14/05/2015

Miền Bắc năm 1965

   Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Italia Romano Cagnoni đã ghi lại những hình ảnh rất sinh động và chân thực trong chuyến thăm miền Bắc Việt Nam 1965.
Các cụ bà bán vòng hoa tang và rau bên bờ hồ Gươm ở Hà Nội.
  Xe bò chạy qua Ngân hàng Nhà nước ở gần bờ hồ.
  Trong cửa hàng bách hóa tổng hợp ở Hà Nội.
  Dân quân thuộc hợp tác xã nông nghiệp Hồng Kỳ: Cụ Lê Văn Thân, cậu học sinh Bùi Văn Nguyên và nữ nông dân Lê Thị Nga. Hầu hết nam thanh niên ở nông thôn miền Bắc đã ra trận, chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em ở nhà.
  Một nhóm dân quân tập luyện quân sự.
  Một đơn vị dân quân tự vệ của miền Bắc Việt Nam.
  Người nông dân miền Bắc vác trên vai mảnh xác máy bay ném bom B-50 của Mỹ.
  Các thợ mỏ nói chuyện với nhau tại mỏ than lộ thiên ở Cẩm Phả.
 Hai vợ chống và đứa con đạp xe qua một khu dân cư bị Mỹ ném bom.
  Người dân và tụ tập quanh mảnh xác máy bay Mỹ vừa bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc.
  Bé gái và cha lấp ló bên miệng hầm trú ẩn.
  Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Phủ Chủ tịch.
  Bức ảnh màu hiếm có về hai nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1965.

11/05/2015

PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT ĐỂ ĐƯỢC NHẤT TÂM BẤT LOẠN


(Đã đăng trên báo TẬP SAN VÔ ƯU
của GIÁO HỘI PHẬT GIÁO TỈNH DAKLAK)


Trong kinh Tiểu Bổn A Di Đà, Đức Phật có dạy: “muốn được vãng sanh về Tịnh Độ của Đức PHẬT A DI ĐÀ, người tu phải đáp ứng ba điều kiện dưới đây:

1.-Phước đức và căn lành phải lớn (nguyên văn: Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc).
2.-Niệm Phật cho được “Nhất Tâm Bất Loạn” từ một ngày cho tới bảy ngày. (Nguyên văn: Chấp trì danh hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt “Nhấ t Tâm Bất Loạn”).
3.-Khi sắp lâm chung tâm không điên đảo. (Nguyên văn: Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A DI ĐÀ PHẬT dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo (=không loạn động), tức đắc vãng sanh A DI ĐÀ PHẬT, Cực Lạc quốc độ)”.

Để đáp ứng cho một trong ba điều kiện nêu trên, chúng tôi hân hạnh giới thiệu “Phương pháp niệm Phật để được Nhất Tâm Bất Loạn” như sau:

1.-Ngồi kiết già hay bán già hoặc xếp bằng.
2.-Hai mắt nhắm lại (vừa khít thôi).
3.-Không quán tưởng.
4.-Không nhớ đến Phật và Bồ Tát.
5.-Không lần chuổi.
6.-Trong tâm liên tục mặc niệm (niệm thầm trong tâm) 4 chữ “A DI ĐÀ PHẬT” hay 6 chữ: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, mỗi chữ khoảng một giây đồng hồ.
7.-Trong khi đang mặc niệm 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT, người tu dùng con mắt tâm (tâm nhãn) quan sát trong thân (từ hai vai xuống tới rún) xem coi 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT khởi lên ở chỗ nào. Khi nước tâm (tâm thủy) lóng trong người tu sẽ thấy được Điểm Niệm Phật (chỗ 4 chữ A Di Đà Phật khởi lên).
(Chú ý: Nếu người tu mặc niệm vài ba câu rồi ngừng lại để tìm Điểm Niệm Phật thì không thể thấy được, vì Điểm Niệm Phật đã tan rồi. Phải vừa mặc niệm vừa tìm, mới thấy được).
8.-Khi thấy được Điểm Niệm Phật rồi, người tu tập trung sự CHÚ Ý (CON MẮT TÂM) nhìn thẳng ngay vào Điểm Niệm Phật, giống như con mèo rình chuột vậy, không được lơi lỏng.
9.-Trong khi vừa mặc niệm vừa chú ý, vừa chú ý vừa mặc niệm một cách miên mật (như mèo rình chuột), người tu sẽ phát hiện có ý nghĩ nầy hay ý nghĩ nọ (tạp niệm) khởi lên xen vào, thì nên biết rằng mình Niệm Phật chưa được “Nhất Tâm Bất Loạn”.
10.-Để được “Nhất Tâm Bất  Loạn”, người tu chỉ cần Chú ý kỹ và mạnh hơn một chút, rồi một chút nữa (cái khéo léo của người tu nằm tại chỗ nầy) cho đến khi nào thấy không có một ý nghĩ nào khởi lên hay xẹt ra được nữa, chỉ còn lại 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT mà thôi. Như vậy, là Niệm Phật được “Nhất Tâm Bất Loạn rồi vậy. (Chú ý: Đừng chú ý mạnh quá sau khi nghĩ dụng công sẽ nặng đầu).

Pháp niệm Phật nầy còn có tên khác là “Pháp Cột  Tâm Một Chỗ” (Chế tâm nhứt xứ) dù là người mới bắt đầu lần thứ nhứt, chỉ cần một thời gian ngắn là có thể đạt đến chỗ “Nhất Tâm Bất Loạn”.

Pháp nầy có hai tác dụng: thu hút vọng tưởng tạp niệm và tẩy rửa tâm linh sạch sẽ. Do đó, người mới bắt đầu tu tập mỗi lần dụng công chừng nữa giờ (30 phút), ngày vài lần, cộng chung lại khoảng hai, ba tiếng đồng hồ là được. Còn những người đã từng ngồi được từ một tiếng đồng hồ trở lên, thì mỗi lần dụng công từ 50 đến 60 phút, tổng cộng đúng 3 giờ hay 4 giờ, dành cho một ngày.

Đã có rất nhiều người nhờ tu pháp nầy mà được lợi ích thiết thực trong việc tu hành. Nếu như có vị nào không tin, hãy tu thử vài tuần lễ xem sao, vì đâu có tốn đồng xu cắc bạc nào mà sợ.

------
GHI CHÚ:
-Mặc niệm hay niệm thầm trong tâm là tu trong tâm. Còn mở miệng niệm Phật là lìa tâm mà tu.
-Nhắm mắt thấy tâm, mở mắt thấy cảnh.

Thiền Sư THÍCH THANH PHƯỚC

NHƯ THẾ NÀO LÀ THÀNH ĐẠO?

