04/10/2025

Tu Phật đâu cứ cần tượng Phật, Kinh sách, chùa chiền,

 


Hẳn các Phật tử đều biết, khoảng hơn 2500 năm trước đây, sau khi giác ngộ, Phật Thích Ca vì mong muốn giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ mà bắt đầu truyền giảng Phật Pháp. Thời bấy giờ ở Ấn Độ cổ, người ta thậm chí không biết xưng hiệu của Đức Phật, không có từ Phật, càng không có tượng Phật, chùa chiền hay kinh sách. Phật Pháp mà Đức Phật chứng ngộ được trong chân lý vô biên của vũ trụ cũng vì thế mà không xoay quanh những điều này.

Thời bấy giờ, Phật Thích Ca chủ yếu truyền dạy đạo của Ngài trong các hang đá, trong rừng hay ngoài thiên nhiên. Các đệ tử đi theo Đức Phật ngoài chuyện đi xin ăn, hóa duyên ra, thì sinh hoạt chủ yếu tại đó, và ngoài việc nghe Đức Phật giảng dạy thì phần lớn thời gian đều dành cho việc ngồi thiền.

Chi Viên tịnh xá và Trúc Lâm tịnh xá ở nước Xá Vệ được xem là những nơi sinh hoạt đầu tiên được xây cất phục vụ việc truyền đạo của Đức Phật. Trúc Lâm tịnh xá là do vua Bimbisāra, đệ tử đầu tiên của Đức Phật thuộc hàng Vua chúa, xây dựng để cung cấp một nơi an cư thuận tiện cho Đức Phật và đệ tử của Ngài.

Tuy nhiên vô luận là hang đá hay tịnh xá, mục đích chủ yếu của chúng là để những người tu hành sinh sống và có được một không gian biệt lập phục vụ mục đích tu hành. Điều này khác xa so với mục đích của chùa chiền ngày nay (thờ cúng tượng Phật, đón khách viếng thăm, v.v..).

Thời đó khi Đức Phật truyền giảng chân lý mà Ngài chứng ngộ được thì đều là truyền miệng, không có ai ghi chép lại. Các đệ tử chỉ là nghe, hỏi và ghi nhớ mà thôi. Kinh sách là do các đệ tử đời sau chỉnh lý lại trong quá trình truyền thừa. Cũng vì thế mà kinh sách này không thể hiện đầy đủ hoàn cảnh mà Đức Phật truyền dạy, thậm chí còn phát sinh sự mâu thuẫn, dẫn đến các môn phái khác nhau bên trong Phật giáo sau này.

Ngoài ra, thời bấy giờ Đức Phật cũng không dạy người ta các hình thức cúng bái.

Sau khi Đức Phật nhập niết bàn thì xảy ra một loạt các biến đổi. Một là liên quan đến việc phân chia chi phái như đã nói ở trên, mặt khác cũng xuất hiện việc thờ phụng xá lợi.

Bấy giờ sau khi nhục thân của Đức Phật được hỏa táng thì xuất hiện xá lợi. Tám vị quốc vương ở Ấn Độ cổ phái sứ giả đến nơi hỏa táng, yêu cầu được chia xá lợi Phật, nên phân thành 8 phần. Hai quốc vương nữa đến sau không nhận được xá lợi Phật, nên một người lấy chiếc bình đựng xá lợi, một người lấy tro cốt của Đức Phật về.

Cho nên toàn thể Ấn Độ cổ thời ấy đã kiến tạo 10 tòa tháp, bao gồm 8 tòa tháp an táng xá lợi Phật, 1 tòa tháp an táng chiếc bình đựng xá lợi Phật và 1 tòa tháp an táng tro cốt Phật.

Vào thời kỳ vua Ashoka, khoảng thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Ấn Độ. Vì muốn mở rộng và làm hưng thịnh Phật giáo, vua Ashoka đã hạ lệnh khai quật các xá lợi tháp. Nhưng trong đó có các tòa tháp bởi vì kiến tạo quá chắc chắn nên không thể khai quật được. Toàn bộ phần xá lợi Phật có thể lấy ra một lần nữa được chia làm nhiều phần, phân chia khắp nơi.

