Máy ảnh - tổng quan máy ảnh
Cảm biến - phân loại và kích thước
Ống kính - phân loại ống kính
Phối cảnh - từ hiệu ứng tiêu cự
khác nhau của ống kính
Phơi sáng - tốc độ màn trập
Ánh sáng - ISO * Tốc độ màn trập *
Khẩu độ ống kính
Chế độ chụp - các chế độ chụp trên
máy ảnh
Đo sáng - các cơ chế đo sáng của
máy ảnh
Biểu đồ Histograms - hiểu và sử
dụng biểu đồ khi chụp ảnh
Tự động lấy nét - cơ chế hoạt động
và cách dùng
DOF - hiểu & kiểm soát độ sâu
trường ảnh
Bố cục - cơ bản & mở hướng sáng
tạo
Cân bằng trắng - màu và nhiệt độ
màu
Tầm quan trọng của hậu cảnh
(Background) - những kiến thức về hậu cảnh
Đèn (Flash) - Đèn & vài cách xử
lý
Tiền cảnh sáng hậu cảnh tối - lý do
và cách xử lý
Trắng Đen
Thời điểm ánh sáng đẹp
TỔNG
QUAN MÁY ẢNH
Nhiếp
ảnh số đã vượt qua nhiếp ảnh phim và trở nên phổ biến. Những người làm nghề ảnh
chụp ảnh dùng phim bất đắc dĩ phải thay đổi thiết bị ghi hình và cập nhật công
nghệ số, hoặc "ngồi chơi xơi nước" hoài cổ về thời hoàng kim trong
quá khứ. Còn trong thế giới ảnh nghệ thuật, máy ảnh chụp phim vẫn được ưa
chuộng. Lời khuyên thật đơn giản: hãy cứ chọn cho mình những công cụ ghi hình
cần thiết và phù hợp miễn sao gặt hái thành quả như mong muốn.
Trước
đây, một thợ chụp chuyên nghiệp có thể tùy chọn cho mình một chiếc máy ảnh giữa
vô số những kiểu máy ảnh chụp phim—phản xạ ống kính đơn (SLR single lens
reflexes), ống kính kép (twin lens reflexes), máy dùng khung ngắm trắc viễn
(rangefinders), và một số khác, tùy mẫu mã người ta nhìn thấy mà đặt tên cho
chúng—khi chọn công cụ cho công việc làm ăn của họ. Hiện nay, cùng với sự xuất
hiện của công nghệ và phần mềm kỹ thuật số, hầu hết những người chụp ảnh nghiêm
túc và lành nghề đều có thể tin cậy vào khả năng một máy ảnh số phản xạ ống
kính đơn, hay còn gọi là D-SLR (digital single-lens reflex).
Một
chiếc D-SLR là một công cụ ghi hình quan trọng, như các máy ảnh chuyên chụp
phim, cho phép ngắm các đối tượng qua ống kính và ghi lại hình ảnh trên cảm
biến. Tiến trình này diễn ra qua một gương lật phản quang và cầu phản xạ ngũ
giác đưa hình ảnh đến ống ngắm mà người ta gọi là “nhìn sao chụp vậy” (WYSIWYG
- What You See Is What You Get). Thật khó hình dung được, mỗi khi bạn nhấn phím
chụp để chụp một bức ảnh, một gương phản xạ nằm giữa ống kính và cảm biến lật
lên, màn trập mở ra, và cảm biến được phơi sáng trong một thời gian nhất định.
Đồng thời bộ vi xử lý ghi nhận các thông tin hình ảnh đã được cảm biến ghi lên
thẻ nhớ. Tốc độ chụp liên tiếp của một số máy ảnh ngày nay rất cao, nhiếp ảnh
gia thể thao và báo chí sử dụng, chúng có thể chụp đến 8 - 11 bức ảnh trong một
giây và có thể chụp liên tục 160 - 200 ảnh mới đầy bộ nhớ đệm.
Có
hai loại máy ảnh D-SLR dành cho tất cả các nhu cầu và mục đích.
Trước
hết là loại máy ảnh mang dáng dấp truyền thống, cơ bản là được thiết kế dựa
trên kiểu máy ảnh chụp phim 35mm (Full Frame) với kích thước bằng khổ tương
đương phim 35mm hoặc nhỏ hơn (Crop 1.5x, 1.4x, ...).
Những
người chụp ảnh vốn thường sử dụng cả hai loại máy ảnh phim chuyên nghiệp khổ
trung (medium format) và khổ lớn (large format) đều nhận thấy rằng, trong một
số trường hợp, loại D-SLR đời mới có thể mang lại hình ảnh chất lượng tốt hơn
so với hình ảnh mà họ có thể có được từ phim. (thuật ngữ “khổ” của một máy ảnh
là để nói về kích thước âm bản của máy ảnh chụp phim và kích thước của cảm biến
của máy ảnh KTS. Khổ lớn là muốn nói đến những máy ảnh cho ra phim âm bản cỡ
4,5 inch và lớn hơn, trái lại, khổ nhỏ là để chỉ về những máy ảnh khổ 35mm).
Những người trước đây sử dụng các máy ảnh phim compact và rangefinder thuộc
hàng cao cấp cũng đang bị hấp dẫn với tính chất hữu dụng và chất lượng hình ảnh
số do D-SLR mang lại.
Loại
thứ hai là phần số gắn trên SLR medium format (digital back). Đơn thuần chỉ là
bộ phận số gắn trên máy ảnh dùng phim medium format. Một vài nhà sản xuất cho
ra những chiếc D-SLR khổ lớn bằng cách sử dụng các cảm biến CCD lớn hơn (medium
số). Những loại máy ảnh này có xu hướng được dùng để chụp những bức ảnh đòi hỏi
độ phân giải cao, như phong cảnh, thời trang hay ảnh tĩnh vật chẳng hạn.
Khi
sở hữu một chiếc máy ảnh, bạn cần hiểu rõ nó, thành thạo sử dụng, và nó sẽ là
công cụ phục vụ cho ý muốn của bạn. Luôn nhớ rằng công nghệ mới luôn được cải
tiến không ngừng đươc nâng cao. Ngay khi bạn vừa mua một chiếc mẫu mới và làm
quen với việc sử dụng nó, thì một mẫu khác mới hơn sẽ có mặt trên thị trường.
Vì vậy, hài lòng và khai thác tối đa công cụ hiện có, đầu tư ý tưởng và những
dự án ảnh của mình nhiều hơn.
CẢM
BIẾN
Cảm
biến ảnh bên trong một chiếc máy ảnh số thay thế cho tấm phim. Có hai loại cảm
biến chính được sử dụng trên các máy ảnh D-SLR. Đó là CMOS (Complementary Metal
Oxide Semiconductor) và CCD (Charge Coupled Device).
Cả
hai loại cảm biến có những đặc tính riêng, và chúng có nhiều nét đặc trưng khác
nhau có thể cần phải lưu ý khi mua. Ngày nay, các hãng hầu hết chỉ sản xuất máy
ảnh cảm biến CMOS. Trước đây, điều này thật quan trọng khi xem xét một số file
ảnh chụp thử và xem xét những điểm đặc trưng của đời máy mà bạn có ý định mua.
Khả
năng chụp ở điều kiện ánh sáng yếu khi sử dụng độ nhạy ISO cao cũng là điều
quan tâm. Một số rất tuyệt vời với ánh sáng tự nhiên bình thường song lại rất
tồi khi được sử dụng với độ nhạy ISO cảm biến ở mức cao. Hãy kiểm tra độ
“nhiễu” hay “nhiễu hạt” khi ở ISO cao. Hãy nghiên cứu kỹ và chọn một cảm biến
phù hợp với thể loại nhiếp ảnh mà bạn quan tâm nhất.
Trong
khi, vào thời còn chụp phim, bạn có thể mua máy ảnh rồi sau đó mới quyết định
cần mua loại phim nào, thì hiện nay, bạn phải đưa ra quyết định quan trọng đó
ngay từ đầu. Chẳng hạn, nếu cảm biến ít sắc nét hơn so với máy ảnh khác, hoặc
tính chất đặc trưng về màu sắc không phù hợp sở thích, thì có thể bạn sẽ hối
tiếc vì chọn lựa của mình. Một số máy ảnh D-SLR có tích hợp sẵn chức năng làm
sắc nét để bù cho các bộ lọc khử răng cưa, nguồn gốc chính của hiện tượng “bị
mờ nét”
Thoạt
tiên, có thể bạn không nghĩ rằng kích thước vật lý của cảm biến là một yếu tố
cần cân nhắc, mà cho rằng chất lượng của tập tin ảnh mới được coi là yếu tố chủ
chốt. Tuy nhiên, cảm biến nhỏ trên một chiếc D-SLR có thể là 25.7mm x 16.7mm,
so với một chiếc máy ảnh chụp phim khổ 35mm truyền thống là 24mm x 36mm. Trong
trường hợp này, một ống kính 50mm, nếu trên một máy Full Frame được coi là một
ống kính tiêu chuẩn, thì hình ảnh crop nhỏ tương đương như máy cảm biến FF gắn
một ống kính 75mm.
Như
vậy, ống kính 50mm trên máy ảnh DSLR full-frame sẽ có góc thu hình rộng hơn là
khi gắn trên máy ảnh DSLR crop sensor. Ống kính 50mm của máy ảnh DSLR
full-frame là ống kính normal tiêu chuẩn nhưng khi gắn trên máy ảnh DSLR crop
sensor lại là một ống kính góc hẹp hơn, tương đương với một tiêu cự dài hơn.
Chẳng hạn ống kính 50mm gắn trên máy ảnh số có bộ cảm biến nhỏ tỷ lệ là 1.6x sẽ
là 80mm.
Cảm
biến càng lớn, lưu nhận càng nhiều ánh sáng. Kích thước 1.8" còn được gọi
là APS-C và có dao động một chút khác biệt như APS-C film có kích thước 25.1 x
16.7 mm, APS-C của Sony là 21.5 x 14.4 mm, Nikon "DX" là 23.7 x 15.7
mm, trong khi Canon thì có khi thì nhỏ hơn khi thì lớn hơn, như 22.2 x 14.8 mm
và 28.7 x 19.1 mm. Cảm biến ảnh của máy ảnh DSLR và của máy ảnh Mirroless có
kích thước Micro Four Thirds (17 x 13mm), APS-C (24 x 16mm), hoặc Full-Frame
(36 x 24 mm). Các máy ảnh du lịch nhỏ hoặc điện thoại có kích thước cảm biến
rất nhỏ. 1/2.5" là kích thước phổ thông nhất trong một số máy PnS giá rẻ;
với điện thoại, ngoài 1/2.5" còn có 1 / 3.2, 1 / 2.3, 2/3, 1 / 3.2... với
1/2.7 là tương đương 5.37mm x 4.04mm là rất nhỏ dành cho camera điện thoại.
Cảm
biến lớn hơn có thể chứa các điểm ảnh có kích thước lớn hơn. Khả năng chụp
trong môi trường thiếu sáng tốt hơn. Chẳng hạn một máy ảnh Full Frame và một
máy ảnh APS-C có cùng số lượng điểm ảnh là 16MP. Thì điều đó không có nghĩa là
chất lượng hình ảnh cũng sẽ tương đương. Trên diện tích FF lớn hơn, các điểm
ảnh lớn hơn, ghi nhận nhiều ánh sáng hơn, chất lượng ảnh sẽ tốt hơn.
TÔI
CẦN LOẠI ỐNG KÍNH NÀO ?
Sau
khi sắm máy ảnh là sắm ống kính. Thường một chiếc máy ảnh khi được bán kèm them
một ống kính Kit như 18-55mm là ống kính phù hợp cho người bắt đầu. Sau một
thời gian sử dụng thành thạo thiết bị, quen thuộc với các cách canh khung sắp
xếp bố cục, nhạy bén khoảnh khắc, chụp ảnh có ý tứ... thì bắt đầu định hình nhu
cầu chủ để rõ ràng, và phát sinh nhu cầu mua ống kính phù hợp.
Có
nhiều loại ống kính với công dụng khác nhau. Để biết được mình nên mua loại
nào, bạn cần phải biết mình muốn dùng nó để chụp những gì. Các ống kính có
nhiều dạng và kích cỡ - và đều có đặc tính riêng. Điểm quan trọng nhất của một
ống kính chính là độ dài tiêu cự, gọi tắt là tiêu cự. Tiêu cự là khoảng cách
nằm trên trục tính từ trung tâm quang học của ống kính đến điểm hội tụ trên mặt
phim hay cảm biến khi ống kính lấy nét ở vô cực. Tiêu cự ống kính càng dài thì
độ khuếch đại hình ảnh càng lớn, kích thước tiêu cự và hình ảnh tỷ lệ thuận.
Hình ảnh chụp bằng ống kính tiêu cự 100mm có hình ảnh gấp đôi hình ảnh chụp
bằng ống kính 50mm trên cùng máy ảnh.