 (Đã đăng trên báo NỘI SAN VÔ ƯU năm Tân Tỵ 2001
của GIÁO HỘI PHẬT GIÁO TỈNH DAKLAK )



Để trả lời câu hỏi nêu trên, trước hết xin mời các bạn lưu ý câu chuyện Thái Tử Sĩ Đạt Ta thành Đạo như sau:



-Cách đây 2544 năm, Thái Tử sĩ Đạt Ta (shiddharta) con Vua Tịnh Phạn, lìa bỏ tất cả, trốn khỏi hoàng cung vào ở trong rừng để tu hành, vì những lý do như sau:



1.-Thấy biết rõ “ngũ dục lạc thế gian (Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy) không bao giờ làm cho con người thỏa mãn được. Bởi vì “nước dâng thuyền cao”.
2.-Thấy Sanh – Lão – Bệnh – Tử là những nỗi thống khổ của con người, không có một ai tránh khỏi!
3.-Chỉ có tu hành mới mở được cái “Gút Chết” của Sanh – Lão – Bệnh – Tử, để cứu mình và cứu người thoát ly biển khổ sanh tử mà thôi.



Sau khi cạo bỏ râu tóc, Thái Tử đã lặn lội khắp nơi để tìm thầy học Đạo, nhưng không gặp được một vị cao nhân nào cả! Cho đến một hôm, Thái Tử tình cờ gặp được năm anh em ông Kiều Trần Như. Do nhân duyên đó, Thái Tử bắt đầu tu tập khổ hạnh bằng cách mỗi ngày chỉ ăn có một hạt mè mà thôi!
Theo kinh sách để lại, vì Thái Tử tu tập khổ hạnh như vậy, nên thân thể của Thái Tử chỉ còn da bọc xương, hễ rờ trước bụng là đụng sau lưng, còn rờ sau lưng là đụng trước bụng! Thế mà, Thái Tử vẫn không chút sờn lòng nản chí trong công việc tiến tu!



Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, từ ngày Thái Tử xuất gia tính đến nay đã gần 6 năm rồi! Một hôm, nghe có hai vị đạo sư nổi tiếng đương thời: Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, Thái Tử liền lập tức tìm đến nơi, học hỏi với ông Alara Kalama không bao giờ là chứng đạt được Vô Sở hữu xứ. Kế đó, Ngài đang học với ông Uddaka Ramaputta cũng chỉ với thời gian ngắn là chứng đạt được Phi tưởng phi phi tưởng xứ.



Nhưng, lúc bấy giờ Thái Tử lại nhận thấy pháp tu của vị thầy nói trên không có đủ khả năng mở cái “Gút Chết” của Sanh – Lão – Bệnh – Tử, nên Thái Tử lại bỏ ra đi, đến vùng núi Dungsiri thuộc vùng Uruvela , ngồi dưới gốc cây Pippala (Bồ Đề) tự mình dụng công để thân chứng cho được những ảo bí trong tâm. Thái Tử cứ tu tập như vậy cho đến ngày thứ 49, vào buổi sáng sớm ngày mùng 8 tháng chạp (12) năm 544 trước Công Nguyên. Ngài liền được Đại Ngộ (Triệt Ngộ) khi Sao Mai vừa mới mọc ở phĩa Đông. Thế là Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã được Thành Đạo (= thành Phật), Ngài trịnh trọng tuyên bố rằng:



Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai. Nhưng vì Vọng tưởng chấp trước nên không chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì Vô sư Trí, Nhứt Thiết Trí… sẽ hiện bày, tha hồ mà thọ dụng”.



Sao? Giờ đây, đọc lại câu chuyện nói về việc Thành Đạo của Thái Tử Sĩ Đạt Ta, các bạn thấy thế nào và có cảm nghĩ gì?



Có phải chăng, Thái Tử Sĩ Đạt Ta nhờ Tọa Thiền (Tu Tâm) nên được Ngộ Đạo, Chứng Đạo và Thành Đạo (Thành Phật)? Vì lý do gì hay nguyên nhân nào mà Đức Thế Tôn mở bày chỉ rõ cho mọi người biết chỗ tu chứng của Ngài, vừa khi Thành Đạo?



Cũng xin được hỏi, tại sao bốn chúng Phật tử thời nay đều nói mình Tu Tâm, nhưng khi được hỏi, “Tâm là cái gì và ở đâu” thì ít có ai trả lời cho người hỏi được hài lòng toại ý!? Giả sử các bạn không biết Tâm là cái gì và ở đâu, thử hỏi các bạn phải tu làm sao đây!?



Thực ra, muốn biết Tâm là cái gì và ở nơi nào, đâu có gì khó. Các bạn chỉ cần bắt chước Thái Tử Sĩ Đạt Ta tìm một nơi thanh vắng ngồi yên, nhắm hai con mắt thịt lại rồi dùng con mắt tâm (tâm nhãn) hướng vào trong Thân quan sát cho thật kỹ, các bạn sẽ thấy trong đó có đủ thứ như: có nói, cười, có la khóc, có hội chợ, đua thuyền, đá banh, nhảy múa, ca hát, nghĩ nầy nghĩ nọ, nghĩ bậy tưởng bạ, có thầy trò Tam Tạng đi thỉnh kinh và công chúa Hoàn Châu… lăng xăng lộn xộn, thì thì thầm thầm, rối rối rít rít suốt cả ngày lẫn đêm, không bao giờ chịu ngừng dứt! Thế là các bạn đã thấy biết được cái Tâm Vọng tưởng điên đảo của chính mình rồi vậy.



Nói Tu tâm là tu cái Tâm Vọng tưởng điên đảo nầy đấy. Thay vì nói “Tu Tâm”, chúng tôi nói là: “Trị tâm bệnh”. Vậy , Tâm của các bạn có bệnh không? Nếu như thấy có bệnh, cần phải được chữa trị ngay càng sớm càng tốt. Tại sao? Tại vì, kinh có nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe” . do đó, nếu như không khéo hiểu biết, thì một kiếp được làm người trôi qua rất uổng!?



Nhưng “Tu Tâm” hay “Trị Tâm Bệnh” như thế nào mới được Ngộ Đạo, Chứng Đạo và Thành Đạo?



Theo lời dạy của Đức Thế Tôn khi vừa mới Thành Đạo, trong Tâm Linh của bất cứ người nào cũng có chứa đựng vô số năng lực phước huệ (Công Đức) như: Vô Sư Trí, Phật Tri Kiến, Tam Minh, Ngũ Nhãn, Lục Thông… chỉ vì Vọng tưởng Tạp niệm làm chướng ngại phủ kín che lấp, nên không hiển lộ được.



Cho nên, muốn đạt được của báu vô giá, điều cơ bản nhất là, các bạn phải có một Pháp tu  cho tốt để tiêu diệt Vọng tưởng Tạp niệm mới thấy được vật báu vô giá trong vũ trụ là: “Chân Như”. Mà thấy được Chân Như tức là Ngộ Đạo, vì Chân Như hay Đạo, Chơn Tâm, Phật Tánh, Pháp Thân, Vô Sư Trí, Phật Trí Kiến, Bản Lai Diện Mục… là căn bản của muôn pháp, nguồn gốc của vạn vật.



Nhưng, Vọng tưởng  Tạp niệm là cái gì, và phải dùng pháp tu nào mới có thể tiêu diệt được chúng?



