Trích Pháp Môn Tịnh Độ
Soạn Giả: Tỳ Kheo Thích Trí Thủ
Vì muốn thích hợp với mọi hoàn cảnh mọi tâm niệm, mọi căn cơ,
nên cùng một việc niệm Phật mà có nhiều phương pháp sai khác nhau, mỗi phương
pháp lại có một tác dụng đặc biệt riêng của nó. Khi niệm Phật, người tu hành
nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp
nhất với căn cơ và hoàn cảnh mình mà hành trì. Nếu tu niệm trong một thời gian
mà thấy rằng phương pháp mình đã chọn lựa không trấn tỉnh được tâm cảnh vọng
động thì nên bỏ phương pháp đó, chọn lại một phương pháp khác, lắm lúc phải
chọn đi chọn lại năm bảy lần mới tìm ra một phương pháp thật thích hợp. Phương
pháp nào trấn định được tâm cảnh, tiêu trừ được mọi vọng niệm thì là phương
pháp hay nhất đối với mình. Cũng như đối với thầy thuốc, phương thang nào chữa
đúng căn bệnh là phương thang hay. Đối với chúng sanh, vọng niệm là căn bệnh,
thuốc là danh hiệu Phật, hễ phương pháp nào trừ được căn bệnh vọng niệm, ấy là
phương pháp thiện xảo nhất, đừng nên câu nệ.
Sau đây, xin giải thích rõ từng phương pháp một để hành giả y
theo mà hành trì cho phải phép. Lại nên nhớ thêm rằng “Trì danh” là phương pháp
tụng niệm của đường lối tu Tịnh độ. Đó là một điểm trọng yếu.
a) Niệm cao tiếng: Đem hết cả tinh lực toàn thân dồn vào trong một câu niệm Phật
khác nào những tiếng đại hồng chung, những tiếng sư tử rống ác cả trời đất Vũ
trụ. Theo phương pháp này bị hao hơi rát cổ nhiều, không thể trì niệm lâu được.
Tuy nhiên, nó có công năng đối trị được bệnh hôn trầm giải đãi, trừ khử được
tạp niệm lăng nhăng. Khi niệm Phật nếu thấy mơ màng muốn ngủ gục, hoặc thấy tư
tưởng bị chao động, hành giả nên mạnh mẽ đề khởi tinh thần, cất cao vọng niệm
to tiếng làm trí não thức tỉnh, chánh niệm khôi phục và sẽ được linh hoạt như
cũ. Niệm Phật cao tiếng có tác dụng rất lớn lao. Hơn nữa nó còn làm cho người
hai bên nghe rõ tiếng niệm và khiến họ lần lần sanh khởi tâm niệm Phật.
Ngày xưa, lúc Ngài Vĩnh Minh Thọ Thuyền sư niệm Phật tại chóp
núi Nam Bình, tỉnh Hàng Châu, những người qua lại dưới chân núi nghe tiếng rang
rảng như tiếng nhạc trời đánh giữa hư không, khiến cho ai nấy đều rất thâm cảm.
Chính Ngài đã áp dụng phương pháp này vậy.
b) Mặc niệm: Lúc niệm, môi miệng chỉ hơi mấp máy, không phát ra tiếng; Người
ngoài nhìn vào, không biết là đương niệm. Tuy không phát ra tiếng, nhưng 6 chữ
“Nam mô A Di Đà Phật” đương sáng ngời và rang rảng trong tâm thức hành giả, vô
cùng rõ ràng. Nhờ sự sáng ngời và rang rảng ấy mà tâm thần định tĩnh, chánh
niệm ngưng tụ thành một khối, khiến cho hiệu lực của nó không khác hiệu lực của
niệm Phật có tiếng
Phương pháp niệm này có thể áp dụng trong khi nằm nghỉ, khi tắm
rửa, lúc bệnh hoạn, lúc phóng uế, hoặc trong khi đương ở hội trường công cộng
hay khi lữ thứ tha phương v.v… tóm lại là trong những trường hợp không tiện
niệm ra tiếng.
c) Niệm Kim Cang: Niệm thư thả, hòa hoãn tiếng không lớn quá, không nhỏ quá. Bất
luận là niệm 4 chữ, hay 6 chữ, hành giả vừa niệm vừa lắng tai nghe lại tiếng
niệm của mình từng chữ một, thật rõ ràng. Cứ vừa niệm vừa nghe như thế, trí óc
sẽ không bị xao lãng và tâm thần định được.
