầy xước. S30V là thép cho dao tốt nhất hiện nay.
  • Giữ sắc cạnh cực tốt
  • Độ dẻo cải thiện
  • Độ cứng tốt – khoảng lý tưởng Rc 59.5-61
  • Chống gặm mòn tốt
  • Lượng Carbon và Vanadium rất cao
CarbonChromiumVanadiumMolybdenum
1.45%14%4%2%
BG-42 – Hợp kim sở hữu bởi Timken Latrobe Steel, BG-42 là loại thép martensite không rỉ công năng cao được dùng trong hàng không. Vì độ chịu lực cao của nó và khả năng đạt độ cứng lớn (Rc 61-62), BG-42 rất phù hợp cho các lưỡi dùng với mục đích đặc biệt.
  • Khả năng giữ sắc cạnh rất tốt
  • Độ chịu lực cao
  • Rockwell Rc 61-62
  • Độ chống gặm mòn tương đối
  • Chứa Vanadium, tăng tính luyện cứng, và cho cấu trúc hạt mịn.
CarbonSiliconChromiumMolybdenumVanadium
1.15.313.50 – 14.504.01.20
154CM – 154CM là loại thép carbon không rỉ có Molybdenum. Do 154CM cho phép giữ sắc cạnh tốt hợn các loại thép (không rỉ) thường, nó là một lựa chọn tốt cho các lưỡi cần dùng để cắt nhiều.
  • Giữ sắc cạnh rất tốt
  • Độ cứng Rockwell Rc 60-61
  • Độ bền tốt khi được tôi kép
  • Độ chống gặm mòn tương đối
  • Rẻ hơn BG-42 và S30V
CarbonSiliconChromiumMolybdenum
1.05.3513.50 – 14.004.0
420HC – Một phiên bản chứa nhiều carbon hơn là loại thép martensite không rỉ 420 chuẩn. Lượng carbon, kết hợp với lượng chrom cao, cho độ chống xước và giữ sắc cạnh tốt. Không thể nhầm lẫn loại này với thép không rỉ 420 chuẩn. 420HC, được nhiệt luyện theo quy trình sở hữu bởi Paul Bos, là loại thép tuyệt vời cho các dao với chức năng thông thường.
  • Giữ sắc cạnh tốt
  • Mài lại ổn
  • Độ bền tốt
  • Chống gặm mòn rất tốt
  • Thép làm dao tiêu chuẩn
CarbonNickelSiliconChromiumManganese
.40 – .50.50.6012.00 – 14.001.0
420J2 – Loại thép dùng cho mục đích thường với hàm lượng carbon thấp hơn. 420J2 có độ cứng tương đối, chống gặm mòn và dễ dàng mài lại. 420J2 phù hợp cho các lưỡi dao sử dụng ít tới trung bình trong các ứng dụng thường ngày.
  • Dễ mài lại
  • Độ cứng Rockwell Rc 56-58
  • Thuận lợi cho sản xuất
  • Chống gặm mòn tốt
  • Dễ làm mịn, chi tiết
CarbonNickelSiliconChromiumManganese
.36 – .45.60.6012.00 – 14.00.80
17-7 PH – Loại thép không rỉ Chrommium/Nickel/Aluminum nhanh rắn. Hợp kim được sử dụng trong các ứng dụng chịu lực cao đòi hỏi chống gặm mòn bởi muối, nước. 17-7PH là một sự hài hòa giữa thép không rỉ martensite (có thể nhiệt luyện) và austenite (300 loại – không thể nhiệt luyện). Điều này có được từ hàm lượng cao của Chromium/Nickel/Aluminum.
  • Giữ sắc cạnh tương đối
  • Rất bền
  • Chống gặm mòn cực tốt
  • Độ cứng Rc 54-56
CarbonVanadiumChromiumMolybdenumNickelAluminum
.0717.07.01.25
Tóm tắt:
Loại thépĐộ giữ sắc cạnhDễ dàng mài lạiChống gặm mòn
S30VOOOOOOOOO
42BGOOOOOOO
154CMOOOOOOO
420HCOOOOOOOO
420J2OOOOOOO
17-7PHOOOOOOOOO
  • Tuyệt: OOOO
  • Tốt: OOO
  • Khá: OO
  • Ổn: O

Một số thép làm dao khác

(thông tin được giúp đỡ bởi Cold Steel)
AUS-8 (còn gọi là 8A) (vài thông tin từ Cold Steel) – Từ “thép không rỉ” được hiểu không đúng, bởi vì, trên thực tế tất cả thép đều sẽ đổi màu nếu để trong môi trường bất lợi trong một thời gian đủ dài. Thép được làm cho “không rỉ” bằng việc thêm Chromium và giảm lượng Carbon trong quá trình nấu. Một số chuyên gia cho rằng có một mẹo rất hay với thép không rỉ: Khi tăng Chrome và giảm Carbon, thép sẽ trở nên “không rỉ”. Nhưng nó cũng trở nên càng khó để làm sắc, và khả năng giữ sắc cạnh tiềm tàng bị suy giảm trầm trọng. Chúng tôi đã tìm ra một sự kết hợp hài hòa giữa độ bền, chịu lực, khả năng giữ sắc cạnh và chống gặm mòn.
