Lang thang trên mạng, thấy hay quá, nhưng thật sự hơi dài và tế nhị, có lẽ có chút huyền bí hoặc hơi bị lấn làn trái nên xin mọi người đắn đo khi đọc và ném gạch đá nhưng thấy đây là một bài viết
đáng để đọc và suy ngẫm:
Bài này của KTS. TRẦN THANH VÂN viết hoặc đăng ở đâu mình cũng không tường tận nhưng thấy ở mấy trang Net đều trưng, quả là cũng sơ xuất nhiều với tác giả...
Lâu nay mọị
người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong
thuỷ Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên
quan đến phong thuỷ của kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nôị mở rộng ngày nay thì
họ hay hoỉ tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy,
nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhậy cảm mà tôi không thông thạo như
kinh tế, xã hôị, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
Cách đây vài
tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hoá 1000 năm Thăng
Long. Một nhóm nghiên cưú của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp
tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giưã chừng câu chuyện,
họ hoỉ tôi “Chị nghiên cưú đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả
lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”.
- “Cái gì? 55
năm?”.
- “Vâng! từ
ngày còn là con bé con”. Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi
phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học , tôi làm đơn
thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo
ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thuỷ cho biết để hành nghề kiến trúc
sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng,
đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với
những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc
lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy
tai nghe, không phải từ lý thuyết.
Sự thật và
trải nghiệm
Tôi xin mở đầu
câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Quốc mà
tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của môí
quan hệ hưũ nghị Việt Nam -
Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cưú chiến lược lâu năm có cách nhìn
khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng vơí trách nhiệm của một
công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định
rằng ít có ai có cơ hôị để “hiểu” Trung Quốc hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời
gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy
phải noí ra hôm nay để moị người cùng biết.
Đúng vậy, tôi
không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời moị người hay hát
“Việt Nam- Trung Hoa nuí liền nuí, sông liền sông/ Chung một Biển Đông, thắm
tình hưũ nghị…” trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên
quan đến Trung quốc.
Kỷ niệm thứ
nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953.
Ngày ấy tôi còn
nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết
yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chiụ cảnh máy bay bắn phá.
Nhưng , cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và
Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là
một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi
đã cưú sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng goị bằng thầy. Tiền
bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông tôi ngoại không
bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cưú mạng như
rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp , mớ khoai lang, nải chuối chín, có
khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi…Nhà chỉ có hơn một mẫu
ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không
thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.
Mẹ tôi nguyên
gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở
Hà Nôị nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nôị. Đêm toàn quốc kháng chiến
19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về
Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một
nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cuị làm việc đó, mẹ
tôi vưà nuôi sống cho gia đình và bản thân, vưà đóng góp tích cực cho kháng
chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào
những ngày đó: “Gió bấc heo may /xào xạc rung cây lá lá bay/một mùa đông bao
người đan áo…” chính là noí về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong
Hội phụ nữ kháng chiến cưú quốc.Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh
Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sơị bông, nhuộm sơị thành các
mầu xanh, mầu nâu, mầu cỏ úa rôì đan thành áo gưỉ ra chiến trường, đã được ca
ngơị như một chiến công lớn.
Nhưng trong
CCRĐ thì công cũng thành tôị, có một người bạn thân hôì nhỏ của mẹ tôi là Bí
thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là
trùm Quốc dân đảng đã giết ông bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và
mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì
dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ
thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.
Cha tôi đang ở
vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vôị vào Hà Tĩnh đón
chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vưà đặt chân đến Chợ Chu - Định Hoá - Thái
Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng
Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối vơí một người phụ nữ từng có
công lớn mà đến nay moị người vẫn còn nhớ.
Trong các xó
xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia
Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và
đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được
chọn làm điển hình.
Sau này, khi
ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, moị
người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
Kỷ niệm thứ 2:
Trời phạt
Chưa hết hoang
mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném
vào “Trận đồ bát quái” của tháng hưũ nghị Việt -Trung -Xô.
Liên Xô thì ở
tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Quốc thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ
gặp nhau ngoài đường là dù chưa quen biết người ta cũng liền nắm tay nhau hát
múa rộn ràng. Hoà Bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường
phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Quốc. Còn nhỏ xiú nhưng
tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến
gần đầu gôí, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai
bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Toà dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu
trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố
Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Quốc. Mỗi buôỉ
sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư”
ầm vang khu phố Cột cờ.
