27/11/2015

Cực lạc và Niết bàn ngay trong hiện tại

Những người không hiểu Phật pháp thường cho rằng tu theo đạo Phật là hướng đến một thế giới khác, đó là cõi Cực lạc hay Niết-bàn. Do nhận thức sai như thế nên không ít người cho đạo Phật là tiêu cực, bi quan, yếm thế.
Niết-bàn hay cõi Cực lạc là có thật, là mục tiêu hướng đến của người tu Phật, nhưng đó không nhất thiết là một thế giới nào đó ở phương Đông hay phương Tây, không phải là một thế giới mà ở đó có những niềm vui phàm tục như người ta tưởng tượng. Và con người cũng không thể có được Niết-bàn hay cõi Cực lạc khi mà ngay trong đời sống này không có được sự bình an, niềm an vui, hạnh phúc của sự rũ bỏ những phiền não khổ đau.
Phật pháp có thể giúp con người an lạc trong hiện tại (hiện tại lạc trú) để có được Niết-bàn hay Cực lạc ngay trong đời sống này. Khi đoạn tận những phiền não khổ đau (vô minh, tham ái, chấp thủ…) thì Niết-bàn có mặt ngay trong cõi đời này. Mà muốn đoạn tận phiền não khổ đau thì phải ứng dụng Phật pháp. Có thể nói một cách đơn giản, Phật pháp là phương pháp của Phật giúp chúng sinh chấm dứt khổ đau, có được an vui hạnh phúc. An vui và hạnh phúc này khác với an vui, hạnh phúc của thế gian, bởi vì nó không có mầm mống của đau khổ.
Đức Phật và các vị Bồ tát, Duyên giác, Bích-chi, La-hán đều không còn bất cứ phiền não khổ đau nào (đã giải thoát) dù các Ngài sống trong cõi đời ô trược này. Các Ngài luôn ở trong Niết-bàn, Cực lạc. Khi còn tại thế, các Ngài an trú trong Hữu dư y Niết-bàn (Niết-bàn khi còn mang thân ngũ uẩn); sau khi thân hoại mạng chung, các Ngài an trú trong Vô dư y Niết-bàn (Niết-bàn khi thân ngũ uẩn không còn) (Tiểu bộ kinh, kinh Phật thuyết như vậy).
Trong kinh Tạp A-hàm, Đức Phật có nói: “Như Lai tuyên bố rằng: thế gian, nguồn gốc của thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng này”. Và Đức Phật cho biết về đặc tính của cảnh giới Niết-bàn như sau: “Sự tận diệt tham, tận diệt sân, tận diệt si (vô minh), đó gọi là Niết-bàn” (kinh Tạp A hàm), “Niết-bàn là sự đoạn tận tham ái đưa đến tái sinh”, “Niết-bàn là sự tịnh chỉ các hành” (Trường bộ kinh, kinh Đại bổn), “Niết-bàn là giải thoát tham, sân, si” (Trường bộ kinh, kinh Đại bát Niết-bàn)… Niết-bàn không phải là đối tượng của nhận thức hữu ngã, tham ái, chấp thủ. Niết-bàn vượt lên mọi tư duy, ngôn ngữ, khái niệm, bởi đó là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng khi tâm con người thanh tịnh, không còn các phiền não tham, sân, si.
Nếu tu học một thời gian mà tâm tư sầu muộn, mặt mày héo úa, có vẻ buồn bã ủ dột, người khác tiếp xúc cảm thấy nặng nề, không sinh tâm hoan hỷ; thấy ai cũng thấp kém, thấy ai cũng lầm lỗi, chỉ có mình là cao thượng, là chân chính; thấy ai cũng nhiễm ô, chỉ có mình là thanh tịnh; càng tu bản ngã càng lớn, phiền não tham, sân, si càng nhiều; tất cả những biểu hiện đó cho thấy mình đã không thực hành đúng Chính pháp: sai về sự dụng tâm, dụng công, sai về phương pháp tu tập, thực hành Chính pháp, từ đó sự tu tập, thực hành Chính pháp không mang lại an lạc trong hiện tại.
Còn cõi Cực lạc, như kinh A Di Đà có nói rõ: “Chúng sinh ở cõi nước đó không có các nỗi khổ, chỉ thọ những niềm vui”. Cõi Cực lạc là nơi “các bậc thượng thiện nhân câu hội”, ở đó không có kẻ phàm phu tục tử đầy dẫy tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Nên “không thể dùng chút ít thiện căn, nhân duyên phước đức mà được sinh về cõi Cực lạc” mà phải thực hành, tu tập để đạt đến trạng thái “nhất tâm bất loạn” thì mới có thể vãng sinh.
Tuy nhiên, ngay khi đạt được trạng thái “nhất tâm bất loạn”, tâm không còn vọng tưởng điên đảo, không còn phiền não tham, sân, si thì nền tảng của Cực lạc đã có mặt, yếu tố an vui, tịnh lạc của cõi Cực lạc đã có trên cõi đời này, khi ấy Ta-bà chẳng khác gì Cực lạc, và chắc chắn sau khi thân hoại mạng chung sẽ vãng sinh về Cực lạc.
Thực ra cõi Cực lạc cũng là một dạng Niết-bàn, cõi Cực lạc cũng được xây dựng, kiến tạo bởi niềm tin thanh tịnh, hướng thượng (tín), bởi tâm ý hướng thượng (nguyện), bởi công phu tu tập chuyển hóa phiền não khổ đau, thanh tịnh hóa tâm ý (hạnh) bằng pháp môn Tịnh độ (niệm Phật, ăn chay, giữ giới, trau giồi đạo đức, phạm hạnh, bố thí, tu tập tâm từ, bi, hỷ, xả, những chất liệu làm nên cõi Cực lạc), đó cũng là sự tu tập Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ.
Khi thành tựu pháp môn Tịnh độ, không còn các phiền não tham, sân, si, tâm thanh tịnh, an lạc hiện tiền sẽ có được cõi Cực lạc ngay trên cõi đời này, đó chính là những gì mà Đức Phật và các bậc Thánh giải thoát đã nói: “Tâm mình tịnh thì quốc độ tịnh” (Kinh Duy ma), “Khi ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh tịnh” (Trường bộ kinh), “Ba nghiệp thân, khẩu, ý thường thanh tịnh, cùng Phật đến Tây phương Cực lạc”…
Do đó, khi cho rằng thực hành Phật pháp để sau khi từ giã cõi đời này (chết) sẽ được về cõi Phật, cõi Niết-bàn, đó là một suy nghĩ sai lệch. Chúng ta sẽ chẳng có cõi Niết-bàn, Cực lạc nào cả nếu như trong đời sống hiện tại chúng ta không có được bản chất an vui, tịnh lạc của Niết-bàn, Cực lạc; nếu như tâm chúng ta còn vô minh điên đảo, còn đầy dẫy những phiền não tham muốn, giận hờn, ghét ghen, đố kỵ, kiêu căng v.v… Nên thực hành đúng theo Phật pháp thì chắc chắn chúng ta có được Niết-bàn, Cực lạc ngay trong hiện tại, trên cuộc đời này, và sau khi bỏ xác thân này chúng ta vẫn an trú trong Niết-bàn, Cực lạc. Không có chuyện sau một đời sống đầy những phiền não khổ đau là một đời sống an vui hạnh phúc.
Nếu ngay bây giờ chúng ta sống trong khổ não, bất an, sống trong tăm tối của vô minh mê lầm, tâm đầy phiền não cấu uế, thì dù cho cúng bái, tu hành khổ hạnh, tụng đọc trăm ngàn bài kinh, câu kệ, niệm muôn vạn lần câu Phật hiệu, in kinh tạo tượng, bố thí, cúng dường cũng không có được Niết-bàn, Cực lạc sau khi từ giã cõi đời này (tức sau khi chết như một số người thường nghĩ).
Nhưng nếu làm đúng như lời Phật dạy, bố thí, cúng dường, tu tập đúng pháp thì có thể có được Niết-bàn, Cực lạc ngay trong đời này, ngay khi chưa từ bỏ xác thân này, đó là diệu dụng của Phật pháp. Cho nên mới nói “an lạc trong hiện tại” (hiện tại lạc trú) là một trong những đặc tính của Phật pháp.
Cũng là những việc làm: ngồi thiền, niệm Phật, trì chú, đọc tụng kinh điển, lễ bái, cúng dường, bố thí, phóng sinh… nhưng không có Chính kiến, Chính tư duy, Chính niệm thì những việc làm đó chỉ là thế gian pháp, tà pháp chứ không phải là Chính pháp, Phật pháp.
Nếu nghĩ rằng phải tu khổ hạnh, sống kham khổ để Phật thấy mà thương, sau khi chết được Phật rước về Cực lạc; nếu nghĩ rằng phải niệm Phật thật nhiều cũng như kêu Phật mỗi ngày để Phật nghe mà đến giải khổ cho mình, cứu độ mình, tiếp rước mình; nếu nghĩ rằng bỏ ra thật nhiều tiền in kinh, tạo tượng, bố thí, cúng dường để lập công, mong muốn Phật thấy những việc mình làm mà ban an vui hạnh phúc cho mình, giúp mình tai qua nạn khỏi, hoặc đưa mình về cõi Phật, cõi Niết-bàn sau khi chết v.v…; tất cả những suy nghĩ đó đều là mê lầm.
Bản chất của Cực lạc, Niết-bàn là vô lậu, thanh tịnh, không còn phiền não khổ đau, không còn vô minh điên đảo, tham ái, chấp thủ, là an lạc, tịch tịnh… Tất cả những việc tu tập, hành thiện đều nhằm mục đích xả bỏ bản ngã, trừ tâm chấp trước ngã và ngã sở, ta và của ta, xóa đi tâm phân biệt ta và người, đoạn trừ các phiền não tham, sân, si để có được bản chất của Cực lạc, Niết-bàn.
Chính nhờ đặc tính “an lạc hiện tại” (hiện tại lạc trú) mà người tu học xác định được mình có thực hành đúng Chính pháp hay không. Bởi vì trong quá trình học và tu, nếu không thấy an lạc tức là đã thực hành không đúng Chính pháp. An lạc có được của người thực hành đúng theo Chính pháp không giống với những niềm vui thế tục, nó vi diệu hơn, thù thắng hơn, và đặc biệt là không có chứa mầm mống của thất vọng, khổ đau, não phiền. An lạc có được của người thực hành đúng theo Chính pháp là tâm bình an, pháp hỷ, thiền duyệt, tịnh lạc.
Nếu sự tu hành buồn bã, tẻ nhạt, vô vị thì đã không có nhiều người tu. Các bậc vương giả, các nhà hào phú, chẳng ai dại gì từ bỏ đời sống giàu sang nhung lụa, quyền uy danh vọng để đi tu. Ngày nay cũng không ít người hướng về Phật pháp vốn xuất thân từ gia đình giàu có; không ít người thành đạt trong xã hội, có địa vị, quyền thế, có sự nghiệp lớn; không ít người vốn thuộc hàng danh gia vọng tộc, thuộc tầng lớp trí thức, là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn hóa, là bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học… Chính vì họ tìm thấy được niềm an lạc trong Chính pháp vượt xa hạnh phúc thế gian mà họ đem cả cuộc đời mình hướng về Chính pháp.