AST-34 – đẳng cấp cao của thép không rỉ, sử dụng trong hầu hết dao thủ công và các dao sản xuất công nghiệp. Đây là loại thép Nhật, sở hữu bởi Hitachi Steels. 145CM của Mỹ, phiên bản tương tự với ATS-34, là loại thép phổ biến bởi nhà sản xuất trứ danh Bob Loveless.
GIN-1 (còn gọi là G2) – Một loại thép giá rẻ khác, nhưng mềm dẻo hơn AUS-8.
CPM-T440V – đôi khi còn được chào hàng là “siêu thép”, nó tồn tại lâu hơn tất cả các loại thép không rỉ trên thị trường hiện nay. Tuy nhiên, nó khó mài (vì độ giữ sắc cạnh chưa từng thấy). Nhưng lợi thế là bạn không cần phải mài thường xuyên. CPM-T440V được sử dụng rộng rãi bởi các nhà làm dao và đang từ từ tìm được đường đến các nhà máy sản xuất dao công nghệ cao.
420J2 – (thông tin được giúp đỡ bởi Cold Steel) Do chứa lượng carbon thấp và chromium cao, loại thép này là sự lựa chọn tuyệt vời để làm các lưỡi dao bền, chịu sốc với độ chống gặm mòn tốt và khả năng giữ sắc cạnh tương đối. Nó là ứng viên lý tưởng cho lưỡi dao dùng trong nhiều điều kiện môi trường khác nhau, bao gồm cả nhiệt độ hay độ ẩm cao, gặm mòn vì muối trong các môi trường biển. Khả năng chống gặm mòn cực kỳ của nó nhờ lượng chrome cũng làm nó trở thành lựa chọn hoàn hảo cho lưỡi dao mang bên người hay trong bao mà ít hay không được bảo dưỡng.
San Mai III® (sản phẩm của Cold Steel) – San Mai có nghĩa là “ba lớp”. Đây là từ người Nhật dùng cho các lưỡi nhiều lá/tấm trong kiếm và dao găm. Việc tạo nhiều lá rất quan trọng vì nó cho phép nhiều loại thép có thể ghép thành một lưỡi. Một cách đơn giản để hình dung là như bánh kẹp thịt: Thịt ở giữa cứng, thép carbon cao và các miếng bánh ở hai bên là carbon thấp, là các lớp bên dai/bền. Cạnh của lưỡi phải cứng để nó có khả năng giữ sắc cạnh tốt nhất, nhưng nếu cả lưỡi đều cứng thì nó có thể bị hỏng trong những trận đấu. Để tăng tính bền, thân lưỡi dao phải có khả năng chịu va chạm và các ứng lực biên. Độ bền thường được gắn vưói “mềm” và “dẻo” của thép, vì vậy, thật ngạc nhiên, nếu một lưỡi được làm cho bền thì cạnh không thể đủ cứng để tạo độ giữ sắc cạnh. San Mai III tạo những lưỡi thép cứng (carbon cao), sắc và giữ sắc cạnh tốt, và bên cạnh là là thép bền (carbon thấp) và dẻo.
VG-1 Thép không rỉ (Sản phẩm của Cold Steel) – Các thử nghiệm vật lý về độ sắc, độ giữ sắc cạnh, chịu lực mũi, sốc và lực lưỡi tối đa cho thấy VGG-1 có khả năng giữ sắc cạnh tuyệt vời và vượt qua được các bài thử về chịu lực mũi và lưỡi. VG-1 cho khách hàng của Cold Steel một công năng vượt trội chưa từng thấy trong lưỡi thép không rỉ.
4116 Thép không rỉ Krupp (sản phẩm của Cold Steel) – 4116 là thép không rỉ hạt mịn tạo bởi ThyssenKrupp ở Đức và được dùng trong các ứng dụng vệ sinh (thiết bị y tế và công nghiệp dược) và quy trình thực phảm, nó trở thành siêu nguyên liệu cho chế tác dao bếp. Sự cân bằng giữa lượng carbon và chromium tạo thành độ chống gặm mòn cao, và các đặc điểm vật lý hấp dẫn như độ chịu lực và giữ sắc cạnh. Độ giữ sắc cạnh trong các thử nghiệm lưỡi về cắt/chặt vượt các thép không rỉ loại 420 và 440. Các thành phần hợp kim khác giúp tạo hạt mịn, tăng khả năng chịu lực của lưỡi, đồ bền sắc cạnh và cũng cho phép lưỡi sắc và nhỏ hơn.
1055 Thép carbon (Sản phẩm của Cold Steel) – Thép 1055 nằm giữa thép với lượng carbon trung bình và thép carbon cao, với lượng carbon khoảng 0.50%-0.60% và mangan khoảng 0.60%-0.90% là thành phần hợp kim duy nhất. Lượng carbon và ít hợp kim làm cho nó dễ đúc và với độ cứng sau khi nguội khoảng Rc 60-64 tùy vào lượng carbon. Sự kết hợp cả các nhân tố này tạo nên loại thép bền nhất, vì, khi làm nguội, nó tạo ra gần như bão hòa martensite với lượng cacbua cho phép, không dư các thành phần carbon cao, giòn. Loại thép này đặc biệt phù hợp với các ứng dụng mà yêu cầu quan trọng nhất là độ chịu lực và chống va chạm, và nó tạo những lưỡi cực bền.