Ngày đó gia
đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể
hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận
bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về
lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt
Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một
người con gái Trung Quốc tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và
tặng khăn quàng đỏ trong buôỉ chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do chủ tịch
UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955
và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị
chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa
Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị- Phủ Tây Hồ.
Khương Nãi Tuệ
chết, mang theo chiếc khăn qủàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn
có nghệ sĩ thôỉ sáo Phùng Tử Tồn và hai người nưã. Mộ của họ mai táng ở nghiã
trang Bất Bạt huyện Ba Vì.
Sau cơn lốc
khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn
quàng đỏ thì ít và vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới con lốc làm lật úp ba
chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang
nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một
âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó
đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Quốc và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ
dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nôỉ thứ tình
hưũ nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa
em tôị nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến
tranh chống Mỹ?
Mấy chục năm
sau, để giải toả tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm
Phan Oanh ở làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm
con trẻ hồn nhiên không xấu/ Dấu nhà Trời ai thấu được đâu/ Một dải khăn đào
kết một cái cầu/ Để hồ thẳm nước sâu/ Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.
Du học ở Trung
Quốc
Tuôỉ trẻ hồn
nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm
giác hoang mang lẫn sợ hãi hôì nhỏ.
Năm 1960 tôi
tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại
ngữ để sang Trung Quốc theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các
bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dậy giỗ
ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận
phòng riêng phục vụ tận tình.
Những năm tháng
đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc
biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng
tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu
danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng
Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông hoạ sĩ già thì hai bàn tay
bôi mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng
mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê
trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những
ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi
vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano
sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà vơí cha mẹ, tôi
chưa bao giờ dám mơ tới.
Chưa bao giờ
tôi tự đặt cho mình câu hoỉ “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về
nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ reo mầm bành trướng phá hoại đất
nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hoỉ như thế cả, nhưng trong lòng
không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Quốc ngày đó còn
nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Quốc phải ăn ở chen chúc trong những căn
phòng chật chôị của ký túc xá, bưã cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân,
một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.
Ngược lại tôi
và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nưã ở
cùng trong một ngôi nhà giành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một Toà
nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng
một giành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn
rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại
thấy họ sống rất đạm bạc. Hoá ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi?.
Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan thận gì đó rất cần ăn đường
nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xiủ, thấy
vậy tôi hay đi mua đường mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của
các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về
nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngôì hóng gió, thì các
thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi
biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hôị, tôi có cảm giác như
đất nước này sắp có đại loạn.
Rồi đại loạn
đến thật, cách mạng văn hoá nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên
đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh
suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua
đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi
được chứng kiến các giáo sư trong trường đã từng giảng dậy chúng tôi, bị làm
nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán
trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tiũ.
Là một đưá con
gái xuất thân trong một gia đình có giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không
sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ
và xỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung hoa có truyền thống văn
hoá lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã
hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải
chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Tôi không sao chấp nhận
nôỉ, những người bị hành hạ là những giáo sư đáng kính của chúng tôi, những
người hành hạ các giáo sư lại là những bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên
chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy.
Nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.
Chúng tôi rất
sợ bị liên luỵ nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé
nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”
Đó là giưã năm
1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không
hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng
có đóng dấu nhưng không có chữ ký, chúng tôi khăn goí vôị vàng rút về nước. Tất
cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản
thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi
đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh trường Đại học Đồng Tế, ngôi trường được
xếp loại nhất nhì Trung Quốc, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên
hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nôỉ tiếng Lý Đức Hoá, người
từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ bác sĩ người Đức của ông không
biết đã trôi dạt đi đâu?. Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông
bà cấp dưỡng từng chăm sóc bưã cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng
tôi, mắt họ rơm rớm lệ.
Đến lúc đó thì
tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người
dân lao động Trung Quốc rất tốt, giới trí thức Trung Quốc cũng thật tốt, các
bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nôỉ
các nhà cầm quyền và thứ “tình hưũ nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát
thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy
họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.
Chúng tôi rơì
Thượng Hải buồn bã và vôị vàng như ma đuổi.
Thời kỳ đã
trưởng thành
Chúng tôi về
đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả
nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm
giác khó chiụ của những ngày cuôí cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh
viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ
Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng
khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi
vơí khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.
Sau đó, môĩ người
đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện
Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.
Vĩnh Tường của
bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngôì tư lự
một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ
niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.
Lúc này đã đủ
lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể noí ra vơí ai.