26/11/2015

Nên sử dụng cân bằng mỡ động vật và dầu thực vật trong chế biên thực phẩm

Không dùng mỡ động vật: Thói quen sai lầm và nguy hại

Hiện nay, không ít các gia đình ở thành thị chủ yếu dùng dầu ăn từ thực vật thay vì dùng mỡ động vật. Tuy nhiên, theo bác sĩ (BS) Hoàng Sầm – Viện trưởng Viện Y học Bản địa Việt Nam, việc không ăn mỡ động vật sẽ rất nguy hại.

“Không ăn mỡ động vật nguy hại vì không cân đối về mặt dinh dưỡng. Vì dầu thực vật không cấu tạo nên vỏ thần kinh được.

Bao myeline cấu tạo nên các tế bào thần kinh, các vỏ bọc của dây thần kinh. Nếu thiếu cái đó sẽ khiếm khuyết về mặt thần kinh, đặc biệt là mắt” – BS Sầm cho biết.

Có lẽ đó là lý do lý giải vì sao những người sinh ra ở miền núi, không hề được tiếp xúc với dầu thực vật, chỉ ăn mỡ lợn, bò, trâu, dê nhưng không ai bị cận thị. Thậm chí, có nhiều cụ già đã ngoài 90 tuổi vẫn xâu kim không kính.

Có thể từ nhỏ cụ già 90 tuổi ấy đã được ăn 1 lượng đủ cholesterol, Sphingosine (2-amino-4-octadecene-1,3-diol) từ mỡ động vật để đủ tạo ra 1 lượng sphingomyelin cấu tạo nên lớp vỏ myeline thần kinh đáy mắt.

Mỡ động vật tốt cho sức khỏe đã được các tài liệu khoa học chứng minh cụ thể.

BS Hoàng Sầm dẫn chứng, trong sách bách khoa thư bệnh học tập 2, nhà xuất bản từ điển bách khoa, bài “Thực Y” trang 418, cố giáo sư y thực Lê Minh đã viết: “Mỡ thực vật và mỡ động vật nên cùng có trong khẩu phần. Tỉ số mỡ động vật và mỡ thực vật nên là 1/1,5”.

Bác sĩ này cũng lưu ý, giai đoạn kiến tạo cơ thể của trẻ thì trẻ con nên ăn mỡ động vật là chính, tỉ số mỡ động vật/mỡ thực vật = 70/30.

Sau 35 tuổi trở lên, giai đoạn cơ thể đã trưởng thành tới lúc trung niên, tỉ số mỡ động vật/mỡ thực vật = 50/50. Trên 60 tuổi, giai đoạn người có tuổi, cao tuổi, tỉ số mỡ động vật/mỡ thực vật = 30/70.

“Dầu ăn và mỡ động vật, mỗi cái có ưu, nhược điểm khác nhau, chẳng cái nào hơn cái nào, tùy thuộc từng lứa tuổi, từng giai đoạn” – BS Sầm nhấn mạnh.