SK-5 Thép carbon cao (sản phẩm của Cold Steel) – SK-5 là loại thép carbon cao của Nhật, tương đương với 1080 của Mỹ, với lượng carbon khoảng 0.75%-0.85% và mangan khoảng 0.60%-0.90%. Khi nguội, nó có độ cứng gần Rc 65 và tạo hỗn hợp martensite giàu carbon và lượng nhỏ carbua không phân hủy. Lượng carbua dư làm tăng độ chống trầy xước và thép có sự cân bằng lý tưởng của lưỡi rất bền và khả năng giữ sắc cạnh tốt. Vì những đặc điểm đó, loại thép này được sử dụng từ lâu trong rất nhiều dụng cụ cầm tay bao gồm đục, cưa gỗ, và vượt được qua các thử thách về thời gian và sử dụng trong nhiều năm và ở nhiều nước.

Ảnh hiếm về Việt Nam năm 1904-1907

  Seri ảnh này do bà Gabrielle Maud Vassal (1880-1959, quốc tịch Anh) thực hiện trong thời gian sinh sống tại Việt Nam năm 1904-1907 cùng chồng là bác sĩ quân y Pháp Joseph Jean Vassal.
Tháp rùa ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội năm 1908.
Bà Gabrielle Vassal viếng thăm chợ làng Giấy ở Hà Nội.
Thôn nữ áo yếm An Nam.
Nơi bày bán đồ gốm của người Chăm tại một khu chợ ở Nha Trang.
Một buổi diễn tuồng ở Nha Trang.
Thiếu nữ An Nam trong vườn nhà bà Gabrielle Vassal ở Nha Trang.
Người phụ nữ An Nam với những đứa con trong khu vườn.
Bà Gabrielle Vassal ngồi trên xe hơi ở Nha Trang.
Ngư dân ở Nha Trang mang lưới vào bờ.
Tàu khách của Pháp trên sông Sài Gòn.
Cảnh rước dâu tại một ngôi làng miền Trung.
Một ngôi nhà sàn của người Thượng ở vùng hồ Dankia (Suối Vàng, Đà Lạt).
Những đứa trẻ Tây Nguyên
Em bé trên cây cầu.
Cảy ruộng bằng trâu ở đồng bằng duyên hải miền Trung.
Những người An Nam làm nghề khuân vác trong một chuyến đi Tây Nguyên của người Pháp.
Cậu bé trên vách núi đá ở đèo Cả (Phú Yên).
 Bà Gabrielle Maud Vassal chụp ảnh lưu niệm trước ngôi nhà của người Thượng ở Đà Lạt.

15/12/2015

Lửa, sắt, nghề rèn và thanh gươm: Những biểu tượng của quyền năng và sự thay đổi

1. Lịch sử phát triển của con người thời tiền sử chia làm ba thời kỳ: thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt. Thời đại đồ sắt là thời kỳ cuối cùng trong hệ thống ba thời đại để kết thúc thời tiền sử.
Thời kỳ đồ đá diễn ra vào thời con người vẫn còn là vượn người, chưa phát triển hoàn thiện; lúc đó con người sử dụng đá để làm công cụ cắt, gọt, đào bới, săn bắt thú; cùng lúc những công cụ lao động bằng xương thú, cành cây, vỏ sò đã ngày càng không phổ biến bằng công cụ bằng đá. Việc tìm ra lửa bằng cách cọ hai hòn đá vào nhau được xem là phát minh quan trọng nhất của con người trong thời đại này.
Lửa đã làm thay đổi to lớn trong đời sống con người vốn mang “tính thú” trước đó; lửa là sự chuyển tiếp quan trọng từ giai đoạn mông muội sang giai đoạn văn minh với một ý nghĩa rất lớn như: nấu chín thức ăn, sưởi ấm khi trời lạnh, soi đường trong đêm tối, xua thú dữ, phát rừng làm rẫy,…- một biểu tượng vĩ đại và quyền uy tối thượng.
Con người nguyên thủy tiếp xúc với lửa nhưng chỉ dựa vào cảm giác chứ chưa có một căn cứ khoa học cụ thể nào. Họ chỉ có thể tin rằng nó huyền bí chứ không thể giải thích nó. Họ đã thần bí hóa nó, điều này làm giảm tư duy lý tính của con người, cũng chính vì vậy mà lửa là một biểu tượng rất thiêng, một sức mạnh vô biên.
Con người nguyên thủy không thể giải thích được lý do vì sao có sấm sét, có cháy rừng… khi những sự việc đó làm ảnh hưởng (xấu hoặc tốt) đến cuộc sống của họ. Họ tin rằng trong lửa mang một sức mạnh thần thánh, từ đó họ đâm ra tôn sùng và thờ phụng nó. Khái niệm thần lửa có lẽ cũng từ đó mà ra đời. Khi con người mang theo lửa bên mình, họ tin rằng mình sẽ được bảo vệ, sẽ được bình an. Ví như lúc trong rừng sâu chẳng hạn, lửa có thể xua thú dữ. Họ cũng tin  rằng lửa có thể xua đuổi tà ma, làm cho chúng không dám đến gần họ.
Người Tây Nguyên không thể không có lửa về đêm; chỉ cần thiếu lửa ít lâu, là họ sẽ ngã bệnh. Nếu, do ngủ say họ để lửa tắt, thì bị cái lạnh của buổi bình minh đánh thức, họ sẽ trở dậy ngay để thổi cho than bùng lên hay đi xin lửa ở nhà sàn bên cạnh.