Một
ống kính dùng cho hai loại máy ảnh số có kích thước cảm biến ảnh khác nhau sẽ
có cùng độ khuếch đại nhưng khác góc thu hình. Chẳng hạn ống kính 50mm trên máy
ảnh DSLR Full-Frame (tương đương kích thước film 35mm) có góc thu hình rộng hơn
khi gắn trên máy ảnh DSLR Crop Sensor (tỷ lệ x1.3 hoặc x1.6 với dòng máy DSLR
Crop sensor của Canon; Còn Nikon, Pentax, Sony thường là x1.5; hay các dòng máy
chuẩn Four Thirds thường là x2). Từ đó, ống kính 50mm trên máy ảnh DSLR
Full-Frame là ống tiêu chuẩn normal thì khi gắn trên máy DSLR crop sensor lại
là ống kính góc hẹp hơn, tương đương ống kính có tiêu cự dài hơn trên FF. Chẳng
hạn ống kính 50mm gắn trên máy ảnh số có cảm biến tỷ lệ x1.5 là 75mm.
Dưới
đây là một liệt kê các dòng ống kính khác nhau và một số ứng dụng của chúng.
Có
ba loại ống kính cơ bản:
góc
rộng
trung
bình (tiêu chuẩn)
tê-lê
Một
ống kính được phân loại cụ thể dựa trên tiêu cự của nó.
50mm
là độ dài tiêu cự truyền thống đối với một ống kính tiêu chuẩn.
Dưới
50mm được xem là một ống kính góc rộng.
Trên
50mm được cho là ống kính tê-lê.
Các
ống kính vượt quá 300mm được xem là ống kính siêu tê-lê.
Ống kính trung bình (normal):
Là
ống có độ dài tiêu cự tương đương đường chéo khung phim hoặc cảm biến của máy
ảnh dùng ống kính này. Chẳng hạn máy ảnh phim 35mm, kích thước khung phim là
24mm x 36mm có đường chéo là 43mm thì tiêu cự trung bình là từ 45mm - 55mm.
Nhiều người bảo ống có tiêu cự tầm trung này tương đương góc nhìn của mắt
người, phù hợp với nhiều tình huống chụp. Mình thích cách phân biệt trên hơn.
Đặc
tính của ống kính trung bình:
Góc
thu hình khoảng 45°, xấp xỉ góc nhìn phối cảnh như mắt người.
Chủ
đề giữ đúng tỷ lệ, không bị biến dạng.
Đa
dụng trong nhiều hoàn cảnh chụp.
Ống
kính tiêu chuẩn (50mm) cho ra một góc ngắm từ 45 đến 55 độ, tương đương với góc
nhìn của mắt thường. Do đó, nó mang lại hình ảnh với dáng vẻ tự nhiên; nó ghi
hình các vật thể theo cách gần giống như chúng ta có thể nhìn thấy trên thực
tế.
Do
loại ống kính này ghi hình các đối tượng giống như chúng ta nhìn thấy, nên
chúng mang lại những hình ảnh trông rất “tự nhiên bình thường” và, vì thế,
chúng được sử dụng rộng rãi như một ống kính đa mục đích.
Ống
kính góc rộng (wide-angle):
Là
ống kính có tiêu cự ngắn hơn và dĩ nhiên góc thu hình rộng hơn ống kính 35mm
đối với máy ảnh DSLR Full-Frame. Nói về cái ống 35mm được nhiều người chụp ảnh
chuyên nghiệp "xem" là ống tiêu chuẩn (normal) nhưng bản chất nó là
ống wide. Loai ống góc rộng này sử dụng trong ảnh đại cảnh, kiến trúc... và đắc
dụng khi ghi hình ở hoàn cảnh bị hạn chế góc chật, hoặc người dùng muốn có hiệu
ứng góc rộng. Với loại ống góc rộng, chỉ cần thay đổi nhỏ trong góc chụp (vị
trí đặt máy) có thể làm một khung ảnh bình thường trở nên độc đáo và ngược lại.
Đặc tính của ống kính góc rộng:
Góc
thu hình từ 60° - 180°
Vùng
ảnh rõ (dof) rất sâu
Tăng
sự nổi bật của chủ đề ở gần trong phối cảnh rộng, ống càng có tiêu cự ngắn,
hiệu ứng này càng tăng. Tỷ lệ gần xa rất mạnh tạo tương quan tiền cảnh hậu cảnh
độc đáo nếu dùng đúng cách.
Đường
chéo là phần mạnh nhất trong tầm nhìn góc rộng, kéo hướng nhìn về hộ tụ rất xa.
chẳng hạn con hẻm cụt có thể như một ngõ sâu hun hút.
Hạn
chế các chủ đề hình dạng tròn, mặt người ở gần góc và cạnh khung dễ bị biến
dạng.
Với
một số lượng khá lớn những ống kinh góc rộng tiện dụng thuộc loại có tiêu cự từ
8mm đến 35mm, thì việc chọn lựa thật là kỳ công và có thể gây nhiều bối rối. Cơ
bản mà nói, ống kính càng rộng, việc sử dụng nó càng phải chuyên biệt.
Hiệu
ứng ống kính góc rộng có thể làm méo hình ảnh và việc sử dụng nó, nếu có, cũng
rất hạn chế. Tôi sẽ gợi ý là nên có một ống kính 24mm hoặc 28mm—tiêu cự này phổ
biến hơn— để bắt đầu là tốt nhất.
Ống
kính góc rộng 35mm thường được dùng như ống kính tiêu chuẩn bởi vì, mặc dầu độ
dài tiêu cự có hơi nhỏ hơn ống kính tiêu chuẩn 50mm một chút, nhưng sự khác
biệt không lớn. Nó có thể mang lại cho người chụp ưu điểm về độ sâu trường ảnh
rất dày, một lợi ích thực sự cho người mới bắt đầu vốn chỉ chụp ở những nơi có
không gian hạn chế và muốn có hình ảnh lọt vào vùng lấy nét càng nhiều càng
tốt.
Do
góc nhìn rộng hơn ống kính tê-lê và ống kính tiêu chuẩn, nên rõ ràng ống kính
góc rộng chính là loại được dùng cho những nơi có không gian hạn chế hoặc đối
tượng rộng lớn. Chụp ảnh gia đình dịp lễ họp mặt vào lúc có đến hàng chục người
thân tề tựu lại với nhau là việc không thể, trừ khi bạn sống trong một ngôi nhà
rất rộng—hoặc có một ống kính góc rộng để chụp.
Chụp
ảnh phong cảnh cũng là một lĩnh vực mà ống kính góc rộng rất hữu dụng. Việc
dùng ống kính góc rộng có thể giúp cho lấy cận cảnh đối tượng chính để làm cho
nổi bật lên trong khung hình, trong khi vẫn giữ nét tối đa cho hậu cảnh như ý
muốn.
Ống
kính télé ( ống kính tiêu cự dài, ống kính tầm xa):
Là
ống kính có độ dài tiêu cự lớn hơn tiêu cự của ống kính normal. Loại ống này
cho ta góc nhìn hẹp đến rất hẹp, tức là khuếch đại rất lớn các thành phần nhỏ
của chủ đề trong khung ảnh. Vì vậy, ống tele hữu dụng khi cần lấy chi tiết một
chủ đề mà ta không thể tiếp cận. Ống có tiêu cự càng dài thì độ khuếch đại hình
ảnh càng lớn và khoảng ảnh rõ càng mỏng. Phối cảnh chụp bởi ống kính tele có
hiệu ứng "mỏng/ dẹt", các mặt phẳng trong khung sát lại với nhau, có
thể tạo bố cục độc đáo nhưng cũng tạo đối tượng ở xa to hơn bình thường như mặt
trăng/ mặt trời.
* Đặc tính của ống kính télé:
Độ
khuếch đại lớn
Vùng
ảnh rõ mỏng, tách chủ đề với hậu cảnh (xoá phông)
Tiêu
cự càng lớn, phối cảnh bị dồn ép lại, chiều sâu ảnh giảm
Dài
và nặng hơn các loại khác
Chúng
ta ai cũng biết ống kính tê-lê tầm dài có thể đưa đối tượng chụp vào ngay giữa
bức ảnh; các đối tượng chụp có vẻ ở rất xa khi chụp với ống kính tiêu chuẩn,
thì lại có vẻ như nằm cách trước mặt người chụp chỉ vài bước chân khi chụp bằng
ống kính tê-lê.
Ống
kính tê-lê được sử dụng rất nhiều chứ không phải chỉ để chụp ảnh thể thao. Góc
thu hình (tiếp nhận ánh sáng) hẹp và khả năng phóng đại rất lớn giúp cho người
chụp thu ngắn khoảng cách giữa họ với điểm chủ đạo của bức ảnh. Ống kính cho
phép bạn chụp được cảnh chụp với tỉ lệ nhỏ hơn, vì thế mà đối tượng chụp của
bạn không bị mất. Hiệu ứng này làm cho các ống kính tê-lê đặc biệt thích hợp
với chụp ảnh phong cảnh khung hẹp khi có ý muốn tách riêng các chi tiết trong
một vùng rộng lớn hỗn độn.
Một
ống kính tê-lê có độ dài tiêu cự dài hơn thường có độ sâu trường ảnh mỏng hơn
ống kính góc rộng, hoặc thậm chí cả ống kính tiêu chuẩn. Tính chất này có thể
được dùng để làm mờ hậu cảnh nhằm tạo ra một chủ thể rõ ràng tách biệt khỏi hậu
cảnh.
Bạn
phải lưu ý đến yếu tố này khi sử dụng ống kính tê-lê để chụp ảnh phong cảnh mà
trong đó, càng có nhiều phần của bức ảnh lọt vào vùng lấy nét càng tốt. Việc
này thường đòi hỏi tốc độ chụp chậm và khẩu độ nhỏ để tạo trường ảnh dày hơn.
Một giá ba chân sẽ là cần thiết nhằm giữ cho máy ảnh hoàn toàn không bị rung
lắc.
Một
ống kính tê-lê tầm ngắn—90mm, 110mm, hoặc 135mm- là lý tưởng để chụp chân dung.
Nó cho phép người chụp duy trì được một khoảng cách thích hợp với chủ thể,
trong khi vẫn giúp cho sử dụng độ sâu trường ảnh hạn chế nhằm tránh làm rối
loạn hậu cảnh.
Ống
kính zoom (đa tiêu cự) hay Ống Kính tiêu cự cố định (Fixed)
Ống
kính thay đổi được tiêu cự. Nếu tiêu cự thay đổi trong khoảng tiêu cự ngắn được
gọi là wide-zoom (chẳng hạn ống 14-24mm); nếu thay đổi trong khoảng tiêu cự dài
được gọi là tele-zoom (chẳng hạn ống 100-400mm); nếu thay đổi từ tiêu cự ngắn
đến tiêu cự dài thì được gọi đơn giản là zoom (chẳng hạn ống 18-200mm).
* Đặc tính của ống kính zoom:
Cơ
động của nhiều tiêu cự.
Có
thể chụp zoom in / zoom out
Phù
hợp với nhiều hoàn cảnh cần phản ứng nhanh
Do
ống kính zoom ngày càng đạt chất lượng tốt, nên chúng trở nên phổ biến hơn. Vài
năm trước, một ống kính zoom có thể không chất lượng bằng một ống kính độ dài
tiêu cự cố định và được xem là một thay thế rẻ hơn so với việc mua một số ống
kính tiêu cự cố định.
Tình
trạng đó đã nhanh chóng thay đổi, và một số ống kính zoom sắc nét và nhanh nhạy
nhất hiện nay đã có nhiều trên thị trường. Ống kính zoom cho phép người chụp
ảnh mang theo ít trang thiết bị hơn, do nó thường có thể thay cho hai, hoặc
thậm chí ba, ống kính thông thường. Một ống kính zoom chất lượng cao thường đắt
tiền và giá của nó tương đương với hai hoặc ba ống kính tiêu cự cố định.
Nếu
phải chọn giữa ống kính tiêu cự cố định và ống kính zoom tiêu cự tùy biến, thì
bạn nên chọn loại cố định. Lý do rất đơn giản: Khẩu độ không đổi nhiều trường
hợp lợi sáng hơn. Với một ống kính zoom tùy biến, khẩu độ có thể hạ xuống đến
hơn một f-stop. Chẳng hạn, nếu bạn zoom từ 28mm đến 135mm và bắt đầu với khẩu
độ f/3.5, bạn có thể kết thúc bằng f/5.6. Nhưng ống fixed một tiêu cự thì phải
dịch chuyển để có khung ảnh như ý muốn, không thể ngồi một chỗ zoom ra vào.