Nghệ thuật tạc tượng xuất hiện tại Ấn Độ khá muộn, có thể là được lưu truyền từ Hy Lạp tới, cũng vào khoảng thời gian vua Ashoka. Các tượng Phật bắt đầu xuất hiện, và dần có sự chuyển đổi từ thờ phụng xá lợi sang thờ phụng tượng Phật.

Tượng Phật vào thế kỷ thứ 2-3, được tìm thấy tại Pakistan (thuộc Ấn Độ cổ), đã đạt đến trình độ khá tinh xảo. (Ảnh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain

 

Sau khi xuất hiện việc thờ phụng tượng Phật, người ta bắt đầu phải xây dựng nơi để đặt tượng Phật. Trong các kiến trúc chùa chiền ngày nay thì tượng Phật chiếm một vị trí rất quan trọng.

 

Đại tháp giác ngộ tại Bồ Đề Đạo Tràng - nơi Đức Phật Thích ca mâu ni đắc đạo khi ngồi dưới cội bồ đề

  

Trên thực tế, bất luận là tượng Phật, kinh sách hay chùa chiền thì đều không phải là điều mà Đức Phật để lại. Thời bấy giờ khi Đức Phật chuẩn bị niết bàn, chúng đệ tử có hỏi Ngài về việc dựa vào điều gì để tiếp tục tu hành, Đức Phật đã để lại giới luật. Giới luật này trong quá trình truyền thừa tới Phật giáo Đại Thừa đã tăng thêm rất nhiều, nhưng về cơ bản là đã bảo lưu lại được, chỉ là lẫn thêm vào giới luật nghiêm khắc hơn mà thôi. Như vậy có thể thấy trong Phật giáo ngày nay, điều chân chính được truyền thừa lại chỉ có giới luật.

Kinh Phật không hoàn chỉnh và ngày càng sai khác trong quá trình truyền thừa, phiên dịch. Thêm vào đó, người đời sau đọc hiểu không được cổ ngữ, nên rất nhiều điều đã trở nên sai lệch, thậm chí méo mó. Người đời sau lại còn đề xướng “Phật học”, viết sách giải thích, đưa ra định nghĩa, nhưng cảnh giới của người viết có phải là Phật chăng? Cũng giống như học sinh cấp 1 muốn giải thích sách đại học vậy, làm cho người đọc đều hiểu sai cả. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến Phật giáo suy vi, thật giống như Đức Phật đã tiên tri về thời “mạt Pháp” khi Pháp của Ngài không còn hiệu nghiệm nữa.

Đức Phật niết bàn. (Tranh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain)

 

 Con người luôn mong muốn dùng những hình thức vật chất để biểu đạt tín ngưỡng. Tuy vậy điều này lại dẫn tới sự lầm lẫn giữa chân chính tu Phật với các hoạt động tôn giáo như tìm hiểu nghiên cứu kinh sách, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền. 

Người mang tâm tu Phật, nhưng lại chỉ chú trọng đến chuyện đọc vài quyển kinh, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền, cúng dường, v.v.. kỳ thực chỉ giống như “mò trăng đáy nước” mà thôi.

Do đó, người thực tâm tín Phật, chân chính tìm kiếm sự giác ngộ và ý nghĩa của sự giải thoát, thì phần lớn đã không còn ở trong chùa chiền đạo quán nữa rồi.

Vì tu Phật đến Giác ngộ để giải thoát khỏi Khổ cần Trí tuệ - Từ bi và Nghị lực

Các vị Chân tu nhiều đời nay muốn hoằng dương Phập Pháp trở lại Thế gian nhưng đành bất lực.

 

03/10/2025

Sapa giai đoạn 1920-1930

 ST

 

    Hình ảnh về Sapa giai đoạn 1920-1930 được phục dựng lại màu từ ảnh đen trắng do các nhiếp ảnh gia người Pháp chụp. 