 BS. Lê Thị Hải, Giám đốc trung tâm tư vấn dinh dưỡng: Trẻ con càng cần phải ăn mỡ động vật, thay vì chỉ dùng dầu ăn.

Đồng tình với quan điểm trên, BS Lê Thị Hải, Giám đốc Trung tâm tư vấn dinh dưỡng - Viện Dinh dưỡng Quốc gia khẳng định, nếu các gia đình hiện đại thời nay chỉ dùng dầu ăn mà không dùng mỡ động vật là một quyết định sai lầm.

“Thói quen này không tốt, có thể nói là sai lầm. Người lớn ngoài 50 tuổi trở ra bị rối loạn chuyển hóa chất béo như tăng cholesterol thì mới phải kiêng ăn mỡ. Còn trẻ em càng cần phải ăn mỡ” – BS Hải nói.

Hiện nay, nhiều công ty sản xuất dầu ăn tung ra các quảng cáo cảnh báo khiến người dân ngộ nhận rằng, ăn mỡ động vật gây béo phì còn dầu ăn thì đầy đủ dưỡng chất, tốt cho sức khỏe.

Nhưng theo BS Hải, điều này chỉ đúng với các người già, người trưởng thành, còn trẻ em lại ngược lại.

“Trẻ dưới 1 tuổi phải ăn 70% mỡ. Đối với người trưởng thành, khi nào bị cholesterol máu thì mới phải kiêng ăn mỡ chứ bình thường không phải kiêng”, bà nhấn mạnh.

Việc người dân thành thị nhiều năm ròng đều “nói không” với mỡ động vật, theo BS Hải, nguyên nhân là do tuyên truyền của chúng ta đến cộng đồng không đúng, chưa đầy đủ và cặn kẽ, dẫn tới việc hiểu sai lệch và vận dụng vào chế độ ăn uống không tốt.

Không biết cách sử dụng, dầu ăn có thể gây ung thư

Theo BS.Hải, trong bữa ăn hàng ngày, dầu chỉ nên dùng để trộn salat hoặc nấu những món ăn không cần nhiệt độ cao. Còn nếu chiên, rán ở nhiệt độ cao thì dầu ăn lại có nhiều tác hại.

Bởi dầu ở nhiệt độ cao chuyển hóa thành chất trans fat, oxy hóa rất độc hại gây nhiều bệnh, trong đó có cả ung thư, ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe.

Trong khi đó, mỡ động vật xào rán ở nhiệt độ cao ít bị biến đổi chất độc hại như dầu ăn.

PGS.TS. Nguyễn Duy Thịnh (Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm) cũng cho biết, thông tin về các loại dầu ăn như dầu hướng dương, dầu đậu nành không tốt sức khỏe, gây ung thư là vừa đúng vừa sai.

Bởi dầu ăn khi chiên rán ở nhiệt độ cao thì mới tạo ra chất độc hại vì dầu sôi ở nhiệt độ cao thì sẽ gây ra biến đổi chất.

“Tôi khuyên người dân khi chiên rán nên dùng mỡ động vật là chất béo chứa hợp chất axit béo không no, ít biến đổi thì sẽ ít tạo thành các chất gây ung thư hơn so với dầu ăn.

Đồng thời, nên hạn chế ăn đồ chiên rán, nếu thích ăn thì nên chiên rán non thôi, không nên rán thật kỹ, thật giòn” – ông Thịnh bày tỏ.

PGS.TS Thịnh khuyên người dân khi chiên rán nên dùng mỡ động vật, vì ít tạo thành các chất gây ung thư hơn so với dầu ăn.

PGS.TS Thịnh khuyên người dân khi chiên rán nên dùng mỡ động vật, vì ít tạo thành các chất gây ung thư hơn so với dầu ăn.

Còn chuyên gia dinh dưỡng Lê Thị Hải thì khuyên, trong gia đình, nên có cả dầu ăn và mỡ. Dầu chỉ dùng để trộn salat, phục vụ cho món xào còn chiên, rán ở nhiệt độ cao nên dùng mỡ.

“Nhà tôi ăn cả 2, cả dầu, cả mỡ nhưng rất ít. Ai cũng sợ béo nên chủ yếu chỉ luộc, hấp thôi, chứ hạn chế chiên, xào, rán” – BS Hải chia sẻ.

Thêm vào đó, bác sĩ này cho biết, không riêng gì mỡ động vật mà đối với dầu thực vật, nếu ăn nhiều cũng gây nguy cơ béo phì.

Dầu thực vật chứa nhiều acid béo chưa no (chưa bão hoà) và không có cholesterol (ngoại trừ dầu dừa, dầu cọ, dầu ca cao). Mỡ động vật chứa nhiều acid béo no (bão hoà), có khả năng tạo ra cholesterol (trừ mỡ cá thu, cá hồi, cá trích... chứa nhiều omega3 và omega6).

Vì vậy, BS Hải cho hay, nếu không ăn mỡ động vật có thể gây thiếu cholesterol, trong nhiều trường hợp có thể làm thành mạch máu bị mủn, vỡ gây tai biến, đột quỵ cũng giống tăng cholesterol.

Bà nhấn mạnh, cholesterol là thành phần tổng hợp nội tiết tố sinh dục nam. Thiếu cholesterol nhất là đối với trẻ em sẽ không tốt. Ví dụ, tổng hợp Vitamin D3 nội sinh dưới tác dụng ánh nắng mặt trời, phải có cholesterol.

“Nói chung, chúng ta phải ăn cân bằng. Tùy từng lứa tuổi, tỷ lệ dầu – mỡ sẽ khác nhau. Ở người trưởng thành nên ăn 50 – 50 trừ trường hợp có bệnh phải kiêng dầu – mỡ. Trẻ con thì cần mỡ còn người lớn thì ít cần hơn” – BS Hải kết luận.

 Theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh tim mạch, ung thư và tai biến mạch máu não là ba nhóm bệnh đứng hàng đầu gây tử vong cho con người. Nếu chỉ dùng dầu thực vật mà không sử dụng mỡ động vật thì các tác dụng tốt này của mỡ đối với cơ thể chúng ta sẽ bị suy giảm,nên sẽ có hại cho sức khoẻ của chính bản thân chúng ta.

Công dụng của Gừng

Dân gian có câu “buổi sáng ba miếng gừng, hơn là uống canh sâm” hoặc là “mỗi ngày ba miếng gừng, không phiền bác sĩ kê đơn thuốc”.

Dưới đây mình giới thiệu về 24 công dụng kỳ diệu của gừng:

Lở loét miệng

Dùng nước gừng nóng súc miệng thay trà, mỗi ngày từ 2 đến 3 lần. Thông thường 6 đến 9 lần là hết lở loét.

Đau răng do viêm nha chu gây ra

Dùng nước gừng nóng súc miệng thay nước trà, sáng tối một lần. Hoặc có thể cắn miếng gừng tại chỗ đau răng, có thể làm giảm cơn đau.

Đau nửa đầu

Khi bị đau nửa đầu, có thể dùng nước gừng nóng để ngâm hai tay khoảng 15 phút. Cảm giác đau sẽ giảm nhẹ hoặc biến mất.