Vọng tưởng Tạp niệm là những thứ Tự ngôn Tự ngữ, mơ mơ hồ hồ, chợt có chợt không, ở trên đã nói sơ sơ rồi. Chính nó và Tam chướng (Nghiệp chướng, Báo chướng, Phiền não chướng)… đều là sản phẩm của Vô minh (=Hoặc + Nghiệp + Khổ), là động cơ dẫn dắt chúng sanh trôi lăn trong 3 cõi 6 đường từ vô thỉ nhẫn nay! Nếu đem so sánh với bom nguyên tử, thì nó còn nguy hiểm hơn bom nguyên tử gấp muôn vạn lần! Nếu không diệt sạch nó mà muốn thoát ra khỏi sức hút của Vũ Trụ Cảm Giác hay ra khỏi vòng Luân hồi để được tự tại giải thoát, thì chẳng khác gì “trèo cây bắt cá” vậy!



Chính vì thế cho nên, các bạn phải có một Pháp Tu có đủ khả năng tiêu diệt Vô Minh mới có thể mở được cánh cửa giải thoát . nhưng, trong kinh sách Phật giáo chỉ thấy nói, Thái Tử Sĩ Đạt Ta ngồi dưới cội cây Bồ Đề, hướng vào trong tâm dụng công 49 ngày là được Dại Ngộ (nắm bắt được Chân Như), chớ không thấy nói tới việc Ngài dụng công như thế nào, hoặc dùng phương pháp gì để tiêu diệt Vọng tưởng Tạp niệm cả! Cho nên, người tu theo Phật xưa nay, phải lâm vào cảnh dở khóc dở cười, vì tiến cũng không được mà lùi cũng không xong!!. Có thể nói, điều đó là lý do để bốn chúng Phật tử “kính trọng Thiền, mà phải xa lánh Thiền” quay sang tu theo Tịnh độ, cầu đức Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp cho họ một tay!?



Chỉ có Diệu Pháp Giải Thoát, mới là chiếc thuyền từ rộng lớn độ khắp chúng sinh thoát ly biền khổ. Nếu, các bạn đủ niềm tin vào nó, thì sẽ được cứu, chắc chắn không nghi. Bằng cớ là trong thời gian gần đây, đã có rất nhiều huynh đệ nhờ dùng nó để hạ thủ công phu, nên được giáp mặt với “Chân như” hay thấy được Pháp thân. Nói cách khác là được Ngộ Đạo hay Kiến Tánh hoặc thấy được đầu đường về Niết Bàn! Nếu các bạn chưa tin, hãy tu thử một thời gian chừng 5 đến 7 tháng xem sao, chỉ tốn mất thời gian  chớ đâu có tốn đồng xu cắt bạc nào mà sợ!?



Nói tóm lại, giáo pháp duy nhất của Đức Thế Tôn, là để dạy cho chúng sanh biết cách tiêu diệt Vọng tưởng Tạp niệm khó trị trong Tâm Linh. Nếu, các bạn biết cách dụng công “không gấp không hướn, có làm có nghĩ, bám chặt không bỏ dở”. Nghĩa là, vận dụng pháp tu một cách linh hoạt, sinh động cho tăng dần số lần và thời lượng thấy được Chân Như hay Pháp Thân (=bản thể của vạn vật), để rồi luôn sống với nó (=thể nhập). Sau đó, các bạn cũng là Chân Như hay là Pháp Thân, có năng lực biến cải vạn vật rồi sinh ra muôn vật…!!



Thiền Sư THÍCH THANH PHƯỚC

TU THIỀN LÀ TRỊ TÂM BỆNH

 (Đã đăng trên báo TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC 
của TRUNG ƯƠNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM)


Mỗi một con người chúng ta đều có hai thân: Nhục thân và Pháp thân.

- Nhục thân là cái thân tứ đại vật chất có hình tướng, nên ai nấy đều thấy biết dễ dàng. Còn Pháp Thân hay là Chân Như, Chơn Tâm, Phật Tính, Vô Sư Trí, Bạch Tịnh Thức, Tự Kỹ và Phật Tri Kiến… là những thuật ngữ trong nhà Phật dùng để chỉ cái “Bản Lai Diện Mục” (bộ mặt thật xưa nay) của chúng ta. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn, Pháp thân (Tâm Linh) là cái thân chân thật của chúng ta, nhưng vì nó không có hình tướng, lại còn ở ngay trong cái thân tứ đại vật chất nầy, nên ít có ai thấy (nhận ra) được sự hiện diện của nó. star

Quả thật, chúng ta có hai cái thân. Nếu như có để ý, chúng ta sẽ thấy Nhục thân và Pháp thân cùng kết hợp với nhau hết sức chặt chẽ, khít khao và tinh tế đến nỗi, người kém trí tuệ không thể nào rõ biết được mình lại có cái thân không có hình tướng như thế!

Để chứng minh sự thực đó, người xưa có nói:
Lòng buồn sanh bệnh,
Bệnh sanh lòng buồn!”

Tuy nhiên, có một điều hơi khó hiểu là khi cái thân tứ đại vật chất (là cái của TA, chẳng khác gì cái nhà, chiếc xe hay cái áo…) có bệnh, là có sợ hãi khổ đau phiền não không mời mà đến, nên người ta lập tức tìm thầy chạy thuốc để chửa trị. Nếu cần phải chụp hình, hoặc rọi kiếng, siêu âm, nội soi hoặc mổ xẻ gì gì đó… dù có tốn hao bao nhiêu tiền của, công sức cũng cam tâm chấp nhận, miễn sao hết bệnh hết khổ không chết là được! Trong khi đó, “Pháp thân” hay “Tâm Linh” là cái thân chân thật (Chân thân) đã và đang lâm trọng bệnh (mất chính thường) từ vô thỉ kiếp đến nay, và có thể nói đó là một chứng bệnh nan y cực kỳ nguy hiểm nữa kìa, thế mà người ta vẫn bình chân như vại, coi như không có việc gì xảy ra cả. Tại sao lại có việc bất công như thế chứ!?

Có phải chăng, người ta không biết cái Tâm Linh hay cái thân chân thật của họ đã và đang lâm trọng bệnh?

Đức Phật nói: “Chúng sinh điên đảo”. Vậy, chúng ta có điên đảo không? Nếu tâm chúng ta không bệnh hay không điên đảo, thì làm gì có cái chuyện giả mà cho là thật, khổ mà cho là vui, vô thường mà tưởng là Thường… thậm chí không tự biết được mình là cái gì và ở đâu, để phải đam mê đắm chấp vào cái thân tứ đại vật chất giả hợp huyễn có nầy, cho đó là TA…!? (**)

Muốn biết cái Tâm của mình có bệnh, có điên đảo hay không, các bạn khỏi phải nhờ thầy thuốc hay bác sĩ chẩn đoán, rọi kiếng hay siêu âm hay nội soi gì cả, mà chỉ cần đợi người nhà ai nấy đều đi ngủ hết rồi. Các bạn vào trong màn ngồi xếp bằng, đừng suy nghĩ gì cả, nhắm kín hai con mắt thịt lại, đồng thời dùng con mắt tâm (tâm nhãn) hướng vào bên trong thân quan sát cho thật kỹ, xem coi trong đó im lặng như tờ hay ồn ào náo nhiệt như cái chợ một thứ!? Nếu như các bạn phát hiện trong đó có đủ thứ hết, như: tàu bè, xe cộ, núi sông, nói, cười, chửi, mắng, đua thuyền, đá banh, nghĩ bậy tưởng bạ hoặc ba thầy trò Tam Tạng trên đường đi thỉnh kinh, thì thì thầm thầm rối rối rít rít không bao giờ chịu ngừng nghỉ… thì các bạn nên biết rằng Tâm mình đã bị mất chính thường hay có bệnh đang phát cuồng đấy!?