 











Ảnh đen trắng chụp khoảng năm 1950 về phong cảnh ở Việt Nam (chụp từ máy bay)

  Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Pháp Raymond Cauchetier - ST

Loạt ảnh phong cảnh tuyệt đẹp ở Việt Nam thập niên 1950

Ruộng lúa bạt ngàn ở Mũi Cà Mau, Việt Nam đầu thập niên 1950.

Một làng chài ven biển.

Làng chài nằm trên doi đất nhô ra biển.

Bờ biển miền Trung với những cồn cát nhấp nhô.

Loạt ảnh phong cảnh tuyệt đẹp ở Việt Nam thập niên 1950

Những dãy núi rực sáng dưới ánh chiều khi nhìn từ Biển Đông.

Con thuyền mảnh trên biển.

Một ngôi làng ở miền Bắc Việt Nam nhìn từ máy bay.

Cảnh tượng hùng vĩ của vùng núi phía Bắc.

Một bức ảnh phong cảnh có bố cục hoàn hảo với dòng sông uốn lượn giữa hai vách núi.

Sông Hương nhìn từ đồi Vọng Cảnh ở Huế.

Khung cảnh Tây Nguyên với khu nhà sàn bên sườn núi.

Bên bờ vịnh Hạ Long.

Bãi bồi bên bờ vịnh Hạ Long.

Cảnh tượng kỳ vĩ ở vịnh Hạ Long.

 

02/10/2025

Họa tai năm Nhuận

 ST


Các cụ nhà ta ngày xưa tổng kết cấm có SAI nha:

Ngẫm từng năm nhuận mà coi

Nếu ko bão lụt, cũng thời hoa tai

Năm nào nhuận 2 tháng 2

Nếu ko tính toán đói lòi mắt ra

Năm nào nhuận 2 tháng 3

Đồng tiền cắc bạc ấy là vứt đi

Năm nào nhuận 2 tháng 4

Gặp năm bão sớm, ló thì đổ non

Nhuận 2 tháng 5 hao mòn

Ăn gần hết thóc , mạ non xuống đồng

Nhuận 2 tháng 6 thấy ko

Khắp nơi lũ quét, chiến tranh tứ bề

Nhuận 2 tháng 7 lê thê

Cả năm rét đậm tái tê mùa màng

Nhuận 2 tháng 8 có sang

Thêm 2 tháng 9 rõ ràng đói thêm

Năm nhuận thường chẳng êm đềm

Cả năm âm loạn, dương càng oái oăm.

 

 

01/10/2025

Em giấu mùa Thu

Tôi đăng bài thơ vì tôi yêu thích bức tranh này - TL

 

 Từ Khánh Phượng
  

Em cố giấu mùa thu trong tim

Anh nhìn thấy thu cười trên sóng mắt

Em dỗi bảo: Ừ! Thì anh giỏi thật

Chưa thua đâu! Em sẽ giấu nơi anh chẳng ngờ.

 

Em liền giấu mùa thu trong thơ

Khi anh đọc nghe tiếng lá rơi xào xạc

Thấy bóng chú nai tìm bầy ngơ ngác

Và nắng lợp vàng trên lối cỏ xanh.

 

Em vội giấu mùa thu vào trong anh

Nghe ngực trái cứ thập thình nhịp đập

Nơi không hẹn mà tình yêu lại gặp

Em thẹn thùng: Là thu không phải em!

 

Đến nước này em giấu mùa thu nữa xem

Khắp trời đất đã nhuốm màu da diết

Em ngún nguẩy: Anh thật là đáng ghét!

Biết giấu mùa thu đâu cho mộng mãi xanh niềm?

 

Em giấu mùa thu sao giấu nổi lòng mình

Hoa nguyệt quế giấu hương đi đâu được?!

Bóng trăng sáng giấu mình trong đáy nước

Sóng lăn tăn nhàu nhĩ chút nõn nà

 

Em giấu chi anh tình thu ấy thiết tha

Khi ánh mắt môi cười hiện lên tất cả

Đừng giấu nữa thu giờ đang đổ lá

Lỡ thu gầy tình chẳng mấy vui đâu!