Khi đi làm việc, họ mang theo mẩu củi cháy dở của mình: trong kỳ dọn rẫy, họ dùng nó để đốt cháy đám cây đã đốn ngã (trong loại đất trồng lúa này, việc dọn đất chủ yếu là bằng lửa), ngày nào cũng vậy, họ dùng lửa để đốt ống điếu của mình. Họ yêu và sợ lửa. Đấy là phương tiện duy nhất của họ để sưởi ấm và chiếu sáng và là công cụ chính để trồng trọt. Nhưng họ sợ sức mạnh quá lớn của kẻ đầy tớ nồng nhiệt này và cố làm chủ nó. Dầu tất cả các vật liệu trong nhà sàn đều hết sức dễ bắt lửa, nhưng ít khi thấy xảy ra nạn cháy vì sơ ý. Khi cần đốt rừng, ngay cả bọn trẻ con cũng có bản năng ngăn lửa và thực hiện việc đó rất hiệu quả[1].
2. Nối tiếp thời đại đồ đá là thời đại đồ đồng. Phát hiện ra đồng là một bước tiến mới trong sự phát triển của con người bởi họ đã bắt đầu bước vào thời đại của kim khí. Đồng có lịch sử sử dụng ít nhất 10.000 năm trước.
Ở thời kỳ này, hình thái kinh tế xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã (thật ra nó đã bắt đầu tan rã từ cuối thời đại đá mới và tiếp tục tan rã khi giai đoạn đồng thau phát triển). Người ta đúc đồng trong các bể đúc bằng đá, những vật dụng, vũ khí bằng đồng được con người ngày nay phát hiện gồm dao găm đồng, mũi tên đồng, lưỡi cày đồng…
Đồng với tính chất mềm dẻo, dễ dát mỏng, dễ uốn nên không thể sử dụng nhiều cho cuộc sống nông nghiệp. Ngày nay chúng ta thường thấy đồng được sử dụng để làm vật dụng truyền tải điện, que hàn, thành phần của hợp kim…Nhiều dẫn chứng cho thấy rằng đồng xuất hiện chỉ là một thành tựu trong quá trình khai phá của con người chứ chưa thể gọi là sự đột biến trong quá trình lao động sản xuất và làm thay đổi kinh tế, xã hội.
Kế đến là thời kỳ đồ sắt. Loài người biết đến sắt rất sớm, quặng sắt phân bố rộng rãi khắp mọi nơi trên quả đất nhưng loài người phát hiện được tính chất rẻ và thông dụng của sắt chậm hơn đồng có đến 3000 năm.
3. Phát hiện ra nghề luyện sắt là một phát minh lớn, một kỳ công rực rỡ, một thành tựu vĩ đại của loài người nói chung và của các dân tộc Việt Nam nói riêng trong đó có các dân tộc ít người ở Trường Sơn-Tây Nguyên.
Quặng sắt ở khắp mọi nơi, trữ lượng lại nhiều, nhưng sắt không hề xuất hiện dưới dạng nguyên chất mà là một kim loại ẩn. Riêng ở một số khu vực trong tiểu vùng Bắc Tây Nguyên, quặng sắt lại ở dạng lộ thiên (ví dụ địa bàn cư trú của nhóm Xơ Đăng Tơ-Đrăh thuộc hai huyện Kon Rẫy và Đăk Hà tỉnh Kon Tum).
Trong thiên nhiên, sắt luôn hòa hợp với ôxy, thường ở dưới dạng xù xì, xấu xí, màu nâu xám, ít được chú ý đến. Mặt khác, sắt là một kim loại khó nấu chảy. Đồng nóng chảy ở khoảng 1084oC, đồng thau khoảng 700-900oC, nhưng với độ nóng chảy ở 1530oC của sắt, nếu không có sự hoàn thiện của kỹ thuật luyện kim thì không thể nào đạt được.
Thời đại đồ sắt được bắt đầu tính đến trong lịch sử khi mà loài người đã biết rèn sắt để chế tạo các loại công cụ, vũ khí. Không phải ngay từ đầu người xưa đã biết nấu chảy sắt mà họ lấy sắt từ trạng thái bột xốp và dùng nó để làm nguyên liệu chế tạo hiện vật thông qua quá trình rèn. Phương pháp này được gọi là phương pháp thổi sống. Sắt là một kim loại mềm; muốn có được những công cụ sắc, bén, cứng như dao, kiếm, gươm, phải biết tiến hành hỗn hợp sắt và than trong quá trình luyện sắt và rèn sắt.
Với phương pháp thổi sống, người xưa chỉ cần khoảng 900oC là đủ. Lúc đầu tiên, khi mới phát sinh thuật luyện sắt, lò còn rất nhỏ, cấu tạo vô cùng đơn giản. Nói chung, lò thổi sống thường được xây bằng đá, trát hoặc đấp bằng bùn, có lỗ thông gió và thổi gió vào. Quặng sắt sau khi được sàng lọc, đập nhỏ, rửa sạch, sẽ được đem trộn với than củi, xếp theo từng lớp. Dụng cụ để thổi gió mỗi nơi một khác, nhưng nói chung gió được đưa vào lò theo những ống bằng đất sét. Cũng có nơi người xưa không thổi gió vào, mà cứ để cho nó cháy tự nhiên, chầm chậm, dần dần. 