Ống
kính Macro
Các
loại ống kính thông thường có khoảng cách lấy nét tối thiểu xấp xỉ gấp 10 -30
lần độ dài tiêu cự. Chẳng hạn ống kính 50mm thì khoảng cách lấy nét gần nhất có
thể là 50cm. Nên loại ống kính macro hay micro là ống kính một tiêu cự được
thiết kế đặc biệt để có thể lấy nét cực gần và cho hình ảnh cực nét ở cự ly
gần. Ống macro thường có tỷ lệ phóng đại 1:1 tức là kích thước vật thể bao
nhiêu trong thực tế thì trên bề mặt phim hay cảm biến ảnh cũng có kích thước
như vậy.
Ống
macro thường được dùng để chụp các loại côn trùng, bò sát, hoa lá nhỏ, các chi
tiết nhỏ phục vụ nghiên cứu. Người ta còn gắn thêm các ống nối (tube) để tăng
độ khuếch đại, thậm chí gắn qua hệ thống ống nối đặc biệt ống macro với kính
hiển vi để chụp vi trùng. Nếu bạn thích
thú với việc chụp côn trùng, cận cảnh cỏ cây hoa lá, hoặc bất cứ đối tượng nhỏ
bé nào, thì ống kính macro có thể là thứ bạn cần.
Thường
tiện dụng với các tiêu cự 35mm, 50 hoặc 60mm, 100, 105mm, và như ống 200mm
trong hình là loại quý hiếm; loại ống kính này tương tự với ống kính thông
thường ở chỗ chúng có thể lấy nét đến mức không hạn chế, nhưng chúng lại được
thiết kế nhằm lấy nét ở những khoảng cách cực kỳ ngắn. Chúng được dùng để chụp
cận cảnh.
Ống
kính mắt cá (Fisheye)
Gọi
là ống kính mắt cá bởi vì nó cho ra những hình ảnh trông giống như mắt cá, loại
ống kính này có góc rộng rất lớn. Nó có thể mang lại một góc nhìn 180 độ và một
vòng tròn hay một bức ảnh ‘full-frame’ bị méo lệch đi rất nhiều ở các phần rìa.
Do đây là loại hình ảnh duy nhất nó có thể tạo ra, nên rõ ràng là việc sử dụng
nó rất hạn chế. Tất cả đường thẳng không đi qua tâm đều bị uốn cong, càng xa
tâm càng cong.
Ống
kính Tilt-Shift
Ống
kính trượt khá đắt tiền, nhưng nếu thích chụp ảnh các toà nhà cao tầng, bạn sẽ
tìm thấy sự hữu ích của nó. Là loại ống làm cho các đối tượng trong ảnh bị thu
nhỏ lại như chụp mô hình, đồ chơi. Về nguyên tắc, tilt-shift là kĩ thuật dịch
chuyển hoặc nghiêng ống kính (chuyên dụng) để tạo ra những bức ảnh mà chủ thể
trong ảnh có kích thước trông nhỏ hơn so với thực tế. Từ tilt-shift nhắc đến
hai cách dịch chuyển khác nhau: tilt có nghĩa là quay (nghiêng) ống kính và
shift là dịch chuyển ống kính song song với mặt phẳng của ảnh. Việc quay ống
kính giúp bạn điều khiển được mặt phẳng tiêu diện (plane of focus (PoF)) tạo
hiệu ứng chỉ làm rõ một phần của bức ảnh, cụ thể là ảnh chỉ sắc nét ở bề ngang
giữa ảnh và bị mờ hai vùng trên và dưới.
Một
ống kính tilt-shift cho phép máy ảnh giữ được tư thế thẳng đứng và song song
với tòa cao ốc và nhờ vào việc di chuyển các vòng kính phía trước để có thể đưa
toàn bộ tòa nhà lọt vào khung hình. Bạn thực hiện thao tác này bằng cách cho
phần trước của ống kính trượt lên để gom phần đỉnh tòa nhà vào khung hình mà
không cần phải chĩa máy lên. Sử dụng ống kính trượt sẽ ngăn không cho các đường
dọc chụm lại trên đỉnh, nhưng vẫn mang lại cảm giác như đang nhìn tòa nhà từ
dưới lên.
Teleconverters
Là
thiết bị quang học gồm cụm thấu kính gắn vừa với thân máy và ống kính và gia
tăng độ dài tiêu cự hiệu quả của ống kính. Đa số ống kính chuyển đổi tầm xa đều
xuất xưởng với các phiên bản 1.4x hoặc 2x. Một ống kính phiên bản 2x sẽ chuyển
đổi một ống kính 200mm thành 400mm, tuy có làm khẩu độ tối đa bị giảm xuống 2
‘stop’. Nên phải bù sáng bằng cách cài đặt ở tốc độ chụp chậm hoặc mức ISO cao
hơn. Đây là phụ kiện rất hay để mở rộng phạm vi ống kính tê-lê của bạn, nhưng
phải bảo đảm bạn mua được ống kính chuyển đổi tốt nhất có thể.
PHỐI
CẢNH
Có
máy có ống kính rồi, tiếp tục nắm vững phối cảnh là khả năng sử dụng máy ảnh và
ống kính của bạn để điều chỉnh mối tương quan giữa chủ thể, hậu cảnh và tiền
cảnh cho các bức ảnh bạn chụp.
Theo
luật viễn cận của ống kính máy ảnh: Tuỳ theo độ dài tiêu cự ống kính, trường
sâu độ ảnh sẽ cho hình ảnh không còn giống như mắt nhìn trong cảnh thực. Với
ống kính trung bình, chiều sâu ảnh trường gần tương tự như mắt nhìn, nhưng với
ống kính tele (tiêu cự dài) thì chiều sâu ảnh trường sẽ thu hẹp lại, hình ảnh
có hậu cảnh gần hơn cảnh thực tế, các lớp ảnh sít lại gần nhau; trong khi đó
với ống kính góc rộng (wide) thì chiều sâu ảnh trường bị đẩy xa ra, hình ảnh
thu được có hậu cảnh xa hơn so với cảnh thực, không gian có cảm giác rộng hơn
so với thực tế.
Chẳng
hạn khi bạn sử dụng một ống kính góc rộng, hậu cảnh có vẻ nằm xa với chủ thể
hơn thực tế. Với ống kính tiêu chuẩn, phần hậu cảnh dường như có cùng khoảng
cách với tầm nhìn của mắt thường. Nếu sử dụng ống kính tê-lê, thì hậu cảnh lại
có vẻ như gần hơn. Cũng nên nói thêm rằng, trên một ống kính góc rộng, góc thu
nhận ánh sáng rộng hơn ống kính tiêu chuẩn hoặc tê-lê vốn có góc thu nhỏ hơn.
Điều này có nghĩa là với một ống kính góc rộng, đôi khi bạn có thể phải ngạc
nhiên về rất nhiều chi tiết được thu vào trong bức ảnh. Trái lại, khi sử dụng
ống kính tê-lê, chủ thể bạn chụp trở nên nổi bật hơn và phần hậu cảnh ít được
thu vào khung hình hơn.
Như
vậy, bằng cách thay đổi các ống kính của mình, và do đó, thay đổi cả phối cảnh,
bạn có thể dùng hậu cảnh để bổ sung cho bức ảnh hoặc tách riêng các chủ thể như
ý muốn. Như tôi đã nhắc nhớ trong chương trước, bạn hãy thử nghiệm bằng cách
chụp nhiều bức ảnh khác nhau cùng một chủ thể với nhiều ống kính có tiêu cự
khác nhau để giúp bạn hiểu được các tiêu cự khác nhau ảnh hưởng đến phối cảnh
như thế nào. Đừng quên di chuyển lui tới trước chủ thể để giữ cho nó có cùng
kích thước trong tất cả các khung hình và dưới nhiều tiêu cự khác nhau.
Rồi,
trước khi qua phần thao tác chụp ảnh, kiểm tra lại:
Dưới
đây là danh sách kiểm tra nhằm giúp bạn nhớ tất cả những phương diện kỹ thuật
nhiếp ảnh cần ghi nhớ trong đầu. Máy ảnh mới của bạn là một thiết bị rất phức
tạp; danh sách này sẽ giúp bạn tránh được những lỗi đơn giản trong lúc làm quen
với nó.
Bạn
đã sạc pin chưa ? Trước khi ra khỏi nhà, hãy sạc đầy pin của bạn. Mới dùng, hầu
như ngày nào bạn cũng kiểm tra tất cả các hình ảnh trên màn hình LCD ở mặt sau
máy ảnh, và đây là việc làm cho pin máy nhanh cạn hơn bất cứ thứ gì khác.
Bạn
đã format thẻ nhớ của mình chưa ? Trước mỗi đợt chụp ảnh và sau khi lưu chuyển
hình ra khỏi thẻ, hãy luôn luôn format thẻ nhớ.
Bạn
có còn đủ dung lượng nhớ trong thẻ không? Hãy bảo đảm bạn đã mua đủ thẻ nhớ cho
những chuyến đi dài ngày đến những nơi mà có thể bạn sẽ không tìm mua được loại
thẻ phù hợp.
Giữ
gìn máy ảnh và ống kính sạch sẽ. Một vết bẩn trong cảm biến hay bề mặt thấu
kính có thể ảnh hưởng đến ảnh chụp.
Bạn
đã thiết đặt độ nhạy cho cảm biến (ISO) càng thấp càng tốt, bởi vì việc thiết
đặt ISO cao thì gây ra “độ nhiễu” nhiều hơn. Quy tắc chung là: ISO càng thấp,
chất lượng càng tốt .
Bạn
đã cài đặt cân bằng trắng chưa ? Chúng ta sẽ đi sâu vào chi tiết này sau, nhưng
ở giai đoạn này, hãy bảo đảm máy ảnh của bạn đã được cài ở chế độ tự động cân
bằng trắng, vì trong phần lớn các trường hợp, việc này có thể dẫn đến kết quả
có thể chấp nhận được.
Bạn
đã thiết đặt định dang ảnh—JPEG, RAW, hay TIFF chưa? Chủ đề này cũng sẻ được đề
cập sau. Riêng giai đoạn này, bạn hãy bảo đảm máy ảnh của mình đã được cài đặt
để cho ra chất lượng hình ảnh JPEG cao nhất có thể. Thật vô ích khi chụp với
cài đặt định dạng JPEG thấp, bởi vì làm như vậy sẽ đi ngược với mục đích sử
dụng máy ảnh chất lượng cao.
CHỤP
ẢNH
Trước
hết, tôi sẽ định nghĩa ba thuật ngữ nhiếp ảnh cơ bản mà bạn cần biết. Sau đó
chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ từng thuật ngữ ấy.
Phơi sáng (Exposure): Phơi sáng là quá trình
một lượng ánh sáng, được kiểm soát bởi khẩu độ và tốc độ màn trập, thâm nhập vào
cảm biến.
F-stops: Là số đo kích thước độ mở ống
kính, hoặc gọi là khẩu độ, trên ống kính. Nên nhớ, số đo f-stop càng lớn, khẩu
độ càng nhỏ. Số đo f-stop càng nhỏ, khẩu độ càng lớn cho lượng ánh sáng thâm
nhập vào cảm biến.
Tốc độ màn trập: Là số đo thời lượng
mở của màn trập. Màn trập càng mở lâu, ánh sáng càng được cho thâm nhập vào cảm
biến. Tốc độ màn trập nhanh hơn, thì “đóng băng” chuyển động và thường đòi hỏi
nhiều ánh sáng nhờ khẩu độ lớn hơn (trị f-stop nhỏ hơn). Tốc độ màn trập chậm
thường chụp trong bối cảnh ánh sáng yếu với khẩu độ nhỏ hơn (trị f-stop lớn
hơn).
Trước
khi có thể thực hiện việc phơi sáng một cách chính xác (hay gọi là đúng sáng),
điều quan trọng là ta cần phải biết một hình ảnh được phơi sáng chính xác trông
giống như thế nào. Khung ảnh có những vùng sáng chênh lệch nhau, môt bức ảnh
KTS được phơi sáng chính xác là một bức ảnh hiển thị đầy đủ các mức độ khác
nhau về màu sắc, từ những bóng đổ đậm đến những điểm sáng rực rỡ, một cách chi
tiết trên toàn bức ảnh. Bạn phải nhìn thấy được một số chi tiết trong các mảng
tối, và đồng thời cũng nhìn thấy được chi tiết trong các khoảng sáng hơn. Chỉ
khi đã làm được như vậy, sau này bạn mới có thể quyết định có thực sự cần để
cho các mức độ màu sắc xuất hiện hoàn toàn hay không, khi in ảnh. Nếu đã không
chắc chắn ngay từ đầu, thì về sau bạn chẳng thể làm được gì nhiều.
Điểm
vừa đề cập còn thiết yếu hơn nữa đối với việc chụp ảnh bằng định dạng JPEG. Còn
khi chụp với định dạng RAW, việc phơi sáng chính xác dễ dàng hơn một chút vì
sau đó bạn có thể chỉnh sửa lại sáng tối màu sắc trên máy tính.
KIỂM
SOÁT ÁNH SÁNG
Để
ghi lại được một hình ảnh đầy đủ màu sắc trên cảm biến, bạn cần phải để cho
lượng ánh sáng đủ đi vào cảm biến. Có ba yếu tố điều chỉnh thời lượng và số
lượng ánh sáng, đó là độ nhạy của cảm biến (ISO), tốc độ màn trập và khẩu độ.