Giải rượu

Dùng nước gừng nóng cộng thêm lượng mật ong thích hợp có thể giảm bớt hoặc loại bỏ say rượu.

Đầu có gàu

Trước tiên là dùng gừng tươi chà rửa tóc, sau đó dùng nước gừng nóng gội đầu, sẽ giúp ngăn ngừa và trị gầu.

Đau lưng dưới bả vai

Cho một ít muối và chút giấm vào trong nước gừng nóng, sau đó dùng khăn thấm nước, rồi đắp vào chỗ đau, làm đi làm lại nhiều lần, có thể làm giảm cơn đau.

Bệnh giun sán

Mỗi ngày trước khi đi ngủ dùng nước gừng nóng rửa sạch vùng bụng, rồi uống một đến hai ly nước gừng nóng, duy trì trong khoảng 10 ngày là trị giun sán.

Chữa hôi chân

Ngâm chân vào trong nước gừng nóng, lúc ngâm cho thêm chút muối và giấm. Ngâm khoảng 15 phút thì lau khô, xoa thêm một ít phấn hoạt thạch, mùi thối sẽ biến mất.

Cao huyết áp

Lúc huyết áp tăng cao, có thể dùng nước gừng nóng ngâm chân khoảng 15 phút. Do tính phản xạ làm giãn huyết mạch, làm huyết áp giảm xuống.

Đau đầu cảm lạnh

Ngâm hai chân vào trong nước gừng nóng ngập đến mắt cá chân là được. Có thể cho thêm muối, giấm và ngâm đến khi mu bàn chân đỏ lên. Cách này rất có công hiệu điều trị cảm lạnh phong hàn, đau đầu, ho. Ngoài ra, có thể cắt sợi gừng tươi, cho thêm đường đỏ nấu canh. Uống khi vẫn còn nóng rồi đắp chăn cho đổ mồ hôi, cảm lạnh sẽ nhanh chóng được trị khỏi.

Nổi mày đay

Cháo gừng tươi quế chi: 10 miếng gừng tươi, 3g quế chi (dạng bột), 50g gạo cứng, 30g đường đỏ, nấu thành cháo lỏng, ăn 1 đến 2 lần mỗi ngày.

Cổ họng sưng đau

Cho một chút muối ăn vào trong nước gừng nóng, uống như uống trà.

Đau xương khớp

Ăn lượng gừng tươi hoặc dùng nước gừng chà vào chỗ đau, có thể cải thiện hoạt động của xương khớp, cơn đau giảm nhẹ rõ rệt, giảm bớt triệu chứng sưng tấy và tê cứng.

Đau bụng kinh

Bỏ 2 đến 3 hạt sơn trà vào trong nước gừng nấu đường đỏ, một ngày uống 2-3 lần là khỏi.

Tay chân nổi mụn nhọt nhưng chưa lở loét

Có thể dùng gừng tươi nấu nước ngâm tay, ngâm chân. Đối với da dễ bị nổi mụn nhọt, nếu dùng nước gừng bôi liên tục nhiều lần, có thể làm tăng khả năng kháng hàn, từ đó chống được nổi mụn nhọt.

Nổi rôm

Dùng gừng cắt lát đắp bên ngoài, rôm sẽ nhanh chóng biến mất, người lớn trẻ nhỏ đều khả dụng.

Nhiều gàu, rụng tóc

Thường xuyên gội đầu bằng nước gừng ấm, hiệu quả rất tốt, rất đáng thử.

Mùi hôi cơ thể

Mỗi ngày dùng gừng lát chà nhiều lần, có thể giảm bớt mùi hôi rõ rệt.

Gừng trị vết thương ngoài chảy máu

Lấy gừng nướng cháy nghiền thành bột, sau khi khử trùng vết thương, rắc lên vết thương, có thể có thể làm giảm đau và cầm máu ngay lập tức.

Vết thương rắn cắn

Dùng bột gừng đắp ngoài vết rắn cắn.

Say xe

Uống một ít nước gừng trước khi lên xe, hoặc cắt một miếng gừng dán vào phía trong cổ tay tại vị trí cách đường kẻ sọc cổ tay khoảng 2 phân, dùng khăn bọc lại. Cũng có thể ngậm vài lát gừng trong lúc đang ngồi xe, sẽ giúp hạn chế được say xe nôn ói.

Buồn nôn ói mửa

Lúc dọn rửa vật dơ bẩn cảm thấy buồn nôn muốn ói, trước lúc làm nên ngậm một lát gừng là tránh được.

Bị ngất do hạ đường huyết hoặc say nắng

Có thể dùng bột gừng hoặc nước đường với gừng để uống, sẽ có tác dụng giải cứu.

Ho

Dùng 15g gừng tươi nấu nước, cho thêm đường trắng đủ ngọt rồi uống khi còn nóng để trị viêm ho. Ngoài ra, dùng 30g gừng tươi nấu nước, tắm cho trẻ em, có thể trị bệnh ho cho trẻ.

Cố mà sửa thôi


01. Sửa tật nói năng bạt mạng. Nên ăn nói từ tốn, nhã nhặn.


02. Người ta nhắn tin nhất định phải trả lời, dù không muốn nói chuyện hay không biết nói gì cũng nên dùng biểu tượng hay dấu câu để diễn đạt khéo léo. Không trả lời tin nhắn không phải là cao giá lạnh lùng, mà là thiếu văn hóa.

03. Đừng vội vàng “trông mặt mà bắt hình dong”.

04. Dùng ‘cảm ơn bạn’ thay cho 'cảm ơn’. Chỉ khác 1 chữ nhưng thành khẩn hơn rất rất nhiều.
05. Đừng nói bí mật cho gió, gió sẽ thổi nó đi khắp cánh rừng.

06. Những lời không nói được trước mặt người ta, thì cũng đừng nói sau lưng họ.

07. Một cô gái luôn cười tươi vui vẻ lúc nào cũng đáng yêu hơn một cô gái mặt như đưa đám cả ngày.

08. Chưa được họ cho phép thì đừng tự ý xem điện thoại của họ.

09. Một cô gái được các chàng trai yêu thích cũng chẳng nói lên được điều gì, nhưng một cô gái được rất nhiều bạn gái khen ngợi thì thật sự lợi hại.

10. Khi người khác ngủ thì biết im lặng.

11. Có chuyện gì thì phải nói ra, đừng chờ người ta tự hiểu, vì người ta không phải là bạn, không biết bạn nghĩ gì. Càng chờ sẽ càng thất vọng, đau lòng mà thôi, nhất là trong chuyện tình cảm.

12. Quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, đừng nghĩ đến chuyện dựa dẫm hay lợi dụng bất cứ kẻ nào.

13. Khi người ta hỏi bạn “làm sao thế” thì đại đa số chỉ vì thỏa mãn sự hiếu kỳ, không phải muốn giúp đỡ bạn đâu.

14. Khi người khác nói họ thích gì đó, hy vọng bạn đừng phản bác, vì chúng tôi đều thật lòng thích điều chúng tôi nói đến, nhưng bạn lại nói điều đó không tốt thế nào, xấu xí thế nào… sự thẳng thắn đó của bạn, là sự ích kỷ.