Kỹ thuật luyện ở buổi ban đầu rất thô sơ và dựa trên nguyên tắc là khử cho hết ôxy ở trong quặng sắt để làm cho sắt hoàn nguyên. Lò nhỏ, hơi ít, nhiệt độ không cao, kỹ thuật đơn giản cho nên sắt được hoàn nguyên chỉ là sắt ở trạng thái bột xốp, lỗ trỗ như tổ ong, lẫn lộn với cứt sắt và các loại tạp chất khác đọng lại dưới đáy lò.
Tuy vậy, người ta vẫn gọi chúng là những cục sắt tinh chất. Sau mỗi lần luyện sắt, phải đợi cho lò nguội hẳn mới phá lò lấy sắt ra. Những cục sắt tinh này cần phải được nung đỏ, đập rèn nhiều lần để thành ra những thỏi sắt chín có hình dáng nhất định. Sắt chín mềm hơn sắt sống nhưng có tính co giãn lớn hơn nên rất dễ rèn. Đó là nguyên liệu cơ bản để chế tạo công cụ, vũ khí. Những người thợ rèn sẽ tiếp tục gia công thêm công đoạn tôi thép như sau: nông cụ hay vũ khí được nung nóng lên nhiệt độ cao (khoảng trên 730 độ C – 800 độ C với đa số thép làm dao), ở nhiệt độ cao này, sẽ có biến đổi về cấu trúc bên trong khối thép, toàn bộ khối vật liệu được nung nóng sẽ có cấu trúc đồng nhất và mềm dẻo mang tên là Austenite (gọi theo tên nhà khoa học Austen), người thợ rèn sẽ giữ khối thép trong lò than một lúc đủ lâu để toàn bộ khối thép chuyển biến hết về cấu trúc bên trong, khi nhúng cả khối thép đang nóng đỏ như vậy vào nước lạnh, do nhiệt độ giảm đột ngột, bên trong khối thép sẽ chuyển sang cấu trúc có tên Martensite, là cấu trúc gồm các hình kim, có độ cứng rất cao; vì lý do đó, dao thép sau khi “nung đỏ – bỏ nước” sẽ có độ cứng cao hơn rất nhiều so với bình thường và dĩ nhiên là sắc bén hơn. Đến đây, quá trình luyện sắt xem như kết thúc. Kỹ thuật luyện sắt như thế thật là thô sơ, nhưng lúc đó đã là một thành tựu kiệt xuất trên con đường phát minh sáng tạo của nhân loại.
Như vậy, biết sử dụng sắt để phục vụ cho mình, loài người có thể tạo ra những công cụ, vũ khí có công hiệu lớn. Engels từng cho rằng: “Cung tên đối với thời mông muội, cũng giống như thanh kiếm sắt đối với thời đại dã man và khẩu súng đối với thời đại văn minh”, ông cũng từng gọi thời đại cây kiếm sắt là “thời đại anh hùng” của các dân tộc văn minh. Việc thần thánh hóa sắt, qua truyện Thánh Gióng với việc ngài sai dân gian đúc ngựa sắt, roi sắt không phải là một hiện tượng cá biệt chỉ xảy ra ở tộc người Việt. Truyền thuyết Thánh Gióng cùng nhóm truyện kể có môtíp thanh gươm thần ở các dân tộc Tây Nguyên đã bọc lộ rõ khát vọng của người đương thời đối với một loại nguyên liệu mới và nói lên ước mơ của nhân dân các dân tộc thời ấy với việc sử dụng sắt. Nó phản ánh những nhận thức của người đương thời đối với những ưu điểm của sắt.     
4. Trong các nghề chế luyện kim loại, nghề thợ rèn giàu ý nghĩa hơn cả, vừa do tầm quan trọng của nghề này, vừa do những biểu tượng đối nghịch mà nó chứa đựng.
Nghề rèn có khía cạnh sáng tạo vũ trụ và sáng tạo nói chung; khía cạnh ma quỷ, hiểm độc và cuối cùng khía cạnh khai tâm thụ pháp… Trong một số nền văn minh, người thợ rèn đóng vai trò quan trọng: là người nắm được những bí mật của trời, họ có thể gọi được mưa, chữa được bệnh[2]. Và trong nhiều trường hợp, có thể ghi nhận rằng quyền năng của thợ rèn đến từ công cụ của anh ta, đến từ những tư tưởng ẩn trong ống thổi lò rèn, đến từ lửa, đến từ sức mạnh linh thiêng của sắt, đến từ những đồ trang sức mà anh ta rèn cho các thầy cúng; hoặc từ nguồn gốc linh thiêng của kỹ thuật rèn, từ sự mới mẻ của nghể này vì kỹ thuật bí ẩn của anh ta là do truyền từ đời này sang đời khác, hay đơn giản hơn là sự thụ đắc những kỹ thuật này.
Còn với Dambo Jacques Dournes, ông cho rằng: Trong các kỹ thuật, có một ngành cao quý hơn cả, dành riêng cho một lớp người ưu tú được tách riêng ra, đó là người thợ rèn. Lửa và sắt là các nguyên tố mà sức mạnh của chúng làm nên sự cao quý. Trong hầu hết các nền văn minh, người thợ rèn là người anh hùng khai sáng, nếu anh ta không phải là người sáng tạo ra mọi vật và toàn thể. Các truyền thuyết Tây Nguyên liên quan đến nguồn gốc của lửa và của lò rèn rất nhiều và giàu ý nghĩa… Truyền thuyết về sắt, trong nguyên gốc của nó, gắn chặt với các truyền thuyết về những người thợ rèn đầu tiên[3].