ISO - Độ nhạy của cảm biến
Thời
nhiếp ảnh phim còn thống trị, việc phơi sáng là một chủ đề cực kỳ quan trọng.
Thời đại KTS cho phép chúng ta có thể nhìn thấy kết quả những thiết đặt thông
số của chúng ta ngay lập tức. Không khác gì máy ảnh chụp phim, máy ảnh D-SLR
cũng tập trung vào độ sáng của chủ thể, độ tương phản, màu sắc của hình ảnh và
vùng được lấy nét. Khi được cài đặt ở chế độ phơi sáng tự động, máy ảnh ngay
lập tức tính toán tất cả những thứ ấy.
Nếu
bạn là người mới đặt chân vào nghề, có nhiều yếu tố khác nhau cần phải được xem
xét trước khi bạn bấm máy. Tôi lên khung cho bức ảnh ra sao? Nó có nằm trong
vùng lấy nét không? Hậu cảnh như thế nào? Trước khi tất cả những yếu tố ấy trở
nên thuần thục, thì điều khôn ngoan là bạn hãy đặt máy ảnh ở chế độ phơi sáng
tự động. Việc này sẽ giúp bạn ít lo lắng hơn khi phải tập trung vào quá nhiều
thứ. Dần dà sau đó, khi đã trở nên thành thạo kỹ thuật và đã học được cách thao
tác máy ảnh, bạn sẽ bắt đầu cân nhắc kỹ từng điều chỉnh nhỏ trên máy ảnh để
chụp ảnh một cách hoàn hảo. Chúng ta sẽ không chỉ học cách phơi sáng chính xác
(đúng sáng), mà còn học cách tùy nghi để cho dư sáng hoặc thiếu sáng.
Việc
chụp ảnh bằng phim đòi hỏi phải thay phim nếu muốn thay đổi ISO. Nhiếp ảnh KTS,
trái lại, cho phép bạn chụp một loạt ảnh, thậm chí chỉ một bức ảnh, với một
thiết đặt ISO này, rồi đổi qua một thiết đặt ISO khác, và tiếp tục chụp. Bạn có
thể thay đổi ISO bất cứ lúc nào bạn muốn. Nguyên tắc là: ISO càng cao, độ nhạy
sáng càng cao và hệ quả là nguy cơ nhiễu hạt càng cao. ISO càng thấp, độ nhạy
sáng càng thấp và ảnh càng mịn.
Tốc độ màn trập
Tốc
độ màn trập là lượng thời gian cảm biến hình ảnh được chiếu sáng (thời gian lộ
sáng), nên có thể hiểu nôm na là thời gian mở và đóng màn trập chậm / lâu / kéo
dài tức là tốc độ màn trập thấp, thời gian lộ sáng kéo dài; ngược lại thời gian
mở và đóng màn trập nhanh / ngắn tức là tốc độ màn trập cao, thời gian lộ sáng
ngắn. Lượng thời gian lộ sáng hay còn gọi là phơi sáng đó càng dài thì ánh sáng
vào cảm biến càng nhiều (trong cùng điều kiện với các thông số khác: khẩu độ
& ISO). Mỗi nấc tốc độ tương ứng thời gian màn trập mở nhanh gấp đôi nấc
đứng trước nó và bằng 1/2 nấc đứng sau nó. 1/125 nhanh gấp đôi tốc độ 1/60 và
1/250 nhanh gấp đôi 1/125 chẳng hạn.
Đây
là một số mẹo cơ bản về tốc độ chụp để bắt đầu:
Để
bắt dính một chiếc xe trên đường đua, hay một ai đó đang chạy xe đạp, hãy bắt
đầu với 1/500-1/1000 giây.
Đối
với những bức ảnh thường ngày như chân dung hay quang cảnh, hãy sử dụng tốc độ
từ 1/60 giây đến 1/250 giây.
Nếu
ánh sáng không thực sự tốt, đừng tìm cách giảm xuống dưới 1/60 giây. Nếu là
trường hợp bất khả kháng, bạn hãy cố giữ cho máy ảnh thật ổn định nhưng đừng
mong bắt đính được bất cứ chuyển động nào mà ảnh đạt độ nét tốt.
Khẩu độ (f-stop)
Khẩu
độ càng lớn (chỉ số F càng nhỏ) thì khoảng DOF sẽ càng ít/mỏng/cạn và ngược
lại. Ví dụ bạn chụp ở khẩu độ f/2.8 thì DOF sẽ ít hơn (cạn hơn, mỏng hơn) so
với chụp ở khẩu độ f/22 (dày hơn, sâu hơn) nếu chụp cùng một chủ đề, cùng một
khoảng cách chụp và cùng điều kiện ánh sáng. Thông thường để dễ hiểu chúng ta
cần ghi nhớ đơn giản như sau:
Khẩu
độ lớn = số F nhỏ = DOF mỏng
Khẩu
độ nhỏ = số F lớn = DOF sâu
THIẾT
LẬP CHẾ ĐỘ CHỤP
Nếu
nhấn thấy những bức ảnh mình chụp lúc nào cũng có vẻ tốt hơn khi giảm độ phơi
sáng xuống một ‘stop’, hoặc tăng ½ ‘stop’, bạn hãy sử dụng thiết đặt bù sáng để
cài đặt yếu tố ấy trên thước đo sáng của máy ảnh. Chức năng này làm cho bạn có
thể tăng hoặc giảm độ phơi sáng lên đến ba f-stops. Kết quả đó thường được ghi
rõ trên máy ảnh của bạn bằng một trị số từ +3 đến -3 ứng với mức gia tăng từ ½
đến 3 ‘stop’. Một khi bạn đã cài đặt, máy ảnh sẽ sẽ duy trì kết quả điều chỉnh
cho đến khi bạn thay đổi nó. Đa số nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp tôi quen biết
đều dùng tính năng bù sáng để tinh chỉnh thước đo trên máy ảnh của họ.
Hãy
chụp một loạt nhiều tấm ảnh. Lúc nào có thời gian và chủ thể cho phép, bạn hãy
chụp nhiều tấm khác nhau, như vậy bạn mới không bỏ lỡ một bức chụp quan trọng.
Hãy kiểm tra các bức ảnh trên máy tính và loại đi những tấm không đạt trước khi
đưa cho ai đó xem.
Các chế độ Phơi Sáng Tự Động (AE)
Trên
hầu hết các máy ảnh KTS, bạn sẽ tìm thấy nhiều chế độ phơi sáng khác nhau, điển
hình như sau:
ưu
tiên khẩu độ AE(Av)
ưu
tiên màn trập AE(Tv)
lập
trình AE (P)
thủ
công (M)
Ưu
tiên khẩu độ
Ưu
tiên khẩu độ giúp bạn có thể cài đặt f-stop (khẩu độ) và sau đó máy ảnh sẽ điều
chỉnh tốc độ chụp để đưa
Các
điều ghi nhớ liên quan đến chế độ A trên máy ảnh:
A -
khi chọn chế độ A không phải là chế độ chụp Auto đúng nghĩa Auto chụp hoàn toàn
tự động, giao phó tất cả cho máy ảnh xử lý, mà A viết tắt là Aperture Priority,
nghĩa là ưu tiên KHẨU ĐỘ ỐNG KÍNH.
A -
khi chụp chế độ A, tức là người chụp MUỐN tự mình chọn KHẨU ĐỘ ỐNG KÍNH theo ý
mình. Mà khẩu độ ống kính là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến DOF. (DOF - viết
tắt của Depth of Field mà dân chụp hay gọi là "đóp" hay
"đốp". Đơn giản nó là từ để diễn tả khoảng ảnh rõ nét và những gì
ngoài khoảng rõ nét đó trong ảnh. Muốn cho chủ đề của bạn rõ nét thì nó phải
nằm trong khoảng DOF của ảnh. Khi bạn lấy nét, trên một trục thẳng ta thấy
ngoài điểm mà bạn cần muốn nét thì một số điểm phía trước điểm đó và phía sau điểm
đó cũng rõ nét, khoảng ảnh rõ nét đó gọi là khoảng DOF.)
A -
khi chụp chế độ A, là bạn muốn có DOF như ý muốn của mình, khoảng ảnh rõ trong
ảnh dày hay mỏng theo ý của mình. Tức là không bận tâm đến tốc độ màn trập
tương ứng là bao nhiêu, đối tượng tĩnh hay động, thậm chí để ISO Auto để máy tự
cân đong đo đếm chọn ISO tương ứng mà không quan tâm đến độ mịn hay nhiễu hạt.
A -
Muốn làm chủ chủ DOF, chọn chế độ A, thay đổi thông số khẩu độ theo ý muốn, bấm
chụp!
Ưu tiên tốc độ màn trập
Bằng
cách sử dụng ưu tiên màn trập, bạn có thể cài đặt tốc độ chụp, và máy ảnh tự
chọn f-stop (khẩu độ) để đưa ra độ phơi sáng chính xác. Tính năng này có thể
đặc biệt hữu dụng khi bạn chụp các chủ thể di động và muốn ‘đóng băng’ các
chuyển động bằng cách cài đặt một tốc độ chụp ở mức cao. Do đó, nếu đang chụp
một thác nước và muốn dòng nước nhòa đi, ban có thể cài đặt một tốc độ chụp
chậm và khẩu độ sẽ tự điều chỉnh theo. Cần phải nói thêm rằng cả hai chế độ vừa
đề cập ở trên đều được giả định cho trường hợp bạn có đủ ánh sáng để chụp các
bức ảnh trong phạm vi tốc độ chụp và khẩu độ mà bạn đang sử dụng.
Khi
bạn chọn chế độ chụp S / Tv để ưu tiên tốc độ màn trập, nghĩa là bạn chỉ còn
được xoay bánh xe để tuỳ chỉnh tốc độ màn trập theo ý đồ chụp của bạn, chọn tốc
độ trập tuỳ ý. Còn lại khẩu độ ống kính là máy tự tính và tuỳ ứng theo bối cảnh
đo sáng của máy. Như vậy, bạn có thể để ISO Auto, hoặc cố định ISO, khi bạn
chọn tốc độ theo ý định, thì khẩu độ tự thay đổi tương ứng.
Trong
biểu đồ trên đây, mỗi kết hợp giữa khẩu độ ống kính và tốc độ chụp cùng cho ra
một mức độ phơi sáng, hoặc để cho cùng một lượng ánh sáng như nhau lọt vào máy
ảnh.
Lập trình (P)
Thiết
đặt này để cho máy ảnh hoàn toàn đưa ra quyết định về thông số phơi sáng. Máy
ảnh tự kết hợp tốc độ màn trập với khẩu độ. Trên một số máy ảnh, tính năng này
có thể được cài đặt tuỳ theo đối tượng chụp, chẳng hạn như “chân dung”, “thể
thao”, hoặc “phong cảnh.” Tuy nhiên, bạn hãy cẩn thận, nếu có không đủ (hoặc có
quá nhiều) ánh sáng ngoài ý muốn, thì máy ảnh của bạn cũng sẽ không thể làm ra
những điều kỳ diệu được. Ngay cả khi dùng thiết đặt này, bạn hãy kiểm tra trên
màn hình LCD để bảo đảm mình sẽ có được bức ảnh như ý. Và đừng quên là bạn còn
có thể sử dụng chế độ bù sáng để quyết định thay vì để máy ảnh tự làm.
Thủ công (M)
Chế
độ này giúp bạn có thể tự tay cài đặt tốc độ chụp và khẩu độ một cách độc lập
với nhau, tùy theo thước đo tích hợp sẵn trong máy ảnh hoặc thước đo cầm tay.
Nhiều thợ chụp thương mại, còn dùng đo sáng rời, để có được nhiều trị số đo tại
nhiều điểm khác nhau trong khung hình. Bằng phương pháp như thế, người chụp ảnh
có toàn quyền kiểm soát đối với hiệu ứng hình ảnh mà các kết hợp tốc độ chụp và
khẩu độ khác nhau có thể thực hiện. Thời kỳ chụp ảnh bằng phim còn thống trị,
phương pháp này có xu hướng trở thành lĩnh vực độc quyền của những người chuyên
nghiệp hoặc những người nghiệp dư có kinh nghiệm. Ngày nay, nhiếp ảnh KTS cho
phép bạn chụp thử một bức ảnh, xem qua, điều chỉnh đôi chút, thấy có hơi khác,
và bạn chụp được bức ảnh như ý.