15. Đừng nói đùa quá đà với người không quen, mà kể cả quen thân cũng không nên.

16. Trước mặt người bạn ghét, đừng tỏ ra mình ghét họ, cũng đừng nói xấu họ với những người quen của họ.

17. Nói thế nào nhỉ, phá vỡ sự hào hứng, vui vẻ của người khác là hành động rất mất lịch sự.

18. Không phải ai cũng thích đùa.

19. Có nhiều người thích giả ngu, nhưng đừng vì thế mà nghĩ họ ngu thật.

20. Từ chối cũng phải kiên quyết. Chuyện gì cũng cần bày tỏ rõ ràng quan điểm.

21. Hãy cư xử lịch sự với các nhân viên ngành dịch vụ.

22. Người ta có thể tự giễu bản thân nhưng bạn tuyệt đối đừng phụ họa.

23. Nghe nhiều nói ít.

24. Dù là bạn bè thân thiết, cũng đừng luôn trêu chọc sự béo phì hay xấu xí của người khác.

25. Đừng có gặp ai cũng kể khổ, trên đời này có rất ít người biết thông cảm cho người khác, đa phần chỉ nghe như chuyện cười rồi lan truyền khắp nơi, đa phần chỉ nghe một chút là chán ốm rồi.

25/11/2015

Trần bì - vị thuốc hay.

   Mùa quýt đã đến, đọc sách thuốc Đông - Nam - Bắc y thấy có đề cập nhiều đến tác dụng của vỏ quýt - Trần bì  (được phơi hay sấy khô để càng lâu năm càng tốt)- nên biên ra đây để mọi người tham khảo, rất hữu ích.
   Trần bì là vị thuốc thường được dùng nhất, đặc biệt là đối với nam giới nên có câu:
"Nam bất ngoại trần bì
Nữ bất ly hương phụ".
   Thông tin khác mang tinh học thuật - do không biết nên không tiện trưng ở đây, mọi người có thể nhờ pác Gúc giúp nhé; tôi chỉ đăng các thông tin đã được kiểm chứng để nhằm thuyết phục mà thôi:
+ Tác dụng đối với cơ trơn của dạ dày và ruột:
Tinh dầu của Trần bì có tác dụng kích thích nhẹ đối với đường tiêu hóa giúp cho ruột bài khí tích trệ ra ngoài dễ dàng, tăng tiết dịch vị có lợi cho tiêu hóa, có tác dụng làm giãn cơ trơn dạ dày và ruột. Do phế vị khí trướng mà gây tức ngực, vùng ngực trướng mãn, cồn ruột, nôn oẹ... có thể dùng trần bì với chỉ xác, bán hạ, tô ngạnh (cành tía tô), tô tử... Trần bì có tác dụng trừ vị nhiệt (tưa lưỡi vàng, hay ăn đồ lạnh, mạch sác) có thể thêm hoàng cầm, xuyên đông tử; còn có tác dụng với vị hàn (tưa lưỡi trắng, thích chườm ấm, mạch trì) thêm ô dược, lương khương, có tác dụng với trung tiêu thấp nhiệt (tưa lưỡi trắng dày mà nề, không hay uống nước, mạch tượng hoạt) có thể thêm phục linh, thương truật...
+ Tác dụng khu đàm bình suyễn: thuốc kích thích niêm mạc đường hô hấp làm tăng dịch tiết, làm loãng đàm dễ khạc ra. Xuyên trần bì làm giãn phế quản hạ cơn hen. Dịch cồn chiết xuất Quất bì với nồng độ 0,02g ( thuốc sống)/ml hoàn toàn ngăn chận được cơn co thắt phế quản chuột lang do histamin gây nên. Với trung tiêu thấp nhiệt đờm thương phạm hoặc ngoại cảm phong hàn, dẫn tới phế khí bất lợi mà sinh ho, nhiều đờm, ngực tức, không muốn ăn, lưỡi tưa trắng nề, mạch hoạt thường dùng trần bì với bán hạ, phục linh, tô tử, hạnh nhân, hạt cải sao, kim phật thảo (toàn phúc hoa thời trước gọi là kim phật thảo, gần đây hoa của nó gọi là toàn phúc hoa, toàn cây gọi là kim phật thảo), tiền hồ... ngoại cảm chứng rõ rệt có thể thêm kinh giới, cát cánh, ma hoàng.
+ Kháng viêm, chống lóet: Thành phần humulene và anpha humulenol acetat có tác dụng như vitamin P. Chích Humulene vào ổ bụng chuột nhắt với liều 170 -25mg/kg có tác dụng làm giảm tính thẩm thấu của mạch máu do Lecithin dung huyết làm tăng. Chích 10mg Humulene vào ổ bụng một con chuột nhắt cũng có tác dụng kháng histamin, gây tăng tính thẩm thấu của thành mạch. Anpha humulenol acetate có tác dụng chống lóet rõ và làm giảm tiết dịch vị trên mô hình gây lóet dạ dày bằng cách thắt môn vị.
+ Tác dụng đối với hệ tim mạch: Nước sắc Trần bì tươi và dịch chiết cồn với liều lượng bình thường có tác dụng hưng phấn tim, liều lượng lớn có tác dụng ức chế, nếu chích thuốc nhanh vào tĩnh mạch thỏ và chó, huyết áp tăng cao, nhưng bơm vào dạ dày thì không có tác dụng đó.
+ Tác dụng kháng khuẩn: Quảng trần bì trong ống nghiệm, có tác dụng ức chế sinh trưởng của tụ cầu khuẩn, trực khuẩn dung huyết, ái huyết.
+ Những tác dụng khác: Trần bì còn có tác dụng chống dị ứng, lợi mật, ức chế cơ trơn của tử cung. Điều khí khai vị: Với trung tiêu khí trệ, ăn uống không ngon, phối hợp với mạch nha, cốc nha, khấu y, thần khúc, sơn tra... có tác dụng thúc đẩy ăn uống.
Khi dùng đảng sâm, hoàng kỳ, bạch truật, sơn dược, thục địa, sinh địa... để làm thuốc bổ, nếu phối hợp với một ít trần bì thì tránh xảy ra tức ngực, trung mãn, ăn uống không ngon và các tác dụng phụ khác... nó còn phát huy đầy đủ tác dụng bổ của thuốc.
Trong Bản thảo bị yếu có ghi trần bì "tân năng tán, khổ năng táo năng tả, ôn năng bổ năng hoà" nghĩa là dùng với thuốc bổ thì bổ, dùng với thuốc tả thì tả, dùng với thuốc thăng thì thăng, với thuốc giáng thì giáng. Vì thế nó là thứ thuốc trị phế khí phần, điều trung khoái cách, đạo trệ tiêu đờm, lợi thủy phá ứ, tuyên thông ngũ tạng đủ để ta thấy tác dụng của trần bì.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị chứng nôn do hàn: tiêu chảy thường.
 Quất bì thang: Quất bì 12g, Sinh khương 8g: sắc uống.
Bình vị tán ( Hòa tễ cục phương): Trần bì, Cam thảo, Thương truật, Hậu phác lượng bằng nhau tán bột mịn trộn đều, mỗi lần uống 4 - 6g, ngày uống 2 - 3 lần hoặc làm thuốc thang uống trị ỉa chảy.
Dị công tán ( Tiểu nhi dược chứng trục quyết): Đảng sâm 8g, Bạch truật 8g, Bạch linh 8g, Chích thảo 4g, Trần bì 4g: sắc nước uống hoặc làm thuốc hoàn, tán dùng trị: rối loạn tiêu hóa, trẻ suy dinh dưỡng.
Thông tả yếu phương ( Cảnh nhạc toàn thư): Bạch truật ( thổ sao) 12g, Phòng phong (sao) 8g, Bạch thược (sao) 8g, Trần bì (sao) 6g. Theo tỷ lệ này làm thuốc hoàn, tán mỗi lần uống 4 - 6g, ngày 2 -3 lần, hoặc làm thuốc thang uống. Trị chứng tiêu chảy thường có kèm sôi bụng và đau bụng.
2.Trị chứng ho có đờm ( do cảm hàn):
Nhị trần thang ( Hòa tễ cục phương): Bạch linh 12g, Trần bì 6g, Khương bán hạ 6g, Cam thảo 4g, Gừng tươi 2 lát sắc uống.
Trần bì 6g, Cát cánh 6g, Tô diệp 6g, Cam thảo 4g: sắc nước uống trị ho viêm họng, viêm phế quản nhẹ.
Trần bì 12g, sắc với 200ml nước còn 100ml thêm đường đủ ngọt, chia uống nhiều lần trong ngày. Trị ho mất tiếng.
3.Trị viêm tuyến vú cấp: Hàn Thiệu Minh dùng mỗi ngày Trần bì 30g, Cam thảo 6g: sắc uống trị 88 ca, kết quả khỏi 85 ca ( Tạp chí Ngoại khoa Trung hoa 1959, 4:326).
4.Trị viêm phế quản mạn ho nhiều đờm: Trần lượng Hoa dùng Trần bì 6g, Bán hạ 6g, Bạch linh 10g, Đương quy 20g, Cam thảo 6g, Gừng 3 lát, tùy chứng gia giảm trị 33 ca kết quả tốt 17 ca, đỡ nhiều 14 ca, không kết quả 2 ca (tạp chí Trung y Triết giang 1985, 1:18).
5.Trị bỏng: Vỏ Quít thái nhỏ ( dùng vỏ quít tươi) cho vào lọ đậy kín để nát thành nước hoặc hồ bôi vào chỗ bỏng mỗi ngày nhiều lần trị 40 ca bỏng vật lý độ 1, 2. Thuốc có tác dụng tiêu viêm, giảm đau, làm săn da ( Tạp chí Xích cước y sinh 1975, 4:11).
Liều dùng và chú ý:
Uống: cho vào thuốc thang 3 -9g.
Dùng thận trọng đối với các trường hợp sau: thực nhiệt, khí hư, âm hư, ho khan, thổ huyết. Trần bì uống nhiều, dùng lâu có hại đến nguyên khí, cần chú ý. Trong đông y, được dùng nhiều trong các chứng bệnh thuộc về Phế và Tỳ.