Dĩ nhiên, thứ tâm bệnh nầy không phải là thứ “bệnh tâm thần” mà những người bị điên hoặc mất trí nhớ đang điều trị tại bệnh viện Chợ Quán hay biên Hòa mắc phải đâu. Xin chớ có lẫn lộn.

Các bạn cũng nên biết, những hình bóng lúc ẩn lúc hiện cũng như những thứ tự ngôn tự ngữ, tự nói tự rằng, nghĩ bậy tưởng bạ… như đã nói ở trên, Phật học gọi đó là “Vọng tưởng”, “Tạp niệm” hay “Hoặc + Nghiệp + Khổ”. Mà “Hoặc +Nghiệp + Khổ” hay là Vọng tưởng Tạp niệm cũng chỉ là tên khác của “Vô minh”.

Lại nữa, sáu cái nguyên nhân đem lại khổ đau và phiền não cho chúng sanh là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Tà kiến cùng những Tam chướng là: Nghiệp chướng, Báo chướng và Phiền não chướng cũng chỉ là sản phẩm hoặc tên khác của Vô minh! Do đó, chúng ta có thể nói, Vô minh hay Hoặc + Nghiệp + Khổ là một thứ vi khuẩn cực kỳ nguy hiểm hơn vi trùng HIV, vi trùng bệnh AIDS kể cả bom nguyên tử gấp  muôn vạn lần. Bởi vì, bệnh HIV, AIDS hoặc bom nguyên tử dù có nguy hiểm đến đâu cũng chỉ có thể tiêu diệt một đời hoặc một kiếp của chúng ta mà thôi, chớ còn vô minh hay Hoặc + Nghiệp + Khổ đã âm thầm giết hại và làm cho chúng ta phải khổ đau phiền não từ vô thỉ nhẫn nay, khó mà có ai tính nổi là bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!?

Đã là người học Phật, chắc ai cũng biết: Vô Minh sinh Hành, Hành sinh Thức, Thức sinh Danh Sắc, Danh Sắc sinh Lục Nhập, Lục Nhập sinh Xúc, Xúc sinh Thọ, Thọ sinh Ái, Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu, Hữu sinh Sinh, Sinh sinh Lão Tử (Sinh khởi môn).

Chính vì thế cho nên, không có một chúng sinh nào mà không mắc phải tâm bệnh. Chúng ta hãy nghe Đức Lục Tổ Huệ Năng mở bày chỉ rõ (khai thị) như sau:
Phật nói tất cả pháp
Để trị tất cả tâm
Ta không tất cả tâm
Đâu cần tất cả pháp”.

Kinh Pháp Hoa cũng có nói Đức Phật là một ông thầy thuốc Vua của các thầy thuốc (Đại Y Vương). Như vậy, rõ ràng tu hành theo Phật đạo là Trị Tâm Bệnh. Bởi vì, Tâm có bệnh là Ta Bà khổ ải, còn Tâm hết bệnh (chính thường) tức là Tâm Thanh Tịnh mới được tự tại giải thoát, Liểu sinh thoát tử, ra khỏi vòng Luân hồi hay thành Phật làm Tổ.

Muốn Trị Tâm Bệnh các bạn phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ câu nói sau đây của Đức Thế Tôn:
Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sinh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng được. Nếu lìa Vọng Tưởng, thì vô Sư Trí, Nhất Thiết Trí… sẽ hiện bày, tha hồ mà thọ dụng”.

Qua lời dạy nêu trên của Đức Phật, chúng ta thấy:
-Đức tướng trí tuệ Như Lai là chỉ cho Pháp Thân, Pháp Giới Tính, Chân Tâm, Phật Tính, Vô Sư Trí, Tự Kỹ và Phật Tri Kiến…
-Có phải chăng, “Vọng tưởng” là “Tạp niệm”, là những thứ “Tâm ngữ” không hơi không tiếng rối rối rít rít không chịu ngừng dứt như đã nói ở trên, chính là Vô Minh hay Hoặc + Nghiệp + Khổ?
-Có phải chăng, khi lìa được Vọng tưởng Tạp niệm thì sẽ giáp mặt, nắm bắt được Vô Sư Trí, Chân Tâm mà Thiền tông gọi là Kiến Tính, Ngộ Đạo hoặc thấy được Đầu đường về Niết Bàn?
-Có phải chăng chúng ta lìa Vọng tưởng hay tiêu diệt Hoặc + Nghiệp + Khổ là vì: có Lão Tử bởi có Sinh, có Sinh bởi có Nghiệp, có Nghiệp là bởi có Vô Minh? (Hoàn diệt môn trong Thập Nhị Nhân Duyên).

Mà Vô Minh chính là “Hoặc + Nghiệp + Khổ”. Quán sát kỹ Hoặc + Nghiệp + Khổ, chúng ta sẽ thấy chúng có ba mà một, tuy một mà ba. Chúng chuyền níu nhau dẫn dắt chúng ta trôi lăn trong vòng luân hồi không có ngày dừng! Nếu như Nghiệp (Vô Minh) bị diệt sạch, thì Hoặc và Khổ cũng theo đó mà tan biến. Tâm bệnh đã trở nên chính thường, động cơ dẫn dắt đi tái sinh đã không còn nữa, thì làm gì còn có Sinh và Lão Tử nữa chứ!?

Thế mới biết, có thân là có khổ, không thân thì có lo gì!

Quả thật tu hành theo Phật là “Trị Tâm Bệnh”, nhưng tu hành như thế nào mới có thể trị được Tâm Bệnh, hành giả cần phải có con mắt sáng mới được? Nếu không khéo sẽ uổng phí thời giờ một cách vô ích! Thành thật mà nói, ai muốn tu pháp môn nào thì cứ mà tùy ý, nhưng khi nghe thấy nhiều người phát biểu: “Phật pháp có tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn, muốn tu pháp nào mà không được”, tôi không khỏi chấn động sợ hãi! Có phải chăng, “con đường nào cũng về tới Thủ đô!?”

Muốn trị tâm bệnh cho có kết quả tốt, tôi dám quả quyết rằng, chỉ có tu thiền của Phật mới là “Tẳng, Mau, Rõ, Đúng”. Còn việc muốn ngừng dứt hay tiêu diệt cho được Hoăc + Nghiệp + Khổ hay là lìa Vọng Tưởng Tạp niệm, để cho hành giả Kiến  Tính hay Ngộ Đạo dễ dàng, thì chỉ có Diệu Pháp giải thoát (***) mới có đủ khả năng giúp cho các bạn được mãn nguyện mà thôi!?