Xưa kia, trong huyền thoại Tây Nguyên, từ rèn đồng nghĩa với từ sáng tạo. Các vị á thần buổi khởi nguyên, những người tổ chức nên thế giới, đã rèn ra mọi thứ: “Bung cầm một chiếc búa nhỏ (bằng đá) và rèn ra quả đất; ông cầm một chiếc búa ngắn và rèn ra trời[4]. Trong xã hội truyền thống của tộc người Xơ Đăng, ở nhóm Xơ Đăng Tơ-đrăh hiện đang sinh sống tại các xã Đăk Ui, Ngok Réo, Đăk Kôi, Đăk Tơ Lung, Ngok Wang trên địa bàn các huyện Kon Rẫy và Đăk Hà tỉnh Kon Tum - nơi có nhiều quặng sắt lộ thiên với hàm lượng sắt rất cao, những người thợ rèn đã chế tạo ra một loại lò rèn bễ hơi bằng da rất độc đáo, sử dụng rất có hiệu quả, có thể rèn nung nóng từ quặng ra thép, đánh các công cụ lao động và dụng cụ phục vụ gia đình.
Để nung được quặng và rèn sản phẩm, người Tơ Đrăh dựng lò rèn có bễ hơi được làm từ da con mang (người dân gọi là Tơ Niam Pi Pu), ống bễ bằng gỗ (tê tê), ống dẫn hơi bằng nứa (rơ vang), ống dẫn hơi chịu lửa dẫn ra lò (rơ chông) và lò nung (kloh tơ niam). Để đun được quặng sắt, người Tơ Đrăh phải lên rừng tìm cây loăng rlinh để làm than. Theo cụ A Xe ở làng Wang Tố, xã Đăk Ui, huyện Đăk Hà, chỉ loại than từ cây này, lửa lò rèn Tơ Niam Pi Pu mới đủ độ nóng để nung chảy quặng sắt tự nhiên. Khi nung quặng, tài năng của người thợ rèn chính (bơ ngai tha) được thể hiện chứng minh qua việc kết hợp hai loại quặng cát và quặng cục làm ra sắt thỏi chất lượng cao, chắc bền và không bị mẻ, gãy khi sử dụng. Khi đã có những thỏi sắt ưng ý, theo truyền thống thợ rèn nhóm Tơ Đrăh không được phép sử dụng than loăng rlinh nữa mà chỉ sử dụng những loại cây khác để đốt cho nhiệt độ thấp hơn.
Quá trình rèn sắt thành gươm (thần) là một chuỗi nối tiếp: 
đá/quặng sắt → thanh sắt → lò rèn → thanh gươm → hiến sinh→ quyền năng ma thuật
Có thể nói thanh gươm là đỉnh cao của quá trình rèn sắt, thể hiện sự tài hoa, tinh tế của người thợ, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Việc xuất hiện thanh gươm là một bước tiến vĩ đại và tất yếu trong lịch sử phát triển của loài người.
Gươm hay kiếm[5] (tiếng Khơ-Me gọi là khan, tiếng Gia Rai gọi là ddau) là một loại vũ khí được cấu tạo từ một thanh kim loại được mài bén dùng để đâm, chém trong việc tác chiến. Gươm có cán để cầm, có vỏ để bao bọc, có quai để đeo. Gươm dài hơn dao, cũng mỏng hơn và dẹp hơn dao. Gươm được sử dụng rộng rãi trong các cuộc chiến tranh thời tiền sử cho đến tận thời kỳ cận hiện đại ở Việt Nam. Ngày nay, việc sử dụng gươm không còn phổ biến như xưa nhưng nó vẫn là một biểu tượng của quyền lực, sự uy nghiêm và linh thiêng.   
Rèn gươm kiếm không chỉ đơn thuần là một công việc, việc rèn phải làm sao cho thân, tâm hợp nhất làm một. Người thợ phải có tâm với nghề, không chỉ rèn kiếm gươm tốt mà phải rèn cho đẹp, như vậy mới đúng nghĩa của thanh kiếm, thanh gươm. Rèn kiếm không như rèn các dụng cụ lao động thông thường, nó không được cẩu thả, phải đảm bảo đủ độ sắc và độ đẹp.
Lưỡi kiếm là phần quan trọng nhất của thanh kiếm, tượng trưng cho sự hùng dũng, cứng cỏi, khí tiết, quý phái nên nó phải được chăm chút nhiều nhất. Quy trình chọn vật liệu, quy trình rèn là không thể chia sẻ cho bất kỳ ai cả, đó là thước đo sự khéo léo, tài hoa, danh vọng của người thợ rèn. Như vậy, mặc nhiên rằng thép (vật liệu) có tốt thì mới có thể rèn được gươm tốt. Những “vật liệu” trong các truyền thuyết về gươm thần đều là tốt cả, nó có nguồn gốc thần kỳ, là vật mà “thần” đã ban cho con người để rèn kiếm.