24/11/2015

Luận về Nhậu

Bài của Phạm Lưu Vũ, thợ văn kiêm thợ thầu khoán. Xin trân trọng giới thiệu.
*** 

Cái chõng tre (hoặc cái bàn mộc cũ kĩ) giữa lòng Hà nội, trên đó bày mấy lọ kẹo lạc, kẹo vừng, chai rượi trắng, chiếc điếu cày, ống đóm, ngọn đèn dầu… và một cái ủ tích lúc nào cũng sẵn sàng rót ra những cốc nước trà đặc quánh, nghi ngút hương thơm. Tất nhiên không thể thiếu chiếc ghế băng cũ kĩ, đã lên nước nâu bóng nằm hờ hững phía bên ngoài, dăm chiếc ghế nhựa oắt con, cơ động mà kích thước và sức chịu lực được tính toán vừa đủ với kích cỡ và trọng lượng của giống người mũi tẹt, da vàng… Đấy là vật.
Còn người thì bên trong cái chõng (hoặc cái bàn) cổ kính ấy, thế nào cũng có hoặc một ông già, hoặc một bà lão răn reo phúc hậu, sẵn sàng lặng thinh trước thời cuộc mà cũng sẵn sàng góp vào đôi ba câu chuyện… Khỏi nói thì ai cũng biết đó là một trong vô vàn quán nước trà ở Thủ đô. Và gần đấy, thế nào cũng có một hàng phở, hàng bánh cuốn hay bún ốc, bún riêu gì đó, đại loại là một hàng quà sáng…
Sở dĩ có sự “cộng sinh” muôn đời ấy giữa “ăn” và “uống” bởi quán ăn ở Hà thành thường chỉ phục vụ ăn với lau mồm qua loa bằng những mảnh giấy đủ màu trắng đục, xanh, vàng, tím… (không thể trắng tinh bởi chúng được tái chế bằng giấy loại), cắt vuông vắn mỗi chiều năm xăng ti mét. Còn súc miệng xỉa răng ư? Xin mời bước đi chỗ khác. Người Thủ đô vốn thong thả, đường hoàng, súng bắn đến đít cũng không việc gì phải vội. Còn gì lý tưởng hơn là sáng nào điểm tâm xong cũng lê đến gọi một cốc trà nghi ngút ấy, ngắm phố phường mà thả ra mấy câu chuyện gẫu, lạ quen gì thì cũng sẵn sàng góp mỗi người vài câu, từ chuyện thế sự trên trời đến chuyện bóng đá, chuyện yêu đương, ngoại tình… Nhất là chuyện ăn cắp, ăn trộm của thiên hạ thì có mà “bàn” đến cả trăm năm cũng không hết. Thế rồi hờ hững ngó đồng hồ, thế rồi uể oải đứng lên… thế rồi lừ lừ trôi đến cơ quan có khi lại bắt đầu một câu chuyện gẫu khác…
Cách Thủ đô một ngàn rưởi cây số về phía Nam là Sài gòn thì bói không ra một quán nước trà như thế. Thay vào đó là nhan nhản quán cà phê.
Những nơi này với ưu thế đèn mờ, tranh tối tranh sáng lại có âm nhạc xập xình dậm dựt, được sinh ra chủ yếu để phục vụ các cặp tình nhân, hoặc là nơi thả hồn của các thi sĩ giữa lúc nghĩ hai bài thơ không đầu không cuối, không để làm gì, hoặc có khi là nơi định thần, âm u tưởng tượng của những nhà văn đang bị khủng hoảng (thừa) các đề tài ca ngợi, yêu đương, hay thất tình tay ba tay bốn… đến nỗi không thèm viết thì thôi, cứ động viết ra là y như chữ nào, chữ nấy cứ… rối rít cả lên. Ngoài những công dụng cực kì nhân sinh, tràn trề lãng mạn như thế, các quán cà phê kiểu ấy còn là một chốn lý tưởng để cho những hạng con buôn hẹn hò, chụm đầu bàn bạc những áp phe không thể nào minh bạch…
Sài gòn không cần sự “cộng sinh” giữa “ăn” và “uống” như Thủ đô ngàn năm văn vật, bởi các quán ăn sáng phục vụ luôn việc súc miệng, xỉa răng với cả lau mồm. Cũng vẫn cuộn giấy (…) xinh xắn, mềm mại và tròn xoe mua ở chợ hay siêu thị ấy thôi, nhưng dùng để chùi mồm thì nó được đựng trong những chiếc hộp nhựa dựng đứng, khách cứ việc thò ngón tay rút từ giữa lõi ra cho có vẻ ngược lại với quy trình diễn ra trong nhà vệ sinh. Đừng có dại mà liên tưởng, kẻo lại bảo là ghê mồm(!). Người Sài gòn vốn có tác phong công nghiệp, biết thời gian là vàng ngọc nên phải tranh thủ thời gian. Khách ăn xong làm thủ tục vệ sinh mồm mép cho nhanh rồi hối hả đến sở làm. Rất hiếm một câu chuyện gẫu diễn ra trong cái chốn sì soạp húp, chan, đỏ mặt tía tai, cắm đầu cắm cổ ấy… Nhu cầu tán gẫu nếu có thì dành đến chiều tối, lúc hết giờ làm việc. Bấy giờ là thời điểm của nhậu! Phố phường ê hề quán nhậu, cả một thế gian nhậu. Nhậu hoành tráng, nhậu mênh mông, nhậu “mát trời ông Địa”.
Nhưng đã nói đến “nhậu” thì chẳng cứ Sài gòn. Hà thành và… cả nước bây giờ, đâu đâu cũng thế. Từ đây trở xuống xin chỉ bàn về nhậu mà thôi.
Phải gọi đây là cả một nền văn hoá nhậu mới xứng. Một nền văn hoá phát triển cao tới mức làm con người ta lúc chưa ra quán thì nhớ nhau như những cặp tình nhân, ra đến quán rồi thì kiên cường bên nhau như một đám biểu tình ngồi. Thật là ồn ã, náo nhiệt, tưng bừng bằng mấy chục cái chợ nhà quê…