Tôi ở cùng nhà vơí một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau
và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Quốc giáo điều” thì mặc
kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Míc bay trên bầu trời và
những phong lương khô để chống đói.
Dù sao, 5 năm ở
Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý
giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự qúa đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó.
Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi
theo roĩ và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi
ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết.
Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ
khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu
năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ
có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nôị bộ của Sự kiện Thiên An
Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những
người cầm đầu nhà nước Trung Quốc thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau
chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời
trung cổ của họ mà thôi.
Trung quốc hôm
nay?.
Sau 60 năm
thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Quốc đã
thay đôỉ rất nhiều và rất đáng kính nể.Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ,
thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy
khí thế của một Trung quốc đại nhâỷ vọt mà họ đang ra sức qủang bá, vẫn còn có
một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và
những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung hoa đã từng bị chà đạp, bị
xỉ nhục và chiụ nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu,
con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất
nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng
chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.
Đến Thượng Hải,
tôi thấy Thượng Hải thay đôỉ rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến
thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng tế tân thôn” bên cạnh trường và
thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất
nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vưà gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức
nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hôị ngộ sau nhiều năm xa cách.
Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và
đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng
” noí về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức
Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi.“Nghiệp chướng” là cái
giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình
trí thức để rôì đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi noí vơí tôi: “Tôi
từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ
con tôi, cháu tôi hôm nay”
Có trong tay
cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã giành ra gần
2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đôỉ của nước Trung Hoa. Nhưng khắp
Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa
noí, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vưà là chỗ dựa vưà là gánh nặng uy
hiếp Nhà nước Trung quốc: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo
vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thoí
quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa”để đối phó vơí các lực lượng thù địch,
nhưng khi không cần nưã hoặc không sử dụng được nưã thì họ tiêu diệt “chỗ dựa”
đó đi.
Tôi nhớ lại
ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như
Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn
Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển hơn một tỷ dân.
Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời
nay có các băng đảng lưu manh kết hợp vơí công an và chính quyền hình thành hệ
thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vưà
qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc
gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót
2000 tên, trong số đó có cả giám đốc sở tư pháp và nhiều sĩ quan công an.
Cuôí cùng, có
thể quan sát “Trung Quốc hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người
Trung Quốc đang xuất hiện ở Việt Nam ngày
càng nhiều vơí vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá
hoặc vì đã là tôị phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc
đời phá phách, trộm cắp, lưà đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực
lượng nằm vùng nôị ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.
Lũ người này có
đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.
Sau khi đã biết
quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là
trấn áp nôi bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta. Tôi quyết
định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn
tập trung thời gian vào nghiên cưú các lý thuyết về phong thuỷ địa mạch, thứ lý
thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.
Chúng ta phải
cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có
công đầu về việc xử dụng chữ gốc La Tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc
truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ 16-17 như Francisco de Pina, đến người biên
soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes ( 1651) và nhất là
người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ thứ 19 để trở thành chữ viết
chính thống của nước ta đầu thế kỷ 20 là Bá Đa Lộc - Pierre Joseph Georges
Pigneau de Behaine. Cám ơn các vị giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khoỉ ảnh
hưởng của văn hoá nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí
thức trưởng thành trong thế kỷ thứ 20 đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của
khoa học Phương Đông, trong đó có Phong Thuỷ, Địa Mạch và Kinh Dịch.
Sau 17 năm nghỉ
việc ở Bộ xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lưá tuôỉ
của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu
trúc phong thuỷ địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất
thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là
họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi
nói nhà cầm quyền Trung Quốc thèm muốn chư không phải nhân dân Trung quốc, bơỉ
vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được
hưởng lợi gì, có khi còn bị thiệt thòi hơn.
Hệ Địa mạch nước
Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich. Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, nuí,
sông…chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich.
Theo phần tích
và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của Kts Lý Thái Sơn, thì đó là một
thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào,
đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giưã Hoàng Hà và
Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và
hào hai gãy, hào ba gẫy có nghiã là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng
như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có môí quan hệ về kinh tế,
phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
Mặt khác, ngay
cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết qủa của một quá trình chiến tranh và đồng
hoá lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách
cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước
Trung Hoa chưa bao giờ hết nôị chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO”
và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không
chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao …
đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó
sẽ giầu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn
áp. Họ đàn áp ở ngay giưã Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã
man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.