Phương pháp niệm này hiệu lực rất lớn lao, Cho nên, đem ví dụ
với ngọc kim cang. Kim nghĩa là vàng, thí dụ cho sự cô đọng cẩn mật; cang nghĩa
là cứng, thí dụ cho sự cứng rắn. Vừa cẩn mật vừa cứng rắn thì ngoại cảnh khó
xâm nhập và tạp niệm dễ bị đánh tan.
Trong lúc phương pháp niệm Phật, phương pháp này thường được
dùng hơn hết. Với phương pháp này lại có tên là phản văn niệm Phật nghĩa là
niệm chữ nào trở lại nghe chữ ấy, chữ ra từ miệng lại trở về lại tai.
d) Niệm giác chiếu: Một mặt xưng danh hiệu Phật, một mặt quay tâm trí của mình trở
lui soi xét tự tánh. Với phương pháp này, cảnh đối tượng trước mắt đều bị đẩy
lùi hết, chỉ còn một cảm giác linh động trong tâm thôi. Ấy là cảm giác tâm
Phật, thân Phật, cả hai cùng ngưng tụ thành một khối sáng chói lọi, tròn vành
vạnh. Ngoài ra, các cảnh giới bao la trong mười phương như sơn hà đại địa, nhà
cửa khí cụ, nhất nhất thảy đều mất tung tích cho đến thân tứ đại của hành giả
cũng không biết lạc mất chỗ nào. Được như vậy thí báo thân tuy chưa xả mà cảnh
Tịch quang đã chứng. Danh hiệu Phật vừa tuyên lên là đồng thời hành giả chứng
nhập tam muội, đem thân phàm phu dự vào cảnh giới chư Phật.
Thật không có phương pháp nào so bằng phương pháp này. Nhưng có
điều đáng tiếc là, phi bậc thượng trí, ít ai lãnh hội và thực hành nổi. Vì vậy
mà sức cảm hóa của phương này có hơi hẹp
đ) Niệm quán tưởng: Một mặt xưng danh hiệu Phật, mặt khác quán tưởng thân Phật và
Bồ tát trang nghiêm đang đứng trước mặt ta. Do tự kỷ ám thị tưởng tượng ra các
cảnh như cảnh Phật đương đưa tay thoa đầu ta hoặc lấy áo phủ lên mình ta, hoặc
như cảnh đức Quan Âm và đức Thế Chí đương đứng hầu hai bên đức Phật, còn Thánh
chúng thì đương đoanh vây hai bên thân ta. Lại có thể quán tưởng cảnh đất vàng,
hồ báu của thế giới Cực lạc với lâu đài tráng lệ, lưới báu bủa giăng, hoa nở
chim kêu đương phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng v.v…
Nếu quán tưởng này đã thành thục, thì tuy nhục thân đương ở cõi
Ta bà mà thức thần đã dạo chơi trên Cực lạc. Hoặc nếu quán tưởng chưa chơn
thuần thì nó vẫn có thể làm trợ duyên cho sự niệm Phật bằng cách giúp cho tịnh
nghiệp dễ dàng thành tựu.
Phép tu quán tưởng này lâu ngày càng thuần thục càng tạo được
một ấn tượng rõ ràng và sâu sắc trong tầm mắt của hành giả. Một ngày kia, khi
báo thân suy tạ, trần duyên ở cõi đời này dù cám dỗ đến đâu, cũng khó lôi cuốn
khiến phải liên lụy. Như vậy, thắng cảnh Cực lạc nhất thời đã hiển hiện ra
trước mắt rồi.
e) Niệm truy đảnh: Cũng giống như phép niệm Kim cang nói đoạn trước, nhưng giữa
chữ trước và chữ sau, giữa câu trước và câu sau, đừng để xen hở. Chữ nọ bồi vào
chữ kia, câu sau chồng lên câu trước, trung gian không cho dứt hở, nên gọi truy
đảnh. Truy nghĩa là đuổi theo, đảnh nghĩa là đầu.
Nhơn vì chữ truy đảnh, câu câu truy đảnh một cách chặt chẽ, nên
tạp niệm không cách gì xen vào được. Trong lúc niệm, do trong lòng tình tự khẩn
trương, tâm và khẩu cùng xúc tiến một lần, phát sanh được chánh niệm. Oai lực
của chánh niệm càng lớn càng lấn át tất cả, làm cho tâm tưởng vô minh tạm thời
phải chìm lặng.
Phương pháp niệm này có hiệu lực rất lớn, xưa nay thường được số
đông các bậc tu tịnh nghiệp dùng đến.
g) Niệm lễ bái: Đồng thời trong khi miệng niệm thì thân lạy, hoặc niệm xong
một câu lạy một lạy, hoặc bất câu miệng niệm nhiều hay ít, hễ cứ miệng niệm thì
thân lạy, thân lạy thì miệng niệm.