Nghĩ kể cũng lạ. ở những chốn “fẹs-ti-van” nhậu ấy, thức nhắm nào có ra gì. Nhưng các biển hiệu thì bao giờ cũng được vẽ to tổ bố, nom vừa sinh động, vừa hấp dẫn như thật. Từ đặc sản dái dê, vú dê, rồi “phụ tùng” (có nơi gọi là súng đạn) bò đực, (không thấy “cái ấy” của bò cái) đến mu ba ba, trôn ốc nhồi… cùng với đủ các kiểu danh xưng đại ngôn, láo toét. Nào là nướng cả phố (phố nướng), nào là nướng cả làng (làng nướng), có khi nướng ráo cả… tổ tông (tổ nướng)… Thực đơn trình bày đến mấy trang ép ni lông lòe loẹt… Song cái sự ngon lành thì hầu hết đều… dở hơi như nhau. Thực khách dễ tính đến không ngờ, bởi nơi đây hấp dẫn chủ yếu là cái không khí chứ có phải vì món ăn đâu. Người ta sở dĩ kéo đến không phải vì nhu cầu thưởng thức mà vì nhu cầu xả. Có bao nhiêu thứ cần xả. Từ xả sì-trét (căng thẳng), xả xui (vận rủi), xả buồn… đến xả bớt một phần cái kiếp người vốn (hình như) chưa bao giờ vô nghĩa lý như cái thời buổi văn minh nhốn nháo này…
Cần phải nói rằng nền “văn hoá nhậu” đang kể ra đây là một thứ nhậu bình dân, hết sức giản dị, dân dã. Nó diễn ra tưng bừng từ trong nhà, ra ngoài sân, từ trong hẻm, ra vỉa hè… Nó không cầu kì từ ăn mặc đến lễ nghi, từ ghế ngồi đến ánh sáng, từ đồ uống đến thức ăn… và nhất là không đòi hỏi mỗi người phải có thật nhiều tiền. Mặc dù cũng không thiếu những chốn nhậu cao cấp, thơm tho diễn ra cùng thời điểm, trong những nhà hàng sang trọng, kín mít như bưng… Nhưng phân biệt hai “thế giới” nhậu song song tồn tại này cũng đơn giản thôi, chỉ bằng cách tên gọi là đủ. Ví dụ chốn người sang được gọi là “tiệc tùng”, thì chốn bình dân phải gọi là “nhậu nhẹt”. Song tiệc tùng, dù có lớn đến đâu cũng chỉ đáng coi là “tiểu nhậu”, cùng lắm là “trung nhậu”. Chỉ có nhậu nhẹt kia, mới thực là đã đạt tới quy mô của “đại nhậu” mà thôi.
Dân “nhậu nhẹt” phần lớn bình dân, tuyệt đại đa số bình dân. Tuy đâu đó cũng có lẫn một vài kẻ sang, nhưng chẳng qua chỉ là… lốm đốm. Bình dân đấy, nhưng cơ mà (em ơi), lại sở hữu tới sáu đức (lục đức) “dễ thương” của người quân tử. Xin được kể ra như sau:
Thứ nhất, dẫu chẳng ngon, chẳng đắt tiền thì cũng cứ là những “miếng giữa đàng”, dù có tối trời thì cũng coi như thanh thiên bạch nhật, bởi chẳng bao giờ phải che mặt với ai. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức quang minh chính đại.
Thứ hai, người quân tử vốn không ưa cái sự sát sinh, nên dân nhậu rất ít khi chui đầu vào bếp. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “nhân”.
Thứ ba, một kẻ có gì vui hay buồn thì cả đám chỉ chờ cơ hội đó để kéo nhau đi, buồn cũng uống mà vui cũng uống, kiểu như: “một con ngựa đau, cả tàu… no cỏ”. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “nghĩa”.
Thứ tư, người quân tử ngồi không kén ghế, ăn chẳng cần no, mặc không cần đẹp… dân nhậu vốn đã coi những chuyện ấy nhẹ tựa lông bò. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “lễ”.
Thứ năm, luôn luôn biết chọn bạn hợp mà rủ rê, chọn quán quen mà ngồi lỳ, chọn mồi lạ mà đưa đẩy… Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “trí”.
Thứ sáu, chỉ nhậu vào những giờ nhất định trong ngày, đến giờ ấy mà không ra quán thì toàn thân ngứa ngáy, thần trí nhẹ tênh, nhất là đã hẹn rồi thì đố dám sai, lần sau dễ bị “phạt” như chơi. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “tín”.
Vừa “quang minh chính đại”, vừa có đủ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, đạo lý “nhậu” xem ra cũng khối điều ghê. Thế mới có câu: “phi nhậu nhẹt bất thành quân tử” (không nhậu nhẹt không thể thành quân tử), lại có câu: “phi nhậu nhẹt bất trượng phu” (không nhậu nhẹt không phải đấng trượng phu), lại còn có thơ:
“Bất thị quan trường, vi đạo tặc
bất tri tửu đạo, bất hiền nhân”
(Có thể không làm quan mà vẫn là kẻ cướp. Nhưng nếu không hiểu đạo lý của rượu, thì không phải bậc hiền nhân).
Thậm chí còn sáng tác cả ca dao, tục, thanh lẫn lộn nói về cái “đạo lý” ấy:
“Gặp nhau có chén rượu tăm
gọi là một chút hỏi thăm lòng người”.