Tâm sinh thì các pháp sinh. Tâm bình thì thế giới bình!

--------
Ghi chú:
(*)Ai giáp mặt hay tìm ra nắm bắt được Pháp Thân là người Ngộ Đạo hay Kiến Tính.
(**)Cái thân vật chất nầy chỉ là một dụng cụ của TA, chằng khác gì cái áo, cái nhà…
(***)Trước đây có tên là Nhiếp Hóa Pháp, và Vô Niệm Pháp.

Thiền Sư THÍCH THANH PHƯỚC

THIỀN CỦA PHẬT GIÁO

(Đã đăng trên báo TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC)



Trong một pháp hội ở Linh Sơn, Đức Thế Tôn cầm cành hoa đưa lên, mà không nói lời nào. Lúc bấy giờ, đại chúng ngơ ngác không hiểu ý Đức Thế Tôn ra sao, chỉ có Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp (Mahakayapa) ngộ được yếu chỉ, hướng về Đức Phật mĩm cười. Đức Thế Tôn bảo với đại chúng:


“Ta có pháp môn vi diệu, con mắt của chính pháp, tâm diệu của Niết Bàn, là tướng thực không tướng, không lập văn tự, truyền ngoài giáo lý, nay giao phó cho Ma Ha Ca Diếp”.


Từ đó, Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp được xem là Tổ thứ nhất của Thiền Tông Ấn Độ một cách danh chánh ngôn thuận. Về sau, Tôn Giả Ca Diếp truyền y bát (của Phật) lại cho Tôn giả A Nan làm Tổ thứ hai, và cứ như thế tiếp tục truyền đến đời thứ 28 là Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma).


Vào năm 520, Tổ Bồ Đề Đạt Ma biết được tín chúng Phật tử Trung Quốc đã có đạo tâm thuần thục, liền vượt biển sang Đông, cặp bến vào quảng Châu. Quan Thái Thú địa phương rước Ngài về Kim Lăng, tiến cử với vua Lương Võ Đế (Tiêu Diễn). Nhưng, vì Lương Võ Đế chấp chặt vào phước báo hữu lậu thế gian, không hiểu được công đức chân thật của pháp giải thoát, nên Tổ Đạt Ma thấy không khế hợp, Ngài vượt sông Trường Giang sang nước Ngụy, đầu tiên đến kinh đô Lạc Dương, kế đó đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn thuộc tĩnh Hà Nam, ngồi nhìn vách núi 9 năm. Về sau, gặp được Huệ Khả cầu pháp, Tổ biết đó là pháp khí của Thiền tông, nên truyền y bát cho ngài Huệ Khả làm Tổ thứ 2 của Thiền tông Trung Quốc. Tiếp theo Nhị tổ Huệ Khả, y bát được truyền cho Tăng Xán, Đạo Tín rồi Hoằng Nhẫn (602 – 675).


Sau đời Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn, xuất hiện một nhân tài kiệt xuất, dù không biết một chữ, đó là Lục Tổ Huệ Năng (638 – 713). Từ đó trở đi, Thiền Tông ngày càng khởi sắc, phát triển thành ra 5 phái Thiền, mà lịch sử Thiền Tông gọi đó là: “Nhất Hoa Khai Ngũ diệp” (Đóa Hoa Nở Năm Cánh).


Nhất hoa chỉ cho Đức Lục Tổ Huệ Năng, còn ngũ diệp là:
1.-Tông phái Lâm Tế, do Thiền sư Nghĩa Huyền (? – 867) sáng lập.
2.-Tông phái Tào Động, do Thiền sư Bổn Tịch (890 – 901) ở Tào Sơn và Thiền sư Lương Giới (807 – 969) ở Động Sơn sáng lập.
3.-Tông phái Vân Môn, do Thiền sư Văn Yễn (tịch 949) sáng lập.
4.-Tông phái Qui Ngưỡng do hai Thiền sư Linh Hựu (771 – 853)  ở Qui Sơn và Thiền sư Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn sáng lập.
5.-Tông phái Pháp Nhãn, do Thiền sư Văn Ích (885 – 958) sáng lập.



Đệ tử của 5 phái thi nhau phát triển ở khắp nơi, trong cũng như ngoài nước Trung Quốc, khiến cho mây lành che phủ, cam lộ rưới chan, mưa pháp đượm nhuần tín chúng. Nhờ đó mà “Thiền Của Phật Giáo” có mặt ở Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…


Thế mà, thời nay khi nói tới Thiền, đa số Phật tử không biện biệt được thứ Thiền nào là “Thiền Của Phật Giáo” và thứ Thiền nào là “Thiền của ngoại đạo”, cho nên họ nói Thiền cũng chỉ là “một trong tám vạn bốn ngàn pháp môn” để đi đến cứu cánh của Đạo Phật mà thôi. Thật là một sự hiểu biết lầm lẫn tai hại vô cùng, có thể nói không có sự tổn thất nào lớn lao, quan trọng cho bằng.


Sự thật, Thiền là Linh Hồn của Phật Giáo, nó hội tụ tất cả “tinh hoa của Phật Giáo” mà thành. Không có Thiền, Phật Giáo có gì vượt trội hơn các Tôn Giáo lớn khác?. Nhờ có Thiền, cho nên thời nay dù rơi vào thời kỳ Mạt pháp, Phật Giáo vẫn được nhiều người ở khắp nơi trên thế giới đặc biệt quan tâm, chú ý đến.


Là một Phật tử, đâu có ai không biết Thái Tử sĩ Đạt Ta (SHIDDHARTA) vì tìm cầu cái Đạo Giải Thoát mà xuất gia. Suốt 5 năm đầu, Ngài lặn lội khắp nơi, tìm các vị cao nhân để học Đạo. Sau cùng, Ngài nhận thấy pháp tu của những vị Thầy (ngoại đạo) ấy không thể nào giúp cho Ngài được toại nguyện, nên Ngài rời bỏ đi đến vùng núi DUNGSIRI  thuộc vùng URUVELA, ngồi dưới gốc cây Bồ Đề (PIPPALA) tự dụng công, để thân chứng cho đưỢc những áo bí trong tâm. Và  vào một buổi sớm mai nhằm ngày mồng tám tháng chạp năm 544 trước Công nguyên, Ngài được Đại Ngộ khi sao Mai vừa mới mọc ở hướng Đông. Thế là, Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã Thành Đạo, thông suốt tất cả bí ẩn của Vũ Trụ, Ngài trịnh trọng tuyên bố:


“Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ tướng phước đức, trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng trói buộc che đậy, nên không thể chứng được. Nếu diệt sạch vọng tưởng, thì Vô Sư Trí, Trí Tự Lai, Các Năng Lực To Lớn sẽ có, tha hồ mà dùng!”.