Có niệm có lạy liên tục nên khiến cho thân khẩu hợp nhứt; đồng
thời trong lúc ấy, ý nghĩ đến Phật nên cả tam nghiệp thân, khẩu, ý cũng tập
trung, 6 căn đều thâu nhiếp. Như vậy, toàn bộ thân tâm cùng hết thảy các giác
quan đều quy về một mối, không còn có chỗ hở nào cho trần sự chen vào, cũng
không có một tâm niệm nào khác làm chao động tâm niệm tưởng Phật, nhớ Phật.
Muốn áp dụng phương pháp này, phải đặc biệt tinh tấn. Hiệu lực
của nó cũng đặc biệt lớn lao. Duy chỉ có một điều hại là lễ bái quá nhiều thì
sinh nhọc sức, phí hơi thở; người yếu không làm nổi. Vậy chỉ nên kiêm dụng với
các phương pháp khác, chứ không nên chuyên trì, sợ e mất sức, sanh bệnh.
h) Niệm từng loạt 10 niệm
(sổ thập): Khi niệm dùng chuỗi hạt để ghi số loạt, cứ
mỗi loạt mười câu. Sự ghi số có nhiều cách: hoặc niệm 3 câu một hơi, làm như
vậy 3 lần, đến câu tiếp thì lần một hạt chấm câu; hoặc 3 câu một hơi, rồi 2 câu
một hơi nữa, như vậy 2 lần rồi lần một hạt. Như vậy là cứ mỗi khi lần một hạt
chuỗi tức là đã niệm xong 10 niệm.
Phương pháp này bắt buộc tâm hành giả vừa niệm Phật, lại vừa
phải nhớ số câu niệm, Cho nên, dù tâm không chuyên, buộc cũng phải chuyên. Nhờ
có sự cưỡng bức ấy mà đối trị được các tạp niệm lăng xăng, tâm trở nên chuyên
nhứt. Thật là một phương pháp hay và rất thích nghi với những kẻ nào tâm niệm
quá chao động.
i) Niệm đếm theo hơi thở (sổ
tức): Niệm như pháp truy đảnh trước kia, không kể số danh hiệu Phật
niệm được nhiều hay ít, chỉ dùng hơi thở làm chừng. Bắt đầu thở ra thì niệm cho
đến khi hết hơi thở, nghỉ niệm mà hít thở vào. Khi thở ra lại, tiếp tục niệm
như trước. Cứ 10 lần như vậy, thì gọi là 10 hơi niệm.
Phương pháp này sở dĩ thiết lập ra đặc biệt dành riêng cho những
người quá bận rộn, tiện cho sự thực hành hằng ngày. Chẳng hạn như, mỗi ngày
sáng sớm ngủ dậy, sau khi rửa mặt súc miệng xong, day mặt về hướng Tây hoặc
hướng trước Phật đài, bỏ ra 5 phút là niệm xong 10 hơi. Công việc không khó,
như người tập thể thao làm những cử động hô hấp. Nếu ngày nào cũng chuyên cần
như vậy, thì cũng nhất định được vãng sanh.
Đây là căn cứ theo đại nguyện thứ 18 của đức Phật A Di Đà (xem
trước) mà thiết lập phương này. Các vị Cổ đức nghiên cứu và tu tập phương pháp
thập niệm, chính là phương pháp niệm theo 10 hơi thở này.
k) Niệm theo thời khóa nhất
định: Điều tối kỵ nhất trong phép niệm Phật là lúc bắt đầu thì hăng
hái mà về sau lại giải đãi. Sở dĩ có sự thủy cần chung dải như vậy là vì không
có tâm hằng thường. Cho nên, để giữ cho được thủy chung như nhứt, ngay từ khi
sơ phát tâm niệm Phật, hành giả cần phải tự vạch cho mình một thời khóa biểu
nhứt định. Một khi thời khóa biểu đã vạch sẵn rồi thì ngày ngày cứ y theo đó mà
thực hành, tự gây cho mình một thói quen, và có như thế mới giữ được đạo tâm
bất thoái. Trong buổi đầu, niệm nhiều hay ít chưa phải là điều quan trọng vì
nhiều hay ít còn tùy thuộc năng lực và hoàn cảnh riêng biệt của từng cá nhân;
quan trọng là tại chỗ thường thời thực hành, đều đều và chuyên nhất.