Tuy vậy, các
thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cưú kỹ phong thuỷ
địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được yếu điểm cấu trúc
trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ
đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya trên qua Cao Tây Tạng, qua nguyên
Vân Nam, qua Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống Vinh Hạ Long rôì đi đến đáy đại
dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở Vịnh Mindanao Philíppin. Đó cũng là mạch đất
độc đáo nôí từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao
chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm
chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc
bánh sendwich đó không cho nó trôi trượt đi, mà họ có thể mau chóng làm chủ cả
thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “Củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm
thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.
* Sau hàng ngàn
năm vơí nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến
nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một
ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn
ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán ( người Hán thật thì ít, người
Hán mới bị đồng hoá thì nhiều).
* Ngược lại,
khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một
quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung hoa từ năm 1914
đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt
ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và huỷ diệt người Tây Tạng,
đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân
tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các
quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có
nghiã là Nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn.
Còn ở Việt Nam chúng
ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm”
đây là chỉ giặc Phương Bắc, bơỉ vì Phương Đông, Phương Tây và PhươngNam gần
như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những
nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền…Bởi thế ta rất cần biết tại sao
họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
Trong quá trình
địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dẫy nuí cao đóng vai trò
đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích.
Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì Đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của
mạch đất này.( đọc Đại địa mạch quốc gia ) Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình
con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn vơí đỉnh Phan Xi Pan cao
3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, toả ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm
Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NUÍ CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý
Thái Tổ chọn nơi này dựng kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó
vùng đất kỳ bí này và Cao Biền Tấu Thư kiểu tự là một trong những kết qủa tìm
kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài gioỉ gốc Mãn Châu
thì vùng đất nhỏ bé này tụ hôị rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều
hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng,
huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đương Y Tôn yểm phá các báu
huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng
đất này, nên đã xây thành Đại La mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua
Đường trị tôị. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các
nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình
chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
Hiện nay họ
biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phiá Tây qua
Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ
đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.
Không phải ngẫu
nhiên vô cớ mà trên Vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có Vịnh Hạ Long bao
gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có Vinh Bái Tử Long và
ngoài khơi xa của Hải phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có
tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng..., cái tên Long
liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xoè ra ở Đồng Bắc Bộ, đi xuống nước ở
Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc Vịnh Mindanao thuộc Philippin.
Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng
lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn
trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và
nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thưà của chính quyền Quốc dân Đảng
từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính
quyền nhà nước họ không thay đôỉ. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam,
Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi
phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ
con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bơỉ vì chiếm cứ được cái yết
hầu này là họ chiếm được cả Châu A và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi
tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để
cho họ làm điều đó không?
Đồng bằng Bắc
bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất
nước Việt Nam ngày
nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà
thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu/Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
Cốt lõi Trục
Phong thủy nước ta là:
ÂM DƯƠNG TƯƠNG
ĐỒNG
Biển Đông Thái
Âm
Đảo Hải Nam Thiếu
Dương
Bán đảo Đông
Dương Thái Dương
Biển Hồ Thiếu Âm.
Điều đó cho
thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi Đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ
thế kỷ 16 trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền
đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con
thuyền thì các phần muĩ thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời
nhau. Bơỉ vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận
mệnh đất nước, để xác đinh thái độ và hành động của mình.
LỜI CUỐI BÀI
Để kết thúc bài
viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu
nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề
nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế
và chính trị trong môí quan hệ vơí Trung Quốc hiện nay. Bơỉ vậy tôi muốn khuyên
tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như
tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khoỉ cõi u mê của sự hoang tưởng trong môí
quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được
lời dậy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm
nhuần lời dậy bảo của cha ông.
Tôi biết, lúc
này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn
khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người
bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở
sức mạnh Trung Quốc và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy
ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?..
Đông dân là một
sức mạnh.
Đúng vậy, ngày
tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất
tự hào noí rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh
bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.
Trong thế vận
hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động tổ chim độc đáo hết 432 triệu
USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc
đó có vẻ cũng vẫn tốt.
Hiện nay họ
đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển
Đông và các căn cứ hải quân... tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để doạ nạt chúng
ta và các nước trong vùng.
Có điều, một
thảm hoạ đông dân mà Nhà nước không vì dân, thì Nhà nước sẽ khốn đốn vì sự phản
ứng của dân. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu
người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu
hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Qủang Châu... đang chia cắt
quyền lực của đất nước họ hay không ? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không
cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.
Vậy thì moị nỗ
lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không ?