Đa
số máy ảnh D-SLR đều có một thiết đặt ‘autobracket’ (AEB). Tính năng thông minh
nhỏ này cài đặt máy ảnh tự động chụp liền ba tấm: một với “độ phơi sáng đúng”,
một dư sáng, và một thiếu sáng. Tôi nhận thấy tính năng này rất hữu dụng khi
tác nghiệp nhanh bởi nó sẽ cho tôi chọn các bức ảnh sau. Bằng cách cài đặt máy
ảnh chụp một bức ảnh với độ phơi sáng “chính xác”—đúng như máy ảnh nhìn thấy—và
hai bức khác có thể có mức chênh lệch một f-stop, tôi luôn có thể kết thúc bằng
một bức ảnh mà tôi cho là hoàn hảo hơn cả. Bạn có thể thay đổi trị số tăng giảm
của AEB đến 1/3, ½ hoặc 2/3 stop so với bức chụp “chính xác”, tùy kiểu máy ảnh.
Trên đa số máy ảnh, tính năng này có tác dụng với các thiết đặt chế độ tự động
và thủ công.
MẸO: Quy tắc ánh nắng f/16
Nếu
bạn cố chụp cho được một bức ảnh phong cảnh mà không có giá ba chân, hãy đảo
lại độ ISO bằng cách chọn tốc độ chụp, ví dụ, với ISO 200 bạn có thể chọn 1/200
giây với khẩu độ f/16.
CÁC
CƠ CHẾ ĐO SÁNG
Đa
số máy ảnh D-SLR hiện đại, cùng với các chế độ phơi sáng tự động, đều có một số
thiết đặt có thể tác động đến bức ảnh của bạn. Mặc định trên hầu hết các máy
ảnh D-SLR và ‘point-and shoot’ là cơ chế đo sáng đa điểm. (Nikon gọi đó là đo
sáng ma trận (matrix metering), Canon, thì gọi là đo sáng giá trị chung
(evaluative). Phương pháp đo sáng này phân chia bức ảnh thành các vùng nhỏ,
trong đó bộ vi xử lý của máy ảnh tự đo sáng từng vùng nhỏ ấy. Sau đó máy ảnh
kết hợp những dữ liệu ấy với khẩu độ và tốc độ chụp rồi cho ra một kết quả gần
như hoàn chỉnh trên toàn khung hình.
Đo sáng một điểm - Spot Metering
Tính
năng đo sáng một điểm thực sự là một thiết đặt rất hay. Dữ liệu đo sáng được
thu thập từ một khu vực (diện tích) rất nhỏ nằm trong khung hình, đôi khi chỉ
bằng một phần trăm bức ảnh. Điều này rất hữu ích khi bạn muốn chụp đúng sáng
một đối tượng và không quan tâm đến các vùng sáng chênh lệch khác nhau xung
quanh đối tượng nhỏ đó.
Đo sáng trung tâm - Center-weighted Meterting
Đo
sáng trung tâm thì hơi thiên về tâm của khung hình hơn, là đo sáng một diện
tích phần trung tâm khung ảnh, không cần phải chú ý nhiều đến các góc cạnh. Cá
nhân tôi, tôi ít sử dụng tính năng này. Những người chụp ảnh khác thì thích nó
bởi vì loại đo sáng như thế có xu hướng làm cho bức ảnh thiếu sáng, vốn rất phù
hợp với phong cách ảnh phim cũ. Bao giờ cũng vậy, hãy thử nghiệm để tìm ra cách
kết hợp tốt nhất và ưng ý bạn.
Đo sáng thủ công
Đây
là một phụ tùng bên ngoài dành cho người chụp ảnh cần làm việc với ánh sáng
nhân tạo phức tạp. Một máy đo sáng cầm tay thường là một kết hợp giữa thước đo
độ phơi sáng và và thước đo đèn flash, và nói chung là được sử dụng như một
thước đo phụ. Điều đó có nghĩa là thước đo lượng ánh sáng bao trùm trên chủ thể
hơn là ánh sáng phản chiếu từ chủ thể như cách mà máy ảnh của bạn thực hiện
việc đo sáng của nó. Đây là công cụ đạt độ chính xác cao được sử dụng bằng cách
cầm nó đưa ra phía trước chủ thể với đỉnh tròn của nó hướng vào phía máy ảnh
của bạn. Hệ thống này không dính dáng đến màu sắc của chủ thể. Trong thế giới
KTS, loại thước đo này chủ yếu được sử dụng với đèn nháy/flash. Nó có khả năng
đo được độ sáng/cường độ của một đèn flash trong studio, một khả năng không có
trên thước đo của máy ảnh. Công cụ này là thiết yếu khi chụp những bức ảnh phức
tạp với ánh sáng kiểu studio.
TÌM
HIỂU BIỂU ĐỒ
Một
trong những khả năng hay của máy ảnh KTS là có thể xem lại các bức ảnh trên màn
hình LCD. Cứ nói đi nói lại nhiều lần về việc kiểm tra độ phơi sáng trên màn
hình LCD như thế này, đôi lúc tôi dường như nghe có ai đó nói: “Ông đúng là lão
gàn. Dưới ánh nắng thì làm sao tôi có thể nhìn vào màn hình được. Làm sao tôi
có thể đánh giá được mức độ phơi sáng của mình đây?” Đa số máy ảnh D-SLR đều có
tính năng hiển thị một biểu đồ trên màn hình LCD. Đồ thị minh họa cách các điểm
ảnh trong một bức ảnh được phân bố bằng cách biểu thị số lượng điểm ảnh theo
từng mức độ màu sắc. Điều này cho bạn thấy bức ảnh có chứa đựng đầy đủ hay
không các chi tiết trong các vùng bóng đổ (được hiển thị bên trái biểu đồ),
vùng màu sắc trung bình (hiển thị ở giữa), và các vùng sáng (hiển thị bên phải)
để tạo ra độ phơi sáng tốt cho toàn bộ.
Histogram
là biểu đồ trực quan về tất cả các màu sắc và sắc độ (tones) trong ảnh của bạn.
Từ bên trái là những “tone” tối nhất di chuyển dần qua bên phải là những “tone”
sáng nhất. Sự phân bố sắc độ (tones) và màu sắc cho bạn biết dữ liệu ảnh mà bạn
chụp được. Nếu bạn chụp chủ đề của mình trên nền xám thì có nhiều khả năng biểu
đồ dữ liệu của mình sẽ tập trung ở vùng giữa của Histogram (vùng dữ liệu tập
trung nhiều gọi là “spike”). Tùy theo ảnh bạn chụp, bạn còn có thể biết màu nào
một cách trực quan nằm trên vùng tối (shadow), vùng trung (midtone), hay vùng
sáng (highlight).
Nếu
có nhiều sắc độ (tones) nằm bên trái của Histogram có thể hình bạn chụp bị tối
(underexpose), tuy nhiên nếu bạn chụp chủ đề trên nền tối và bạn đo sáng đúng
khuôn mặt thì hoàn toàn okie cho dù dữ liệu sắc độ của bạn nằm bên trái nhiều.
Sắc
độ (tones) được tổ chức thành từng vùng (sections) theo thứ tự từ trái sang
phải là Black (cực tối), Shadow (tối), Exposure (Midtone), Highlight (sáng), và
White (cực sáng). Đặc biệt trong Lightroom, bạn có thể dùng chuột để dịch
chuyển các vùng sắc độ (tones) theo ý muốn bằng cách rê chuột lên trên vùng bạn
muốn thay đổi sắc độ.
Khi
đã quen nhìn vào biểu đồ, bạn sẽ nhận ra đó là một công cụ tuyệt vời để kiểm
tra đi kiểm tra lại những bức ảnh của bạn, đặc biệt là trong các điều kiện ánh
sáng bất lợi. Nếu biểu đồ trông ổn định, thì chẳng còn gì phải “lăn tăn” về
hình ảnh sáng hay tối trên màn hình nữa. Sự thật nằm trong biểu đồ.
Một
thực hành tốt là hãy chụp một vài bức ảnh về một chủ thể có đầy đủ sắc thái.
Cài đặt máy ảnh của bạn ở chế độ chụp thủ công và chụp một bức theo gợi ý của
biểu đồ. Sau đó hãy chụp cùng bức ảnh đó với ‘stop’ được tăng lên ½ hoặc 1/3,
cho đến dưới 3 ‘stop’. Nhìn vào các biểu đồ của những bức ảnh ấy để tìm hiểu
cách đọc và hiểu chúng, để ý đến cách mà biểu đồ thay đổi tùy theo thiếu sáng
hoặc quá sáng. Phải nói trắng ra — và tôi có thể bị chỉ trích khi đơn giản hóa
đến mức này – là bạn đang nhìn vào một dãy núi trong cửa sổ biểu đồ của bạn,
khởi đi từ bên này, kết thúc ở bên kia, và lên đến tận đỉnh của khung biểu đồ.
Tất nhiên, do mỗi bức ảnh có một nội dung khác nhau, nên các dãy núi của bạn sẽ
không như nhau.
LẤY
NÉT TỰ ĐỘNG
Đa
số người chụp ảnh mới vào nghề đều để máy ở chế độ “thường xuyên” lấy nét tự
động theo thiết đặt mặc định của nhà sản xuất, giống như phần lớn các thiết
định khác trên máy ảnh của họ.
Giống
như đa số những thiết đặt trên máy ảnh D-SLR, chức năng lấy nét tự động, nhưng
không phải tự nó làm hết mọi việc vì có nhiều tùy chọn trong menu trên máy ảnh
để tinh chỉnh việc lấy nét. Tôi không thể nhấn mạnh được hết tầm quan trọng về
việc từng bước tìm hiểu cách sử dụng chúng và tất cả các tính năng trên máy ảnh
của bạn cho bằng bạn tự tìm hiểu. Hiểu và tận dụng các chế độ lấy nét mà thiết
bị cho phép tuỳ nghi từng ngoài cảnh cho phù hợp thì sẽ hiệu quả hơn, và bạn đã
không bị lãng phí.
Bạn
nên tìm hiểu cách sử dụng vào lúc mới bắt đầu, có tên gọi phổ biến là
“one-shot” hoặc “cơ chế tự động đơn” (single servo). Hãy dùng tính năng này
trong các trường hợp bạn muốn lên bố cục cho bức ảnh khi chủ thể lệch tâm.
Trong ống ngắm máy ảnh của bạn, sẽ có những lằn ngang hoặc những điểm AF (lấy
nét tự động) để xác định điểm mà máy ảnh đang lấy nét. Hãy chĩa thẳng máy ảnh
vào chủ thể sao cho điểm AF hướng đúng vào phần bức ảnh bạn muốn chọn làm điểm
lấy nét ưu tiên. Khi nhấn giữ một nửa nút chụp để cố định việc lấy nét, bạn có
thể lấy lại bố cục cho bức ảnh theo ý, giúp cho bố cục tốt hơn. Hãy cẩn thận,
vì tính năng này hoàn toàn không phù hợp với các chủ thể di động, bởi lẽ một
khi đã khóa lại, thì việc lấy nét vẫn giữ nguyên cho đến khi bạn nhấn nút chụp.
Máy
ảnh mặc định là tự động sử dụng hết các điểm AF trong các chế độ chụp. Chọn chế
độ này, bạn bấm nút AF ở mặt sau máy ảnh (có thể vị trí các model khác nhau),
màn hình các điểm nét hiển thị xác nhận AF đa điểm tự động. Khi bạn muốn lấy
nét vào đối tượng gần nhất trong khung và khoảnh khắc có thể qua đi, AF tự động
chọn là giải pháp tốt nhất, tránh tình trạng loay hoay với thiết bị mà khoảnh
khắc vụt qua.
Trường
hợp duy nhất mà tôi khuyên bạn nên tập trung vào cẩm nang sử dụng là khi bạn
chụp ảnh qua một tấm lưới hoặc những tiền cảnh tương tự. Như khi chụp bóng đá,
chẳng hạn, việc chụp từ phía sau cầu môn xuyên qua tấm lưới có thể mang lại một
hiệu ứng sinh động. Nhưng vì máy ảnh được cài đặt ở chế độ tự động lấy nét nên
dễ lấy nét vào lưới mà không trúng thủ môn chẳng hạn. Hãy tắt tính năng tự động
lấy nét khi chụp loại hình hoạt động như thế. Việc này cũng áp dụng cho việc
chụp ảnh động vật trong chuồng sở thú.
ĐỘ
SÂU TRƯỜNG ẢNH
Là
thuật ngữ được dùng để diễn tả vùng ảnh rõ nét - vùng trước và sau tính từ điểm
nét của ảnh. Viết tắt là DOF (Depth of field). Kiểm soát vùng này bằng cách tuỳ
chỉnh khẩu độ ống kính. Chẳng hạn bức ảnh dưới đây được chụp với khẩu độ f/2.8,
vùng trước và sau điểm nét là trái chín đỏ bị mờ. Trong khi bức ảnh sau, khép
khẩu độ xuống f/16, độ nét của ảnh sâu hơn.
Chiều
sâu của bối cảnh trong ảnh chịu ảnh hưởng của tiêu cự ống kính. Khi bạn thay
đổi tiêu cự ống kính từ ống góc rộng đến ống téle với cùng một góc chụp cùng
bối cảnh, chiều sâu của ảnh cũng thay đổi. Với mỗi ảnh, người chụp di chuyển vị
trí chụp để giữ đúng khung cảnh giữa các tấm ảnh sau.