Người xưa có vị mỗi ngày niệm đến 10 vạn hiệu. Vị nào ít lắm
cũng 5 vạn. Công hạnh tu hành của họ thật là tinh tấn dũng mãnh! Ngày nay, hoàn
cảnh thay đổi khác xưa rất xa mà lực lượng của tự thân ta cũng không bằng, vậy
ta nên châm chước hoạch định một công khóa, thật sát với hoàn cảnh và vừa sức
của ta, để thực hành cho đúng mức. Sau khi đã hoạch định rồi thì dù gặp phải
công việc bận rộn đến đâu, cũng phải cố gắng hoàn thành công khóa. Vạn nhất, vì
một lẽ nào đó mà không hoàn tất được ngày ấy thì qua hôm sau phải bổ khuyết kịp
thời, chớ nên để rày lần mai lửa, tạo thành cho ta một thói xấu rất có hại về sau.
Trong khi vạch khóa trình, nên tránh hai cực đoan. Cực đoan thứ
nhứt là vì sự hăng hái trong buổi đầu, tự định cho mình một khóa trình quá
nhiều, về sau đuối sức theo không kịp, rồi vì vậy bỏ luôn. Cực đoan thứ hai là
vì sự e ngại về sau theo không kịp, nên dè đặt tự định cho mình một khóa trình
quá ít, không thấm vào đâu, rồi cũng dễ sinh ra giải đãi. Cả hai cực đoan đều
đến kết quả như nhau. Cho nên, trong khi quyết định khóa trình, cần phải tế nhị
châm chước dung hòa giữa hoàn cảnh và năng lực thế nào thích trung mới được lâu
dài và hữu hiệu
l) Niệm bất cứ lúc nào: Với những hành giả đã huân tập được tịnh chủng khá thành thục
thì tự nhiên phát ra những tiếng niệm Phật bất cứ lúc nào, cơ hồ như có một sức
lực dũng mãnh nào bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hằng tiến không lùi.
Vì vậy mà dù công khóa đã hoàn tất, các vị này vẫn chưa cho là đủ, nên trừ
ngoài giấc ngủ, bất luận ngày đêm, trong bốn oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi,
không lúc nào, không chốn nào, là không niệm Phật. Như vậy câu “Nam mô A Di Đà
Phật” không lúc nào rời khỏi miệng, lâu ngày thành tập quán.
Truyện vãng sanh của người xưa còn ghi chép lại rất nhiều trường
hợp vãng sanh do pháp môn niệm Phật này đem lại. Như có ông thợ rèn, tay đập
búa miệng niệm Phật; bà làm nghề đậu hủ, tay xay đậu miệng niệm Phật; về sau,
khi vừa dứt tiếng niệm Phật, cả hai đều được đức Phật phóng hào quang tiếp dẫn
và đều được tọa hóa vãng sanh Cực lạc.
Chúng ta nên lấy đó làm gương. Nếu niệm được đến trình độ ấy thì
dù có định khóa trình, hay không còn định khóa trình, không còn là vấn đề nữa.
m) Niệm hay không niệm vẫn
là niệm: Phép niệm Phật nói ở đoạn trên là chỉ sự
niệm thành tiếng, phát ra nơi cửa miệng, trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi.
Chữ NIỆM trong đoạn này là chỉ tâm niệm (tâm niệm nhớ nghĩ đến Phật). Nói “niệm
hay không niệm vẫn là niệm” có nghĩa là bất kể niệm thành lời hay không, luôn
luôn trong tâm vẫn tưởng nhớ đến Phật, tức là vẫn có niệm Phật.
Sở dĩ miệng phải niệm Phật là cốt nhắc cho trong tâm tưởng nhớ
đến Phật. Giờ đây, dù cho khi miệng không niệm mà tâm vẫn có tưởng nhớ, như thế
cứu cánh của phép trì danh niệm Phật đã đạt được rồi vậy.
Nếu hành giả thực hiện được phép “không niệm mà niệm” thì bất
luận thời gian nào, bất luận miệng có trì danh hay không trì danh, tâm lý lúc
nào cũng vẫn để vào Phật. Như vậy, tịnh niệm đã kiên cường liên tục không hở,
lòng như rào sắt vách đồng, gió thổi cũng không lọt, ai muốn đập phá cũng không
xuể, quyết không còn một trần niệm ô nhiễm nào có thể đột nhập, khiến cho tâm
chao động được. Lúc ấy, phép niệm Phật tam muội tự nhiên thành tựu, quả vãng
sanh không cầu mà tự đến.
Người xưa nói “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” tức là
chỉ cho cảnh giới này vậy. Nếu không phải là người niệm Phật đã lâu năm, và do
đó, công hạnh đã thuần thục, thì quyết không thực hành được pháp môn này. Hàng
sơ cơ quả thật khó mà noi theo.
***