Như vậy, rõ ràng “Thiền của ngoại đạo” đã có trước “Thiền của Phật Giáo”. Nhưng, “Thiền của ngoại đạo” lại không có đủ khả năng giúp cho người tu vượt ra khỏi “Vũ Trụ Cảm Giác” (Vũ Trụ Tương Đối) hay ra khỏi 3 cõi 6 đường được, nên Đức Phật không cho đó là cứu cánh. Trong khi đó, sáu phái ngoại đạo ở Ấn Độ vẫn áp dụng triệt để pháp tu nầy (Thiền của ngoại đạo) để sau khi chết được sanh về cõi Trời.


Chúng ta nên biết, phương pháp chủ yếu của sáu phái ngoại đạo là Minh Tư (hay Minh Sát) tức là ngồi nhắm hai mắt lại để Tư Duy và Quán Sát.


Để hiểu rõ hơn về giá trị và chỗ khác biệt về pháp tu của họ ra sao đối với “Thiền Của Phật Giáo”, chúng ta hãy dùng tiêu chuẩn Tam Pháp Ấn của nhà Phật, để đối chiếu và so sánh:


1.-Chư Hành Vô Thường (Các hành là vô thường): có nghĩa là tất cả các sự vật ở trên thế giới nầy, mà mắt chúng ta có thể thấy, tay có thể chỉ ra được, đều thoáng qua như khói mây trước mắt, có đó rồi bổng chốc mất đi (Thành, Trụ, Hoại , Không).


Ai cũng biết được điều nầy, nhưng người “thể hội” (biết tận bản chất) được nó, chắc chẳng có bao nhiêu. Huống nữa là người khi xúc duyên chạm cảnh, mà không bị mê muội, không bị cảnh lôi cuốn, thì quả thật chỉ “đếm trên đầu ngón tay”.


Để có được sức định và “thể hội” sâu sắc đạo lý nầy, phái Minh Tư nói trên, có thể đạt được kết quả, đủ sức đối phó với mọi nghịch cảnh xảy ra.


2.- Chư pháp vô ngã (= các pháp không có tự thể): Ngã có nghĩa là tự thể; chư pháp là chỉ cho tất cả sự vật ở trên thế gian nầy, cả thảy đều do đủ Nhân đủ Duyên hợp lại mà thành, bản thân nó không có cái gì gọi là “tự thể được”.


Chúng ta đều biết, núi Côn Lôn cực kỳ hùng vĩ, cao ngất trời xanh, nhưng “tự thể” của nó vẫn là không, bởi lẽ nó có là do đất, đá và cây cối hợp lại mà Có, nếu loại bỏ tất cả những thứ đó ra, thì ngọn núi to lớn nầy không thể tồn tại được. hà huống gì là những thứ nhỏ nhoi, yếu đuối khác.


Biển Thái Bình mênh mông không bờ bến, sóng cả ba đào, che phủ trời trăng, cái vĩ đại ấy, cũng do tất cả nước của những con sông lớn nhỏ khắp nơi trên trái đất, chảy ra thành biển. nếu loại bỏ số nước của những con sông nầy, chắc chắn biển Thái bình sẽ khô cạn, và nó sẽ bị xóa trên bản đồ thế giới ngay.


Hai sự vật to lớn đó, đại biểu cho toàn thể vạn vật trên thế gian nầy, “tự thể” của chúng đã là Không, thì những sự vật hay các pháp khác có thể nào vượt ra khỏi tính chất ấy được chăng?


Tuy nhiên, biết là một việc, còn khi chạm cảnh mà không mê muội, lại là một việc khác.


Cách đây hơn 30 năm, ở Đài Bắc có một sinh viên của một trường Đại Học đi bơi với một người bạn học ở Hồ Bích Đàm, bị chết đuối. khi nghe tin, bà mẹ cậu ngất xỉu, tỉnh lại chạy ra bờ hồ kêu gào than khóc, dù rất đông thân nhân, bạn bè khuyên nhủ, an ủi, cũng không nguôi. Mấy hôm sau, khi vớt được xác cậu con đem về, thì cũng phải đưa bà mẹ vào bệnh viện Hồ Giang để chửa trị!


Bà nầy thuộc thành phần trí thức, đã học hỏi và nghiên cứu rất nhiều về Phật pháp. Thường ngày, bà tỏ ra hết sức trầm tĩnh. Thế mà, khi va chạm với thực tế quá đau lòng nầy, bà không thể nào vận dụng nổi những điều đã học trước đây! (Bốn chúng Phật tử thời nay nên đặc biệt lưu ý điều nầy, để biết mình phải làm gì?).


Đó là lý do tại sao, sáu phái ngoại đạo ở Ấn Độ phải hết sức nỗ lực, hạ thủ công phu tĩnh tọa, để đủ sức đối phó khi hữu sự. điều nầy họ có thể làm được.


3.-Niết Bàn tịch tịnh (=Niết Bàn Vắng Lặng) Niết Bàn (NIRVANA) là tiếng phạn. trung Hoa dịch là: Diệt, Bất Sanh Bất Diệt hay Viên Tịch.


-Diệt là chỉ cho tất cả những thứ Tự Ngôn Tự Ngữ (=vọng tưởng tạp niệm) ở trong tâm linh đã bị tiêu diệt sạch hoàn toàn.


-Bất sinh bất diệt là chỉ cho một thế giới chẳng sinh chẳng diệt (Niết Bàn = Vũ Trụ Tri giác), sau khi áp dụng một phương pháp đặc thù nào đó, để thể nhập vào. Thế giới nầy, khác hẳn với thế giới  còn sinh diệt (sinh ra và mất đi).


Muốn tiến vào thế giới chẳng sinh chẳng diệt, nếu dùng Tư (nghĩ ngợi) hay Lự (suy xét) để mong đạt đến cảnh giới Niết Bàn, thì chẳng khác gì “trèo cây bắt cá”! Tam Tổ Tăng Xán đâu không viết hai câu đầu của bài “Tín Tâm Minh” như sau:
“Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”.



Chính vì thế cho nên, chỉ và chỉ có “Thiền Của Phật Giáo” mới có thể giúp cho những ai có ý chí xuất trần “qua được Bờ Bên Kia” thể nhập vào Vũ Trụ Tuyệt Đối hay Ngộ Nhập Phật Tri Kiến mà thôi!


Thế nhưng, vì bởi thời kỳ Mạt pháp, nên tất cả cũng phải chịu ảnh hưởng xấu lây, nên có một số người bám theo ngữ nguyên giải thích “Thiền Của Phật Giáo” là pháp tu “”tĩnh Lự và Tư Duy” chẳng khác với “Thiền Của Ngoại Đạo” là mấy! Tệ hại hơn nữa là nói: “Cốt tủy của Thiền theo lời Phật dạy là cột tâm một chỗ việc gì cũng xong”, nên rồi mạnh ai nấy tu, thành ra loạn tu loạn chứng. Suốt đời cực nhọc vất vả gian nan để tu Thiền, nhưng rốt cuộc rồi lỗ vốn trắng tay.