Khi
bạn nhìn thấy một bức ảnh phong cảnh đẹp được treo trên tường trong một gian
phòng triển lãm, trông nó có vẻ rất giống như được chụp với một khẩu độ nhỏ
(trị f/stop lớn) để có được độ sâu trường ảnh càng dày càng tốt. Ngay cả trong
một ngày đầy nắng, việc sử dụng khẩu độ nhỏ nhất cũng có thể đòi hỏi một tốc độ
chụp chậm hơn và, do đó, phải có chân máy.
Việc
này có thể dẫn đến một tình huống khó xử. Ví dụ, bạn rất muốn sử dụng tốc độ
chụp cao để chụp những ảnh về hoạt động. Mà bạn muốn khép khẩu độ nhỏ để có dof
dày, trông bức ảnh sắc nét hơn. Một số người sẽ chỉ sử dụng độ nhạy ISO của cảm
biến cao hơn, và như vậy phải bật chức năng chụp tốc độ cao và khẩu độ nhỏ.
Nhưng khi bạn tăng độ nhạy của cảm biến, thì chất lượng hình ảnh có thể giảm do
nhiễu hạt nếu ánh sáng không đủ tốt. Do vậy, tuỳ hoàn cảnh mà quyết định.
Bạn
không thể có được hết mọi thứ, do đó bạn phải chọn những gì quan trọng nhất với
mình. Ngay cả vào những ngày rực nắng trong năm, với mặt trời được chọn làm chủ
thể, nếu sử dụng ISO 100, thì độ phơi sáng của bạn sẽ là 1/1000 với khẩu độ
f/5.6 nhưng lại sử dụng ống tê-lê và hậu cảnh cách xa chủ thể thì cũng không
thể có dof mỏng. Và giả như bạn đang chụp một trận bóng đá ban đêm với đèn
chiếu yếu ớt, bạn sẽ gặp rắc rối thực sự vì cần tăng ISO lên rất cao để chụp
tốc độ màn trập cao để bắt dính chuyển động, mà ISO cao thì dễ nhiễu hạt, nên
khả năng khử nhiễu của thiết bị trong trường hợp này là cần thiết.
Một
số ống kính có những vạch chỉ báo cho thấy ước lượng độ sâu trường ảnh hiệu quả
như thế nào ứng với một khẩu độ cụ thể. Một ví dụ điển hình: với một ống kính
20mm được thiết đặt f/11 và khoảng cách lấy nét được ước lượng khoảng 1,5 mét,
thì độ sâu trường ảnh sẽ mở rộng từ hơn 3m cho đến vô cực Sử dụng một ống kính
400mm được thiết đặt ở f/4, thì độ sâu trường ảnh với khoảng cách lấy nét được
thiết đặt khoảng 10m sẽ ít hơn một chút.
Nên
nhớ bạn có thể sử dụng độ sâu trường ảnh một cách sáng tạo bằng cách dùng khẩu
độ lớn để tách riêng chủ thể. Chủ thể bạn chụp sẽ rõ nét nổi bật trong khi phần
còn lại bao quanh trong bức ảnh vẫn giữ được độ mờ nhòe rất thú vị. Cũng vậy,
với một ống kính góc rộng và khẩu độ nhỏ, hầu hết mọi thứ trong bức ảnh của bạn
đều có thể sắc nét, giúp bạn có thể làm đầy khung hình và tách riêng chủ thể ở
tiền cảnh, trong khi vẫn giữ được một cảm quan về cảnh chụp với một hậu cảnh
sắc nét. Tóm lại, f-stop càng nhỏ, bạn càng có được độ sâu trường ảnh dày.
Nhưng hãy luôn nhớ sử dụng một tốc độ chụp phù hợp với chủ thể bạn muốn chụp.
BỐ
CỤC
Phần
này đang đề cập đến một “nhãn quan” đối với một bức ảnh. Nhiếp ảnh là nhìn một
thứ gì đó dưới dạng một hình ảnh và ghi nhận nó một cách thú vị và sinh động.
Nếu chủ thể không có nội dung để bắt đầu với nó, bạn chẳng cần gì phải đưa thêm
vào làm gì cho người xem thắc mắc. Nếu các màu sắc và hình dạng của chủ thể
không bổ sung cho nhau, thì ngay cả những đường dẫn cũng chẳng ích gì cho bạn.
Những thứ kia có mặt là nhằm giúp bạn tạo ra tối đa những gì bạn nhìn thấy và
chụp ảnh. Nếu không ngừng nhìn xem và suy nghĩ, bạn sẽ chẳng thể nào có được
những bức ảnh tuyệt vời.
Lên
bố cục cho các bức ảnh của bạn một cách đúng đắn, nói một cách đơn giản, là làm
ra một bức ảnh hài hòa. Việc này được thực hiện dễ dàng trong hầu hết các
trường hợp. Thi thoảng, đơn giản chỉ là dựng đứng máy ảnh lên để chụp, khác với
dạng thức chụp thông thường là cầm ngang máy ảnh để chụp phong cảnh .
Điều
quan trọng là phải suy nghĩ thực sự về bức ảnh mình chụp và đừng quá sa vào các
chi tiết kỹ thuật. Điểu này nghe có vẻ đạo đức giả, bởi vì phần chủ yếu của tập
sách này đang bàn đến những phương diện kỹ thuật của nhiếp ảnh KTS, nhưng điều
cốt yếu là hãy hiểu rằng khía cạnh kỹ thuật hiện hữu là nhằm giúp bạn có dịp
thể hiện óc sáng tạo của mình. Nếu không nắm vững đầy đủ các cơ bản về sắp xếp
bố cục, thì dẫu bạn có tiến bộ mấy về mặt kỹ thuật chăng nữa, các bức ảnh bạn
chụp sẽ luôn thiếu đầu hụt đuôi.
Để
khởi sự, hãy táo bạo và đưa toàn bộ chủ thể lọt vào ống ngắm của bạn. Nếu chủ
thể thích hợp với một bức ảnh dọc, hãy chụp theo chiều đứng. Nếu chủ thể phù
hợp với một bức ảnh ngang, hãy chụp theo kiểu nằm ngang. Lúc mới chụp ảnh, khi
xem lại những bức ảnh vào cuối ngày, bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận ra các chủ thể
đều nhỏ hơn khung hình bạn đã chọn. Khi nhìn qua ống ngắm, bạn phải luôn đinh
ninh trong đầu mình là đang nhìn vào mọi thứ nằm trong ống ngắm. Hãy lưu ý đến
những gì chung quanh chủ thể và tự hỏi liệu chúng có đóng góp được gì thêm cho
bức ảnh bạn đang định chụp hay không.
Một
trong những ưu điểm của máy ảnh compact KTS, mà hầu hết máy ảnh D-SLR đều không
có, đó là có thể dùng màn hình LCD ở mặt sau máy ảnh như một ống ngắm. Tôi nhận
thấy người ta có khuynh hướng lên khung các bức ảnh của họ tốt hơn nhiều, khi
sử dụng màn hình LCD, bởi vì họ có thể xem thấy toàn bộ bức ảnh. Màn hình LCD
nhỏ đến mức mắt bạn không đảo ra ngoài khung hình được. Khi bạn nhìn qua một
ống ngắm được thiết kế theo kiểu mắt thường, thì mắt bạn dễ đảo qua đảo lại và,
do đó, không xem xét được hết khung hình.
Khi
chụp một bức chân dung cận cảnh, bạn hãy tìm cách thử nghiệm cách lên khung của
mình. Không phải lúc nào chủ thể bạn chụp cũng nằm giữa khung hình và nhìn
thẳng vào máy ảnh. Có thể khi chụp con gái của bạn, chẳng hạn, thì có thể là
thú vị hơn khi bố cục ảnh với cô bé ở bên trái hoặc bên phải, hay ngay chính
giữa bức ảnh. Đến đây, mỗi khi bắt đầu lên khung cho các bức chân dung, bạn đã
bắt đầu lên bố cục tốt cho các bức ảnh của bạn được rồi.
Vào
thời Leonardo da Vinci, các họa sĩ mới bắt đầu nảy nở tài năng đã có quy tắc
một phần ba được nhắc đi nhắc lại cho họ tại trường nghệ thuật. Tôi tự thấy các
quy tắc thật là chán ngắt, nhưng buộc phải chấp nhận đây là một quy tắc thực sự
rất hữu ích đối với những người học chụp ảnh.
Nhìn
qua ống ngắm và ngẩm chia cảnh chụp thành ba phần ngang và dọc, như một kiểu ô
chữ. Những điểm có các phần giao cắt nhau là những vị trí mà mắt thường tự
nhiên nhận ra khi nhìn vào một bức ảnh. Do đó, thật hợp lý khi bạn tìm cách đặt
chủ thể vào gần một trong bốn điểm giao cắt ấy. Trường hợp chụp một phong cảnh,
thì cũng tốt khi thực hành lên bố cục bằng cách đặt đường chân trời vào một
trong những đường tưởng tượng. Đến đây, chúng ta cũng phải lưu ý việc giữ thẳng
đường chân trời cũng rất quan trọng. Những người mới bắt đầu thường hay mắc lỗi
phổ biến này nhất. Thật khó coi khi nhìn thấy một bức ảnh có đường chân trời đổ
nghiêng xuống.
Thay
đổi góc chụp một bức ảnh có thể làm cho nó thay đổi rất nhiều. Với những chủ
thể nhỏ, chẳng hạn như một vật nuôi và những đứa bé, bạn hãy cố thấp mình cho
ngang tầm với chúng. Nằm xuống và nhìn lên đứa con một tuổi của bạn đang chập
chững bước đi thì sẽ có một bức ảnh đẹp hơn rất nhiều. Một bức chân dung chụp
cận cảnh con chó của bạn đang ngủ trên tấm thảm sẽ được chụp đẹp hơn rất nhiều
nếu bạn nằm xuống ngang tầm với nó. Chọn một vị trí năng động để ngắm có thể
hữu ích cho việc chụp ảnh và làm nổi bật các bức ảnh của bạn. Đừng ngại mình
quá đáng và đứng ngay phía trên chú chó đang ngủ. Việc này có thể hoặc không
thể mang lại thêm điểm ngắm phù hợp; song điều chủ yếu là hãy luôn thử nghiệm
và tìm cho được bức ảnh sinh động nhất.
Tôi
biết mình cứ nhắc đi nhắc lại như con vẹt, nhưng hãy luôn xem lại các bức ảnh
của bạn trên màn hình LCD đằng sau máy ảnh KTS. Một mẹo hay đối với các máy ảnh
có màn hình LCD là có thể sử dụng nó như một ống ngắm—nếu là loại có màn hình
có bản lề và có thể điều chỉnh được—bằng cách giữ máy ảnh nằm trên sàn hoặc đưa
lên cao quá đầu để có thêm điểm ngắm năng động và nhìn bức ảnh qua màn hình LCD
để kiểm tra bố cục của bạn. Cách này đôi khi giúp bạn có thể có được một điểm
ngắm, mà nếu với ống ngắm thông thường, bạn không thể làm được khi phải lên bố
cục cho một bức ảnh. Có nhiều lúc bạn càng ít linh lợi, thì lại có thể càng hữu
ích đối với bạn hơn.
Nếu
khung hình của bạn chứa đựng những tuyến đường rõ ràng hoặc kéo dài liên tục,
như những con đường, con sông, hàng rào, những tòa cao ốc, v.v…, hãy tận dụng
những đường nét ấy khi lên bố cục cho bức ảnh để hướng mắt bạn nhìn vào chủ thể
chính. Việc này đặc biệt hiệu quả khi các đường nét xuất phát từ góc dưới bức
ảnh. Một con đường uốn khúc quanh co, chẳng hạn, dẫn đến một ngôi nhà thờ bạn
đang chụp ảnh, đều dẫn dắt ánh mắt của bạn vào giữa bức ảnh.
Một
lời cuối về màu sắc trong bố cục ảnh của bạn. Thật vô ích khi tìm cách áp dụng
nguyên tắc một phần ba vào đây; chính bạn phải đích thân xem xét và đánh giá
màu sắc cũng như nét thẩm mỹ của những kết hợp khác nhau. Các màu sắc có thể
mang lại cho bức ảnh một cảm giác ấm áp hoặc lạnh lùng, phản ánh lại cái nhìn
bằng nhận thức trước đó của chúng ta về màu sắc. Một cảnh mùa đông có thể được
tôn thêm bằng cách sử dụng màu xanh lơ trong bức ảnh để nó toát ra vẻ lạnh lẽo,
chẳng hạn, hay một chiếc dù màu đỏ trên bãi cát vàng có thể gợi lên cảm giác ấm
áp. Tuy không phải lúc nào cũng có thể đưa thêm màu sắc vào bức ảnh, nhưng hãy
chăm chút với màu sắc, nếu bạn đang có ý định có cho được bức ảnh thành công.