Trong truyện Lưỡi gươm chàng Y Thí, thỏi sắt do cô gái uống nước gốc cây sinh ra một lượt với Y Thí, Y Thí đem thỏi sắt ấy rèn gươm giết vua Lào, vua Chàm. Trong truyện Đăm Thí, Đăm Thí giậm chân lên tảng đá trắng biến thành hồ nơi tận đáy có thỏi thép quý, chàng đem luyện thành gươm quý rồi giết sạch số Mơtao gian ác. Hay trong truyện Gươm ông Tú cũng có chi tiết tương tự: Cụ bà Hbia Dat đi làm rẫy khát nước uống nước hốc cây sinh con trai chóng lớn có sức khỏe lạ thường. Trên núi có trận động đất, đất sập tạo hồ nước sâu, chàng trai lặn xuống nhặt thanh sắt nhờ thợ rèn rèn hết cả núi than mới được gươm tốt, thợ mộc làm bao gươm và cán gươm.
Motif dân tộc học gươm đâm vào bụng cô gái, phụ nữ mang thai hay máu một người nhỏ xuống thanh gươm rồi người đó chết bị hút hồn vào thanh gươm là một chi tiết mang tính chất thần kỳ của nghi lễ hiến sinh (linh thiêng hóa / thần thánh hóa sắt quí) biến dạng đã đi vào type truyện thần bí này. Có gươm thiêng được trời ban tặng rồi người anh hùng, chàng trai khỏe sẽ mang gươm đi diệt sạch giặc khắp nơi cứu nguy cho cộng đồng dân làng …
Ở một khía cạnh khác, có thể ghi nhận một kỳ công thật vất vả và kiên nhẫn của người thợ rèn đúc nên một thanh bảo kiếm, đó là việc anh ta phải nấu loãng kim loại và đổ vào khuôn, chờ nó nguội lại thành thanh thép; thanh thép này sẽ được nung nóng đỏ cho mềm ra và được đập bằng búa cho mỏng xuống, rồi gấp lại thành hai và đập cho mỏng xuống; xong rồi lại được nung cháy đỏ, đập mỏng ra, gấp lại làm đôi, đập mỏng; rổi lại được nung đỏ, đập mỏng, gấp làm đôi; cứ như thế khoảng 30 lần; lúc này thanh kiếm không phải chỉ là một khối thép mà là 2-lũy-thừa-30 lớp thép mỏng vô cùng.
 Tóm lại, thanh gươm là biểu tượng thể hiện sự kỳ công của con người, là đỉnh điểm của sự sáng tạo trong thời đại đồ sắt. Nó thể hiện một nấc thang / giai đoạn của sự văn minh trong lịch sử phát triển của loài người, giúp con người thoát khỏi thời sơ sử còn mông muội, thơ ngây, là bằng chứng của sự phân hóa và tiến bộ xã hội. Và nếu ta bóc tách được những màn hư cấu thần kỳ bao trùm nhiều câu chuyện truyền thuyết về thanh gươm thần ta sẽ có được phần nội dung lịch sử chân thật của các thể chế xã hội tiền giai cấp, tiền quốc gia của các tộc người man dã sơ khai.
 

[1]Dambo (Jacques Dournes) (2003), Miền đất huyền ảo, mục “Lửa, sắt và người thợ rèn”, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 127-128.
[2]Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm Vĩnh Cư… dịch, Nxb. Đà Nẵng, tr. 903.
[3]Dambo (Jacques Dournes) (2003), sđd, tr. 124-125.
[4]Dambo (Jacques Dournes) (2003), sđd, tr. 130-131.
[5]Quyền lực của thanh kiếm có hai mặt: nó tiêu hủy, nhưng có thể tiêu hủy cả sự bất công, sự độc ác, sự ngu dốt và vì vậy, có tác dụng tích cực; và nó xây dựng, nó kiến lập và duy trì hòa bình và công lý. Tất cả các biểu tượng đó đều thích hợp với thanh kiếm khi đó là biểu hiện của vua chúa. (Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), sđd, tr. 489).

Nguồn Tạp chí Văn học  

14/12/2015

Quán cơm nghĩa tình

Hành động lạ thường của vợ chồng ông chủ quán cơm và cái giá nhận được lúc về già
Vào một buổi xế chiều của hơn hai mươi năm trước, trên con phố Đài Bắc có một chàng trai với dáng dấp sinh viên đại học, cứ đi đi lại lại trước cửa của một quán ăn tự chọn, đợi đến khi những người khác ăn cơm đi gần hết rồi, anh mới bước vào.
Anh cúi gầm mặt xuống, nói khẽ rằng: 
“Làm ơn cho cháu một bát cơm trắng được không? Cám ơn!”
Vợ chồng ông chủ lúc đó vẫn còn rất trẻ không khỏi có phần khó chịu, bởi vì chàng trai chỉ gọi cơm trắng chứ không gọi thức ăn, nhưng họ cũng không có hỏi nhiều, đã xới một tô cơm trắng tràn đầy cho anh.
Khi trả tiền chàng trai ngượng ngùng ấp úng nói một câu: 
“Có thể cho cháu xin một ít nước canh được không?”.
Bà chủ mỉm cười nói: 
“Không có gì, cậu cứ lấy thoải mái, không cần trả tiền đâu!”.
Chàng trai ăn cơm đến nửa bát, nghĩ đến thêm nước canh vào cơm không tốn tiền, thế là lại gọi thêm một tô.
Bà chủ rất nhiệt tình đáp lại rằng: 
“Một tô không đủ phải không? Để tôi múc thêm cho cậu một chút nhé!”.
“Không phải đâu, cháu muốn đem về bỏ vào trong hộp cơm, ngày mai đem đến lớp làm cơm trưa”.