 Phải biết rằng, nguyên tắc cơ bản của Thiền Tông là “bỏ Lự diệt Tư”, để đi đến chỗ:
“Tà chánh tận đã khước,
Bồ Đề tánh uyễn nhiên”
(Kinh Pháp Bảo Đàn)
(Tà Chánh đều dẹp sạch,
Tính Bồ Đề sáng tỏ).



Bởi vì, Tư và Lự cũng chỉ là vọng niệm. Cho dù chỉ luôn Tư Phật, Tư Pháp, Tư Tăng; chỉ luôn Lự Giới, Lự định, Lự tuệ… đi nữa, thực chất cũng vẫn là thứ “rác rến” trong tâm, che mờ Tánh Giác”. Có thể nói, tâm linh cũng giống như tròng con mắt, không thể chấp nhận bất cứ vật gì trong đó, dù là mạt vàng bụi ngọc cũng làm giảm đi tánh sáng, mất đi sự an lành, cần phải bỏ đi mới được.


Nói tóm lại, từ khi “Thiền Của Phật Giáo” có mặt ở Việt Nam cho đến nay, đã trên 1300 năm rồi. Với khoảng thời gian dài đằng đẳng đó, Thiền Tông Việt Nam đã trải qua những lúc cực thịnh, tỏa sáng và những thời kỳ đen tối suy tàn. Song, Thiền Tông Việt Nam lúc nào cũng vẫn đi theo con đường “Trị Tâm Bệnh” mà Đức Thế Tôn đã đề ra, còn các Tông phái khác, đều là những “ngả rẻ mất dê” mà thôi. Cho dù họ có nói hay, khéo đến nỗi hoa trời rơi đầy đất đi nữa, cũng chỉ là “Hình cái cổng vẽ trên tường” một thứ, trông rất huy hoàng đẹp đẽ, nhưng không có một ai xuyên qua được! (không thể Ngộ Đạo được).


Tu hành theo Phật là để ra khỏi nhà lửa, nếu không “Minh tâm kiến tánh” hay không “thấy Pháp thân”, thì kết quả sẽ ra sao? Do đó, “muốn trị tâm bệnh”, người tu Thiền phải khẳng định một điều là, khi những thứ Tự Ngôn Tự Ngữ (Vọng Tưởng Tạp Niệm) ở trong thâm tâm chúng ta đã dừng bặt hay đã lặng sạch hết rồi, lúc bấy giờ tâm linh ở trong trạng thái Vô niệm, nhà Phật gọi đó là: Ngộ Đạo, Kiến Tánh, Thấy Pháp Thân hoặc nhận ra được cái “bản lai diện mục “ của chính mình…


Cửa ải ngặt nghèo nầy (Ngộ Đạo), nếu vượt qua được, thì cái việc Chứng Đạo và Thành Đạo, chỉ còn tùy thuộc vào thời gian mà thôi. Và để làm cho được cái công việc hết sức quan trọng nầy, hành giả phải có một pháp tu thật tốt như Pháp Giải Thoát, để hạ thủ công phu mới có hy vọng được toại nguyện.


Chú ý: “Diệt vọng tưởng, hiện Chân Như là để Ngộ Nhập Phật Tri Kiến, nếu không có pháp tu tốt, thì chẳng khác gì muốn lên mặt trăng mà không có phi thuyền và hỏa tiễn vậy!


NGHIỆP LỰC


Đức Phật dạy: “Chúng sanh là chủ tạo nghiệp và thừa kế  cái Nghiệp mà mình đã tạo”. Để biết Nghiệp Lực là cái gì và ở đâu, trước tiên chúng ta nên biết chữ Nghiệp được dịch từ chữ Phạn KARMA. Nghiệp có 3 thứ: Nghiệp Thiện, Nghiệp Ác và Nghiệp Vô Ký (không thiện không ác).


Nghiệp Lực là sức mạnh của Nghiệp, các nhà khoa học gọi đó là Năng Lực (Power, Force)… Sức mạnh của Nghiệp chính là động cơ khiến chúng ta dính mắc với sinh tử Luân hồi, khó mà thoát khỏi Tam giới (Dục, Sắc và Vô sắc giới).


Trong kinh thường diễn tả Nghiệp là “cái mà lớn cũng không ngoài, nhỏ cũng không trong”. Nếu nghiệp mà có hình tướng vật chất, một con người từ vô thủy đến nay đã tạo tác ra nghiệp, dầu Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, cũng không đủ chỗ chứa!”. Lời giải thích nầy cũng không có gì cao siêu có hiểu, chỉ cần nghe được ý quên lời.


Thực ra, Nghiệp là Năng Lực có chính, có phụ, nó chi phối chúng ta trong một đời hay nhiều đời về họa phước, thọ yểu, cùng thông, được mất v.v… Để cho dễ hiểu hơn, tôi xin dẫn bài kinh sau đây, để các bạn thấy:


Có người ngoại đạo đến hỏi Phật: 
-Thưa Thế Tôn, cái gì định đặt cho con người, sinh ra kẻ thì nghèo nàn khổ sở, người thì giàu sang sung sướng, kẻ thì sống lâu, người thì chết yểu, kẻ thì yếu đau, người thì khỏe mạnh, kẻ thì ngu tối, người thì thông minh?.
Đức Phật đáp:
-Tất cả sự sai biệt giữa con người và con người là do Nghiệp mà họ đã tạo định đặt ra, nên có kẻ ưu người liệt.
-Do tạo nghiệp gì khiến cho người sống lâu và do tạo nghiệp gì khiến cho người chết yểu?
-Người không tạo nghiệp sát hại chúng sinh, thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sinh, nên thọ mạng yểu.
-Do tạo nghiệp gì mà thân người được khỏe mạnh, và do tạo nghiệp gì mà thân hay đau yếu bệnh tật?
-Do nghiệp ác làm cho người đau khổ, nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu. Và do tạo nghiệp lành như an ủi giúp đỡ người qua khỏi những tai nạn khốn khó nên được thọ thân khỏe mạnh vui tươi.
-Do tạo nghiệp gì mà sinh trong gia đình giàu sang sung sướng và tạo nghiệp gì mà sinh trong gia đình nghèo đói khốn khổ?
-Do đời trước biết tu làm lành, biết bố thí cúng dường, biết giúp đỡ người nghèo đói bệnh tật, nên đời nay được sinh trong cảnh giàu sang sung sướng. Người ở đời trước vì không biết bố thí cúng dường, không biết giúp đỡ người nghèo khó, lại còn tham lam rút rỉa của những người khác, nên đời nay sinh thân trong cảnh nghèo đói thiếu thốn.
-Do nghiệp gì người sinh ra được thông minh sáng suốt, và do nghiệp gì người sinh ra lại ngu dốt tối tăm?
-Người đời trước do siêng năng học hỏi tìm hiểu chân lý, ưa thích giúp người học hỏi hiểu biết nên đời nầy được thông minh. Còn người ở đời trước do lười biếng học, không chịu tìm hiểu chân lý, cản ngăn sự học hỏi của người, nên đời nầy bị tối tăm mê mờ.