CÂN
BẰNG MÀU
Trên
phần lớn các máy ảnh KTS ngày nay, người chụp ảnh có xu hướng sử dụng thiết đặt
cân bằng trắng tự động (AWB). Việc này rất khả quan đối với hầu hết các chủ
thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tốt hơn là nên sử dụng một vài thiết
đặt cân bằng trắng được điều chỉnh trước, chẳng hạn như ánh nắng, bóng râm, ánh
sáng đèn huỳnh quang, đèn dây tóc, và làm cho chúng hài hòa với ánh sáng đang
hiện hữu. Bạn cũng có thể tự cài đặt một cân bằng trắng thủ công (WB Preset).
Việc này được thực hiện bằng cách chụp một tấm thẻ màu xám trung hòa, với việc
sử dụng một tùy chọn trên máy ảnh. Bấy giờ máy sẽ thực hiện một điều chỉnh để
đưa ra màu sắc rất trung thực. Ở đâu có ánh sáng ổn định, thì đấy là nơi tốt
nhất để thực hiện hoàn hảo một cân bằng màu cho ánh sáng pha tạp hoặc yếu. Một
mẹo hay mà tôi thường hay sử dụng nếu không chụp RAW là cài đặt thước đo độ
Kelvin (một kiểu đo màu) trên máy ảnh làm cho ánh sáng đang hiện hữu theo ý
mình hơn.
Hết
90 phần trăm các trường hợp, tính năng cân bằng trắng tự động, giống như phơi
sáng tự động, đều mang lại kết quả tuyệt vời.
Trong
các điều kiện bất thường hoặc ánh sáng bị pha tạp, hoặc nữa là với các chủ thể
có màu sắc nổi trội, hãy cố gắng cài đặt tính năng cân bằng màu bằng thủ công.
Đừng
ngại làm cho bức ảnh của bạn có màu ấm hơn hay thiên lạnh hơn một chút bằng
cách cài đặt thủ công theo ý bạn.
Nếu
bạn đang sử dụng một máy ảnh co chụp định dang RAW, thì có nhiều điều chỉnh cân
bằng màu có thể được thực hiện trên máy tính sau khi chụp xong. Tuy nhiên, đừng
làm biếng và dựa dẫm vào việc đó để khỏi tự tay cài đặt cho chính xác. Bạn càng
điều chỉnh chính xác các thiết đặt của máy ảnh, kết quả cuối cùng sẽ càng
tuyệt.
TẦM
QUAN TRỌNG CỦA HẬU CẢNH
Một
trong những sai lầm phổ biến nhất của nhiều người là không để ý đủ đến hậu
cảnh. Khi tôi chụp ảnh, một trong những yếu tố quan trọng hơn cả mà tôi cân
nhắc là hậu cảnh của bức ảnh sẽ như thế nào. Nói cho cùng, không một bức ảnh
nào có thể là bức ảnh “tuyệt vời” mà không có sự đóng góp của hậu cảnh. Điều
này không có nghĩa là lúc nào cũng phải có cho được một hậu cảnh hài hòa, tuy đó
cũng có thể là một khởi đầu tốt. Hậu cảnh không được làm rối loạn chủ thể chính
của bức ảnh, dù là trong một bức ảnh về hoạt động, một bức chân dung, hay thậm
chí một bức phong cảnh. Trong nhiều trường hợp, hậu cảnh được sử dụng để bổ
sung và thêm nội dung vào cho bức ảnh.
Chỉ
thay đổi đôi chút góc ảnh cũng có thể mang lại nhiều lợi ích. Chẳng hạn, nếu
bạn chụp ai đó đang đi giữa trời nắng và các chọn lựa hậu cảnh đều không được
như ý, hãy hạ máy xuống thấp và chụp ngược lên—đây là điều tôi ưa thích nhất— hậu
cảnh tốt nhất đang có trước mắt: bầu trời xanh lơ. Cũng vậy, khi thời tiết xấu,
vẫn có nhiều bức chân dung tuyệt vời được chụp ngược lên với bầu trời đầy mây,
u ám, ảm đạm.
Thi
thoảng, khi mà hậu cảnh không được tuyệt cho lắm, thì dùng ống kính tê-lê và
chụp với khẩu độ lớn. Việc này đặt toàn bộ hậu cảnh ra ngoài vùng lấy nét và
giúp cho chủ thể bạn chụp nổi bật. Cũng vậy, do ống kính tê-lê có một góc thu
nhỏ hơn, nên cho phép bạn có nhiều chọn lựa hậu cảnh hơn.
Bạn
đang chụp cô dâu trong ngày cô ấy kết hôn. Bằng cách đưa ngôi nhà thờ ở hậu
cảnh vào khung hình thay vì xoá mù mịt, bạn có thể làm cho một bức chân dung
đơn điệu, chán ngắt thành một bức ảnh đẹp hơn. Trong trường hợp này, hậu cảnh
bổ sung cho bức ảnh, chứ không làm phân tán hoặc áp đảo nó. Bạn phải cẩn thận
đừng để cho hậu cảnh lấn lướt bức ảnh. Hãy nhớ những gì bạn đã cài đặt để chụp
ảnh và sử dụng những gì chung quanh chủ thể để mang lại hiệu quả cho việc bố
cục và lên khung của bạn.
Gần
như không thể tiếp tục chụp ảnh tốt dần lên mà không quan tâm đến hậu cảnh là
một trong những yếu tố cốt thiết nhất của chụp ảnh có bố cục tốt. Một vài bức
chân dung đẹp thực sự là nhờ vào hậu cảnh tuyền một màu đen. Một số các bức
tĩnh vật sinh động được làm cho đẹp thêm nhờ hậu cảnh hoàn toàn màu trắng.
Một
vài điểm cần ghi nhớ trong đầu khi chụp ảnh gia đình đi dã ngoại:
Luôn
luôn, lúc nào cũng vậy, hãy lưu ý đến hậu cảnh.
Khi
chụp ảnh cô bạn gái của bạn tại một thành phố, đừng để cho một tòa nhà chọc
trời vượt lên phía sau đầu cô bé.
Đừng
chụp cậu em trai của bạn tại một khe núi lớn với đường chân trời vượt quá hai
tai cậu bé.
Khi
chụp bố bạn đang câu cá, hay lên khung với mặt hồ ở hậu cảnh—chứ không phải
chiếc xe hơi đậu gần bên hồ.
Khi
chụp bà cô của bạn nhân ngày sinh nhật bà, hãy bảo đảm bảng hiệu sáng choang
trên lối ra vào của nhà hàng không làm cho mắt bạn lãng khỏi chiếc bánh sinh
nhật.
Khi
chụp con trai bạn đang chơi trận bóng đá đầu tiên của cháu, hãy chọn một vị trí
có cảnh cây cối xanh tươi, chứ không phải khán phòng thể thao khó chịu, phía
sau bức ảnh hoạt động bạn đang định chụp.
Khi
lén chụp một cô bạn gái đang tắm nắng trên bãi biển, hãy đợi cho đến khi người
đàn ông sải bước cùng với con chó của ông du khách lạ phía sau cô bạn đi khỏi
đã.
CHỤP
ẢNH VỚI ĐÈN FLASH
Đến
thời điểm này, tôi phải hết sức thành thực để nói với bạn: tôi thường không
thích chụp ảnh với đèn flash. Tôi thích dùng bất cứ ánh sáng tự nhiên nào có
sẵn và vận dụng chủ thể để thực hiện các hiệu ứng về sau. Nhưng có những trường
hợp sử dụng đèn flash là một kỹ thuật hữu ích, và có một số điều chúng ta cần
biết để sử dung đèn flash cách tốt nhất.
Đèn Flash trên máy ảnh
Chúng
ta đã xem qua nhiều thí dụ về việc tại sao không nên sử dụng đèn flash—chẳng
hạn như những bức ảnh mà trong đó chủ thể đứng ngay trước một bức tường và ánh
đèn flash tạo nên một cái bóng đen vô cùng tệ hại lấn át cả bức chụp. Nếu đèn
flash được tích hợp trên máy ảnh, thì thường là khó mà tránh khỏi tình trạng
như thế, nhưng có một số mẹo có thể hữu ích.
Di
chuyển chủ thể khỏi hậu cảnh; càng xa ra khỏi một bề mặt có thể in bóng lại rõ
ràng, kết quả sẽ càng tốt hơn. Khoảng cách giữa chủ thể và chiếc bóng sẽ không
chỉ xác định kích thước của chiếc bóng mà con cả độ nét các đường rìa của nó
nữa, do đó, khoảng cách càng lớn, bóng đổ sẽ càng mờ.
Trong
một số trường hợp không thể thực hiện việc tách chủ thể ra khỏi hậu cảnh, thì
không thể tránh khỏi có một chiếc bóng đằng sau chủ thể, và việc tốt nhất bạn
có thể thực hiện vào những lúc đó là làm cho chiếc bóng càng mờ đi càng tốt.
Hãy chụp ở một góc mà sẽ hắt bóng phía sau lưng chủ thể hơn là ngay đằng sau
gương mặt, hoặc sử dụng cách hắt lại ánh đèn flash.
Bouncing Flash
Bằng
cách di chuyển luồng sáng của đèn flash, bạn có thể làm cho nó phản chiếu lại,
hoặc hắt lại, từ một bề mặt khác để thay đổi góc chiếu và chất lượng của nó đến
chủ thể bạn chụp. Hiệu ứng hắt lại ánh sáng làm phát sinh một ánh sáng ít trực
diện và ít gay gắt hơn, dẫn đến một hiệu ứng dịu đi với ít bóng đổ hơn nhiều.
Như các bạn hay thấy người chụp hay hướng đèn rời lên trần nhà chẳng hạn.
Có
thể dùng một mẫu bìa cứng đơn giản (hoặc ống đựng phim, đựng thuốc tây, v.v...)
màu trắng đục để thay đổi góc chiếu của ánh sáng phát ra từ đèn flash bằng cách
dùng nó bọc quanh đèn và tạo thành một kiểu hình ống tuýp nhỏ, có thể xoay qua
xoay lại được. Điều chỉnh góc chiếu của đèn để hướng ánh sáng vào phía thích
hợp—thường là một bức tường hoặc trần nhà có màu nhạt—rồi chĩa máy vào chủ thể
để chụp.
Diffusing Flash
Một
trong những vấn đề lớn nhất đối với đèn flash trên máy ảnh là ánh sáng chói do
nó tạo ra; ánh sáng chói, như chúng ta đã đề cập ở trước, tạo ra những bóng đổ
đậm khiến cho các bức ảnh mất đi tính hấp dẫn.
Chúng
ta có thể xử lý vấn đề này bằng cách khuếch tán hoặc làm dịu bớt ánh sáng do
đèn flash gây ra bằng một bộ khuếch tán của nhà sản xuất, hoặc có thể tự làm
lấy. Việc này khá đơn giản, chỉ cần dùng một chiếc khăn tay hoặc một mẩu khăn
giấy màu trắng mỏng đưa ra đằng trước đèn flash. Ánh sáng đi xuyên qua khăn tay
hay mẩu khăn giấy sẽ giảm đi, hoặc bị phân tán, tạo ra ít bóng đổ và nhìn dịu
hơn, thậm chí còn làm cho các vết nhăn nheo trên gương mặt của bà cô già khó
nhận thấy hơn.
HIỆN
TƯỢNG TIỀN CẢNH SÁNG NHƯNG HẬU CẢNH LẠI TỐI ĐEN
Một
kịch bản xấu khác về ánh đèn flash mà chúng ta ai cũng từng trải qua, đó là
“tiền cảnh sáng, hậu cảnh tối đen” (“bright foreground, black
background"), trong đó chủ thể được chụp chính xác nhưng hậu cảnh lại hoàn
toàn thiếu sáng và tuyền một màu đen. Một người bạn của tôi đã hoàn thành một
cuốn album toàn những bức ảnh như thế. “This is Margaret in Paris,” và “This is
Margaret in Rome” v.v... Tất cả các bức ảnh đều trông như nhau—những bức chụp
Margaret với hậu cảnh tối đen.
Nguyên
nhân thật đơn giản: tốc độ chụp quá nhanh. Đèn flash luôn phát ra đủ ánh sáng
để chụp chủ thể một cách chính xác, nhưng màn trập lại mở-đóng quá nhanh không
kịp để cho ánh sáng chung quanh hậu cảnh được bắt dính.
Cài
đặt tốc độ chụp ở mức thấp tương ứng với tốc độ ăn đèn sẽ giúp giải quyết được
vấn đề. Đèn flash sẽ “đóng băng” chủ thể trong khi độ trễ của màn trập sẽ để
cho có thêm ánh sáng chung quanh lọt vào ống kính. Bắt dính ánh sáng chung
quanh giúp cho hậu cảnh xuất hiện chi tiết hơn trong bức chụp.