Ông chủ nghe nói xong, cảm thấy chàng trai này ắt hẳn là gia cảnh không được tốt lắm, nhưng vẫn không bỏ học, thậm chí có thể là tự mình làm thêm kiếm tiền nữa …
Thế là ông chủ lặng lẽ cho thêm mấy miếng thịt nướng, còn có một quả trứng kho vào dưới đáy của hộp cơm.
Sau đó mới lấy cơm trắng đắp lên trên, xem ra có vẻ chỉ như chỉ là có cơm trắng thôi vậy.
Sau khi bà chủ nhìn thấy, hiểu rõ là ông chồng muốn giúp đỡ chàng trai kia, nhưng bà lại không hiểu được vì sao ông chồng lại giấu miếng thịt ở dưới đáy. Ông chủ khẽ nói với vợ rằng:
“Cậu ấy nếu như nhìn thấy miếng thịt, có lẽ sẽ cho rằng chúng ta đang thương hại cậu ấy, bố thí cho cậu ấy, đây cũng giống như làm tổn thương lòng tự trọng của cậu ấy vậy. Như vậy cậu ấy nhất định sẽ xấu hổ mà không đến đây nữa, thế thì cậu ấy sẽ đi đến quán ăn khác, nếu như cứ mãi chỉ ăn cơm như vậy hoài, thử hỏi làm sao còn có sức khỏe để học hành nữa đây?”. Hành động lạ thường của vợ chồng ông chủ quán cơm và cái giá nhận được lúc về già
Bà chủ vô cùng đồng tình với những lời của chồng: 
“Anh đúng thật là một người tốt!”.
“Nếu như anh không tốt, thì thử hỏi lúc đầu em có chịu lấy anh không?”, ông chủ cười đáp lại. Hành động lạ thường của vợ chồng ông chủ quán cơm và cái giá nhận được lúc về già
“Cám ơn, cháu đã ăn no rồi, tạm biệt!”, chàng trai đã rời khỏi.
Khi cậu cầm lấy hộp cơm nặng trịch ấy, ngoảnh đầu lại nhìn đôi vợ chồng trẻ. Ông chủ vẫy tay nói với chàng trai rằng:
“Hãy cố gắng lên, ngày mai gặp!”.
Trong mắt chàng trai rưng rưng nước mắt …
Từ đó, trừ những ngày nghỉ, chàng trai gần như mỗi ngày đều đến cửa tiệm ăn một tô cơm trắng, rồi lại mua một suất mang về, tất nhiên bên dưới của tô cơm trắng mang đi đó mỗi ngày đều ẩn giấu những bí mật khác nhau …
Về sau chàng trai đã tốt nghiệp, đã hơn 20 năm trôi qua, anh cũng không còn thấy đến nữa …
Một ngày kia, hai vợ chồng ông chủ đã gần 50 tuổi nhận được giấy thông báo rằng chính phủ sẽ dỡ bỏ mặt tiền cửa hàng gây cản trở thi công. Đôi vợ chồng này gần như đã đem hết số tiền tích lũy được cho con trai ra nước ngoài du học, lần này phải đối mặt với thất nghiệp ở tuổi trung niên, nghĩ đến hoàn cảnh khốn khó sau này, vợ chồng hai người không khỏi ôm đầu khóc òa lên trong cửa tiệm.
Chính ngay lúc này, có một người đàn ông mặc bộ đồ tây nhãn hiệu nổi tiếng đột nhiên đến thăm.
“Chào hai vị, tôi là phó tổng giám đốc của công ty XX, tổng giám đốc của chúng tôi bảo tôi đến đây. Hy vọng ông bà sẽ mở quán ăn tự chọn trong căn-tin sắp đưa vào sử dụng của công ty chúng tôi. Tất cả thiết bị và nguyên liệu nấu ăn đều do công ty chúng tôi chu cấp, hai vị chỉ cần trông coi các đầu bếp phụ trách việc nấu ăn là được rồi, lợi nhuận bên phía quý vị và công ty mỗi bên là 50%”.
Vợ chồng ông chủ nét mặt nghi hoặc hỏi rằng: 
“Tổng giám đốc của công ty các ông là ai? Sao lại đối xử với chúng tôi tốt như vậy? Chúng tôi trước giờ vốn không hề quen biết tổng giám đốc gì đó đâu!”
“Vợ chồng hai vị là đại ân nhân và người bạn tốt của tổng giám đốc chúng tôi. Tổng giám đốc đặc biết thích món thịt nướng và trứng kho của quán ăn hai vị đây, tôi chỉ biết nhiều như vậy thôi, những chuyện khác hai bên gặp mặt rồi sẽ rõ thôi!”.
Sau nhiều năm, chàng trai năm xưa chỉ mua một tô cơm trắng đã xuất hiện. Trải qua hơn hai mươi năm phấn đấu khai sáng sự nghiệp, anh đã thành công xây dựng con đường sự nghiệp của bản thân mình.
Để có được như ngày hôm nay, anh vô cùng cảm tạ sự cổ vũ và giúp đỡ của vợ chồng trẻ năm xưa, nếu như không có họ, có lẽ bản thân mình đã không thể thuận lợi hoàn thành việc học.
Sau một hồi trò chuyện, vợ chồng ông chủ chuẩn bị rời khỏi, tổng giám đốc đứng dậy cúi người một cái thật sâu, nói với họ rằng:
“Hãy cố gắng lên! Công ty sau này còn cần đến sự giúp đỡ của cô chú, ngày mai gặp!”.