Có thể nói sống ở trên thế gian nầy, nếu không hiểu biết gì về Nghiệp, sẽ có rất nhiều thắc mắc đến độ nan giải. Bởi lẽ, nhân quả nhiều đời nhiều kiếp, chồng chất lên nhau mang tính trùng trùng duyên khởi, nên có nhiều kết quả hết sức đa dạng và phức tạp (do nhân sai biệt giữa hình thức và nội dung tạo các quả sai biệt tương đương). Chẳng hạn như nhiều kẻ diện mạo xinh đẹp mà trong lòng độc ác hơn rắn độc, còn người có tướng mạo xấu xí mà giàu có muôn vàn… Dĩ nhiên thực tế nầy khiến cho đa số người chưa thể hội sâu sắc, đầy đủ về Nhân – Duyên – Quả sẽ rất hoài nghi về giáo lý cao cả nầy.


Nhưng ở đây, vấn đề chúng ta đặt ra là để nghiên cứu thảo luận xem coi làm thế nào để có thể chuyển hóa tất cả những cái xấu xa tệ hại của Thân và Tâm do Nghiệp lực tạo ra, để trở nên tốt đẹp một cách nhanh chóng, chứ không cần phải chờ đợi đến kiếp lai sinh mới thay đổi được.


Để làm cho được cái công việc hết sức quan trọng nầy, trước hết các bạn phải tỉnh giác giữ chính niệm, luyện tập làm chủ cho được chính mình, để cho 3 nghiệp (Thân Khẩu Ý) được thanh tịnh (xem lại bài “Tỉnh giác giữ Chính Niệm”). Kế đó, các bạn phải hiểu biết cho thật rõ Nghiệp Lực hay Năng Lực là cái gì hay ở đâu?.


Ở trên có nói, Nghiệp lực không có hình tướng, nhưng không vì thế mà chúng ta không thể không thấy không biết được nó. Ngay lúc các bạn nhắm hai con mắt thịt lại, quan sát bên trong thân (tâm), liền thấy đủ thứ hết, nào là sơn hà đại địa, mặt trời trăng sao, cười nói, nghĩ bậy tưởng bạ, thì thì thầm thầm, rối rối rít rít, tầng tầng lớp lớp đổi dời biến hóa: đó chính là hoặc, là nghiệp, là khổ, và tất cả là do tạp niệm (vọng tưởng) chuyển hóa, tạo tác ra mà thành.


Hoặc + Nghiệp +Khổ tuy ba mà một, tuy một mà tạo thành ba. Chắc hẳn, các bạn thường nghe những người tụng kinh hay tụng câu: “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não” (Nguyện diệt ba chướng trừ phiền não) chứ?. Khi hỏi họ ba chướng là gì? Họ đều rập khung theo kinh điển trả lời: Nghiệp chướng, Báo chướng và Phiền não chướng. Thí như, các bạn hỏi tiếp: “Làm sao để tiêu ba chướng?”, thì họ sẽ chẳng trả lời câu hỏi của các bạn đâu. Tại sao thế? Tại vì, họ đau có biết ba chướng chính là những thứ Tạp niệm (vọng tưởng) ở ngay trong tâm của họ.


Chính vì thế cho nên, nếu các bạn trừ sạch những vọng tưởng (tạp niệm) thì mới có thể tiêu được Nghiệp! Nếu Nghiệp không còn thì Hoặc và Khổ cũng theo đó mà tiêu vong.


Nếu như, Nghiệp Lực là động cơ dẫn dắt chúng ta trôi lăn trong 3 cõi 6 đường, nay đã bị tiêu diệt không còn nữa, thì thử hỏi lấy cái gi để ràng buộc chúng ta trong vòng Luân hồi nữa chứ? Thế là chúng ta được Tự tại và Giải thoát lớn, có phải không nào?.


Tuy nhiên, muốn tiêu diệt sạch hết Nghiệp Lực hay những thứ tạp niệm (vọng tưởng) ở trong Tâm linh, quả thật là một việc làm hết sức khó khăn và không đơn giản chút nào. Có thể nói, từ xưa cho đến nay, đã có vô số người cũng vì vấn đề nầy mà mất ăn mất ngủ hoặc kéo cờ trắng đầu hàng!.


Theo chỗ thấy của tôi, nếu như các bạn tìm ra được nguồn gốc chính của muôn vật (Pháp Thân), là cái nút hay cái khâu trọng yếu nhất, là giải quyết được tất cả mọi vấn đề.


-Nguồn gốc chính tức “Điểm xoay” nầy ở đâu?
Có lẽ các bạn muốn nhanh chóng biết, phải không?



Không khó lắm đâu, các bạn chỉ cần lưu ý một chút là thấy nó ngay. Trong Vũ Trụ, chỗ nào mà ngày cũng như đêm đều xuất hiện bóng dáng đổi thay của muôn vật, đó chính là Điểm xoay của muôn vật (=Chỗ mà tạp niệm khởi lên =cửa ra vào vòng luân hồi).


Như vậy, ngoài cái tâm linh của các bạn ra, sẽ không thể nào tìm thấy chỗ khác được, dù tìm tất cả không gian trong và không gian ngoài của Vũ Trụ.


Tóm lại, chúng ta chỉ cần làm sao để công phu ngay tại điểm xuất phát nầy ở trong tâm, và có cách nào đó để làm cho sạch và làm cho đẹp ở chỗ nguồn gốc nầy, chắc chắn là chúng ta sẽ dễ dàng chuyển hóa tất cả những gì xấu xí của Thân Tâm, để trở thành đẹp đẽ đáng ưa hơn. Nhưng để khỏi mất thời giờ quí báu của các bạn, tôi thành thực mà nói với các bạn rằng, ở vào thời buổi hiện nay chỉ và chỉ có Nhiếp Hóa Pháp hay Giải Thoát Pháp mới có thể giúp cho các bạn được toại nguyện mà thôi. Tin hay không tin đó là việc của các bạn.
---------
Ghi chú:
Dùng Giải Thoát Pháp để tu cần phải lưu ý các điểm sau đây:
1.-Phải nắm bắt cho được pháp tu. Đặc biệt là về mặt kỹ thuật dụng công. Đừng thêm hay bớt những gì ở nơi pháp tu. Mà chỉ nên đúng y theo sự hướng dẫn mà hạ thủ công phu.



2.-Kinh nghiệm cho biết, nhiều người tự học tự tu, không có người hướng dẫn cách thức dụng công, nên ít có người đạt được kết quả tốt. Thậm chí có người đạt được mục đích: Tâm Thể Vô Niệm, mà cũng không hay không biết?


3.-Phải thể hội sâu khắc Quan Niệm về thân xác hay Khu xác quan niệm mà trước đây gọi là Thân chính giác cũng như cách thức đặt câu hỏi để phát khởi Kỳ Tình, mới có thể tiêu diệt được Tạp niệm.


4.-Nếu cần đến sự hướng dẫn hay giải nghi cứ liên hệ với người viết ở số 154/34 Nguyễn Biểu P.2, Q.5 TP>HCM. ĐT: 38366226 (Hẹn trước là tốt nhất).


Thiền sư THÍCH THANH PHƯỚC