Có
thể sử dụng tốc độ chụp chậm là 1/15 giây hoặc thậm chí thấp hơn, tuy nhiên,
nếu bạn không muốn có nguy cơ làm nhòe các phần chung quanh cảnh chụp, bạn phải
cố định máy ảnh (ví dụ, bằng giá ba chân). Hãy thử nghiệm, và nhìn xem những
kết quả bạn có thể có được. Nếu lần đầu tiên không hiệu quả, hãy xóa bức ảnh và
thử lại lần nữa bằng cách dùng một tốc độ chụp khác.
Đèn Flash rời
Ngay
cả khi máy ảnh KTS mới của bạn có một đèn flash được tích hợp sẵn, thì cũng
đáng cân nhắc để mua thêm một bộ đèn flash rời. Việc này sẽ giúp cho việc chụp
ảnh với đèn flash của bạn được linh động hơn. Hiện có quá nhiều loại đèn như
thế trên thị trường nên khó lòng kể ra được hết, nhưng một bộ đèn flash chất
lượng cũng đáng để bỏ tiền ra mua.
Nhiều
hãng sản xuất loại máy ảnh lớn hơn có sản xuất loại đèn độc quyền của họ, và
nếu mua loại cùng nhãn hiệu với máy ảnh của bạn thì quá tốt. Một bộ đèn Flash
dành riêng cho một loại máy ảnh cụ thể luôn cung cấp đầy đủ các tính năng lọt
qua ống kính và đèn flash với các khả năng không dây/đa chức năng. Sở hữu một
bộ đèn flash cao cấp, bạn sẽ có nhiều tùy chọn hơn, khi phải tạo ra những trạng
thái ánh sáng khác nhau.
Tôi
thích loại đèn flash có thể tháo rời và đặt bên cạnh chủ thể để tạo một nguồn
sáng, hoặc đặt vào những vị trí khác để tạo ra các hiệu ứng ánh sáng khác nhau.
Nếu máy ảnh của bạn không có khe cắm đồng bộ hóa—mà phải cắm thông qua một dây
cáp—thì vẫn có những cách khác để đèn flash hoạt động độc lập với máy ảnh. Có
những thiết bị gắn vừa với ngàm trên máy ảnh và có thể được nối bằng một dây cáp
hoặc được đồng bộ hóa để trở thành một đèn flash rời.
Còn
có một loại thiết bị nhỏ với giá tương đối rẻ gọi là bộ đèn “nhại” (slave).
Thiết bị điện tử này được kích hoạt bằng tiến trình kích sáng của đèn flash.
Được gắn với bộ đèn flash rời, nó được đốt sáng khi được kích sáng từ một bộ
đèn flash khác.
Nếu
máy ảnh của bạn là loại có đèn flash tích hợp sẵn, thì chính đèn flash này có
thể được sử dụng để kích sáng một đèn khác được gắn với bộ đèn “nhại”. Việc này
giúp cho tận dụng thêm một nguồn sáng thứ hai được đặt bất cứ đâu tùy ý. Hiện
nay, đa phần các hãng sản xuất có thương hiệu đều thiết kế tính năng không dây
ấy trong hệ thống đèn flash của họ, mang lại đầy đủ chức năng tự động và không
cần phải dùng đến dây nối. Sử dụng đèn flash rời theo cách ấy có thể có được
vùng sáng nổi bật, hoặc hướng sáng chính-phụ, đưa thêm nhiều độ sâu vào cho bức
ảnh của bạn.
Fill Flash
Trong
những dịp hiếm hoi có ánh nắng mặt trời rực rỡ, độ sáng có thể khiến cho bức
ảnh có quá nhiều khác biệt giữa các điểm sáng và tối. Các bức ảnh có thể có ánh
sáng không đồng đều. Nếu chụp để lấy những vùng sáng, thì phần các vùng tối sẽ
bị đen và không có chi tiết. Đây là lúc chúng ta cần dùng đèn flash bổ trợ.
Flash
bổ trợ đơn giản chỉ là sử dụng thêm một đèn flash để có được nhiều ánh sáng cho
các vùng tối. Kỹ thuật này giúp cho có được một bức ảnh đồng đều trong đó những
điểm sáng cân bằng hơn với các vùng tối.
Để
sử dụng Flash bổ trợ, trước hết chúng ta phải biết tốc độ máy ảnh D-SLR của
chúng ta đồng bộ hóa với đèn flash như thế nào. Nếu đèn flash không được đồng
bộ hóa thì sẽ ít hiệu quả.
Đa
số máy ảnh D-SLR có một tốc độ đồng bộ hóa là 1/60 giây - 1/250s. Các tốc độ
tương đối chậm được sử dụng với đa số máy ảnh để đồng bộ hóa với đèn flash có
nghĩa là, để thực hiện được một phơi sáng chính xác, chúng ta cần phải cài đặt
độ nhạy của cảm biến đến một ISO thấp hơn nếu không, toàn bộ bức ảnh sẽ bị quá
sáng. Một khi tốc độ chụp được cài đặt với tốc độ đồng bộ hóa chính xác, bước
tiếp theo là sử dụng tất cả các thông số phơi sáng.
Giả
dụ như chúng ta có được thông số là 1/60 giây, khẩu độ f/11 và ISO 100; bấy giờ
tất cả những gì chúng ta cần làm là cài đặt đèn flash với một cách biệt phù hợp
và khẩu độ là f/8 (một ‘stop’ so với toàn bộ thông số phơi sáng). Việc này sẽ
mang lại đủ công suất để “tác động” lên các phần tối, nhưng không hoàn toàn xóa
bỏ chúng.
ĐEN
TRẮNG
Đa
phần máy ảnh KTS đều có chức năng cho phép bạn chụp ảnh trắng đen. Tuy đó là
một tùy chọn, nhưng tôi muốn gợi ý bạn nên chụp các bức ảnh màu, rồi sau đó
chuyển đổi chúng sang ảnh đen trắng trên máy tính, bằng cách sử dụng phần mền
chỉnh sửa ảnh thich hợp. Việc này không chỉ mang lại cho bạn tùy chọn tái tạo
ảnh bằng màu hoặc trắng đen mà thôi, song tôi nhận thấy rằng, việc chụp ảnh màu
rồi sau đó chuyển sang ảnh trắng đen, thường làm cho các vùng tối nổi rõ chi
tiết hơn bức ảnh được chụp đen trắng ngay từ đầu. Bạn chịu khó xem lại Chương
Năm trong đó chúng ta có đề cập đến các lý do tại sao và cách để giải quyết.
CHẤT
LƯỢNG ÁNH SÁNG
Nhiều
người thường hỏi tôi, “Khi nào là thời điểm tốt nhất để chụp ảnh ?”
Đây
là một câu hỏi mà quả thực là không chỉ có một câu trả lời; có nhiều ý kiến
khác nhau. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng việc có thể xác định được các điều kiện
ánh sáng như thế nào, thì sẽ nắm được ưu thế vào các thời điểm khác nhau trong
ngày—và biết cách sử dụng các điều kiện ánh sáng khác nhau ấy—là một trong
những kỹ năng tuyệt vời nhất đối với nhiếp ảnh.
Những
thời điểm tốt nhất để chụp ảnh thường là buổi chiều tà hoặc buối sáng sớm. Tuy
nhiên, ngay cả khi mặt trời nằm ở vị trí thấp trên bầu trời vào hai thời điểm
ấy trong ngày, thì tiến trình quang hợp vẫn tạo ra những màu sắc rất khác nhau
vào hai lúc ấy. Quang hợp là phản ứng hóa học giữ cho hoa lá cỏ cây có được màu
xanh tươi tốt dưới ánh nắng mặt trời. Nhưng những hạt bụi lơ lửng trong không
khí cũng phản ứng lại với ánh nắng, trở thành một màu sẫm hơn, tuy không nhìn
rõ, vào ban sáng.
Ánh
sáng buổi đầu ngày rất trong, thứ ánh sáng trắng mang lại màu sắc tươi tắn và
sống động. Buổi chiều tà hoặc ngay trước lúc trời tối mang lại một ánh sáng dịu
dàng ấm áp hơn. Và vị trí thấp của mặt trời trong hai thời điểm ấy luôn gây ra
những bóng đổ dài và sẫm màu. Tính chất của ánh sáng buổi chiều tà—thứ ánh sáng
dịu dàng ấm áp, phân tán và càng lúc càng yếu dần—khiến nó trở thành một thời
điểm lý tưởng để chụp ngược sáng. Bố trí chủ thể ra phía trước mặt trời và dùng
một gương phản xạ hoặc một đèn flash bổ trợ nhỏ, bạn có thể có được những bức
chân dung với những vùng bao quanh vàng rực mang lại một hiệu ứng vô cùng thoát
tục.
Một
cách rất hay để tự mình khám phá hiệu ứng ánh sáng vào các thời điểm khác nhau
trong ngày là tìm đến một nơi phong phú cảnh sắc và chụp một vài bức ảnh vào
buổi sáng sớm. Cũng chụp như vậy vào buổi trưa, và sau đó là buổi chiều. Hãy so
sánh các bức ảnh và bạn sẽ tận mắt nhìn thấy cách mà ánh sáng thay đổi vào
những thời điểm khác nhau trong ngày như thế nào.
Thời
điểm trong ngày mà tôi không mấy ưa thích để chụp ảnh là buổi trưa. Mặt trời
đạt đến vị trí cao nhất của nó nên gây ra những bóng đổ quá sẫm màu buộc bạn
phải hạn chế. Ở đây, một lần nữa, đèn flash bổ trợ hoặc một cặp gương phản xạ
có thể giúp giải quyết các bóng đổ do ánh sáng gay gắt tạo ra.
Những
ngày mưa và u ám cũng có thể có được những bức ảnh tốt nếu biết cách sử dụng.
Một rặng đá ven biển với những đợt sóng vỗ cũng có thể trở thành kỳ vĩ dưới bầu
trời u ám đầy mây được dùng làm hậu cảnh. Một người đang nhìn qua cửa sổ dưới
cơn mưa có thể gây nên nhiều cảm giác khác nhau. Ngay sau khi một cơn mưa giông
vừa dứt, tôi thích thứ ánh sáng ló ra từ những đám mây đen khi chúng trôi đi.
Những ló sáng như thế có thể làm sáng rỡ phong cảnh như những chiếc đèn lớn
trên sân khấu.
Ánh
sáng là sự sống còn đối với nhiếp ảnh, và việc tìm hiểu được cách ánh sáng vận
hành ra sao vào các thời điểm khác nhau trong ngày, và đúng hơn, vào những thời
điểm khác nhau trong năm, là một kỹ năng mà người ta phải nắm vững mới có thể
trở thành một nhiếp ảnh gia thành công.
Đây là tóm kết một số thủ thuật cơ bản:
Vào
buổi sáng sớm, khi mặt trời còn ở vị trí thấp trên bầu trời, ánh sáng đẹp và
trong trẻo. Đây là một thời điểm tốt để chụp ảnh phong cảnh, do độ dài quá cỡ
của các bóng đổ đưa thêm hiệu ứng 3D vào cho các bức ảnh bạn chụp.
Buổi
trưa đứng bóng, khi mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu, các bóng đổ đều ngắn và sẫm
màu nên ánh sáng có thể trở nên rất tương phản. Việc chụp chân dung vào lúc này
đặc biệt khó khăn bởi vì bạn phải sử dụng flash bổ trợ hoặc gương phản xạ để
làm dịu đi hiệu ứng các bóng đổ.
Buổi
chiều tà mang lại một ánh sáng ấm áp tán sắc cùng với những bóng đổ dài và nhạt
màu. Đây là một thời điểm lý tưởng dành cho hầu hết mọi thể loại nhiếp ảnh.
Ánh
sáng luôn năng động. Hãy lên kế hoạch cho việc chụp ảnh của bạn tương thích với
ánh sáng càng nhiều càng tốt. Nếu nhìn thấy một hình ảnh như ý nhưng ánh sáng
quá gay gắt, bạn hãy chờ cho đến khi các tình trạng được cải thiện. Rõ ràng
những tình trạng ấy như thế nào, thì bức ảnh của bạn cũng sẽ như thế ấy.
Thời
tiết “tốt” không nhất thiết là có ánh sáng tốt. Những ngày âm u làm ánh sáng
dịu đi một cách dễ chịu và giảm bớt độ tương phản của nó, đồng thời các cơn bão
cũng có thể tạo ra những hiệu ứng siêu thực hiếm hoi khiến nó biến thành một
cảnh trí khác thường.
Cuối
cùng, thiết bị là công cụ trong tay bạn sử dụng, kỹ thuật chỉ quan trọng ở mức
độ là ta buộc phải làm chủ nó để truyền đạt những gì ta nhìn thấy. Kỹ thuật cá
nhân của riêng ta phải được sáng tạo và thích ứng chỉ nhằm để làm cho tầm nhìn
của ta đạt được hiệu quả trên tấm cảm biến của cái thiết bị ghi hình mà ta đang
cầm nó.