Rồi:
“Rượu hay phải biết chửi thề
biết đi nửa buổi, biết về… nửa đêm”

hay:
“Đã nhậu là cậu ông Giời
nên người quân tử chẳng mời cũng… dzô”

Tóm lại là nếu muốn tìm quân tử, ai ơi chẳng cần phải lặn lội tới những chốn cao sang làm gì cho phí công vô ích, thậm chí tới đó mà vô phúc, bị lầm lẫn thì dễ mắc họa như chơi. Xin mời cứ đợi chiều chiều, chỉ việc ra bất kì một nơi “đại nhậu” là khắc gặp đầy.

23/11/2015

Hướng dẫn hữu ích khi gặp cướp

1. Hãy nhớ kỹ, cùi chỏ là nơi cường tráng nhất trên cơ thể bạn. Nếu như có thể dùng thì nhất định phải dùng nó.

2. Nếu như tên cướp yêu cầu bạn đưa ví tiền cho hắn, bạn không nên đưa cho hắn, mà hãy ném ra chỗ càng xa càng tốt. Thông thường thì tên cướp sẽ có hứng thú với ví tiền của bạn hơn là bạn. Đợi khi tên cướp đi về phía mà bạn ném ví tiền, khi đó tốt nhất bạn nên chạy thoát thân, nhớ là chạy ngược chiều với tên cướp nhé.

3. Khi bọn cướp giật đồ của bạn, bạn không nên giằng co với chúng. Những thứ trong túi của bạn cho dù đắt thế nào đi nữa, thì bạn cũng có thể mua cái mới, nhưng tính mạng thì chỉ có một.

4. Khi tên cướp vào nhà trộm đồ, tốt nhất bạn không nên nói nhiều, hãy để đầu óc tỉnh táo. Bạn không nên nghĩ rằng nói chuyện sẽ phân tán sự chú ý của chúng, chúng biết rõ bạn muốn  gì, điều đó chỉ làm chúng thêm phản cảm. Bạn cũng không nên nói những lời gây kích động, cũng không nên nhìn thẳng vào mặt chúng. Tóm lại là chúng chỉ cần tiền càng nhanh càng tốt, nếu như bạn nói những lời khiến chúng bị kích động hoặc biểu hiện không hợp tác. Như thế chúng sẽ dùng cách của chúng để nói cho bạn biết ai là người nắm quyền chủ động.

5. Tuy nhiên, nếu như bạn có thể đi đến ban công, hoặc nơi nào đó mà có thể liên lạc với bên ngoài, hoặc nghe thấy ngoài cửa có tiếng người; Khi đó bạn có thể cầm vật gì đó có thể phát ra âm thanh lớn, và gọi cứu giúp. Thông thường, khi tên cướp biết có người phát hiện ra chúng, thì chúng sẽ lập tức rời đi

6. Nếu như bạn bị nhốt trong cốp xe, khi đó bạn hãy dùng hết sức đá vào vị trí có đèn hậu của xe. Khi đèn hậu xe ô tô rơi xuống, bạn hãy thò tay ra để vẫy. Người lái xe sẽ không nhìn thấy tay bạn, nhưng các xe khác sẽ nhìn thấy bạn. Đã có trường hợp được cứu thông qua sử dụng phương pháp này

7. Nếu như bạn có thói quen, sau khi mua đồ, ăn cơm xong, hay khi đi làm về, sau đó ngồi trên xe ô tô để tính tiền hay ghi chép; Nếu thế thì xin bạn hãy bỏ thói quen đó đi. Bởi vì đó là thời điểm tuyệt vời nhất để bọn cướp hành động. Bọn cướp sẽ lập tức nhảy vào ghế phụ hay ghế sau của xe bạn, và chĩa súng vào đầu bạn, chúng sẽ yêu cầu bạn lái xe đến nơi mà chúng dễ hành động nhất. Vì thế khi bạn rời khỏi xe trong chốc lát, hay khi mới lên xe xin hãy nhớ khóa ngay cửa xe lại

8. Nếu như tên cướp đã nhảy lên xe và chĩa súng vào bạn, thì bạn không nên lái xe đến chỗ mà chúng yêu cầu. Bạn nhất thiết không được làm thế! Bạn nên khởi động xe, sau đó nhấn hết ga để cho xe đâm vào tường hay cây cổ thụ gần nhất. Dây an toàn và túi khí sẽ bảo vệ bạn. Nếu như tên cướp ngồi đằng sau, thì chúng sẽ bị thương tương đối nặng. Sau khi xe bị đâm, nếu như có thể bạn hãy chạy ra khỏi xe và kêu cứu, nếu như không thể ra khỏi xe thì bạn cũng đã gây được sự chú ý của mọi người rồi. Hãy nhớ kỹ, bạn thà bị thương còn hơn là vài ngày sau đó, người ta phát hiện ra thi thể bạn vị vứt bỏ ở một nơi hoang vắng nào đó

9. Hãy nhớ khi đi thang máy, đặc biệt là vào buổi tối. Thông thường buổi tối và sáng sớm thì cầu thang không phải là nơi an toàn. Nếu như thang máy rơi xuống, Bạn hãy lập tức ấn tất cả các tầng từ tầng hiện tại trở xuống. Nếu như thang máy đột ngột rơi xuống do lỗi mạch điện, vậy thì đến tầng nào có mạch điện hoạt động bình thường, thì thang máy sẽ dừng lại. Nếu như thang máy tiếp tục rơi, khi đó bạn hãy đứng áp lưng vào tường, hai tay nắm chặt lan can, đầu gối hơi chùng một chút ( khi thang máy tiếp đất sẽ giúp giảm bớt quán tính của cơ thể bạn).

10. Nếu như có người chĩa súng vào bạn, bạn hãy lập tức chạy thoát thân. Khi bạn chạy thì khả năng bắn trúng chỉ là 4%. Cho dù là bắn trúng thì bạn cũng không thể bị bắn trúng tim. Nếu như có thể, bạn hãy chạy hình chữ S, và cố chạy thật nhanh đến chỗ đông người.


Các triệu chứng thường gặp của bệnh ung thư - Xin mọi người chú ý.

20/11/2015

2 trắc nghiệm đơn giản kiểm tra sức khỏe

   Chỉ cần nắm chặt tay trong 30 giây, bạn đã có thể biết tình trạng sức khỏe hiện tại của mình mà không cần phải đến bệnh viện kiểm tra! Hãy thử thực hiện những thử nghiệm dưới đây.

Thử nghiệm 1: Nắm chặt tay thành nắm đấm trong vòng 30 giây sau đó mở ra xem

Chúng ta hãy cùng thực hiện một thử nghiệm để kiểm tra tình trạng sức khỏe của chính mình: nắm bàn tay nghiến chặt lại với nhau trong vòng 30 giây, sau đó mở ra và quan sát xem màu trắng ở lòng bàn tay sẽ biến mất ngay lập tức hay phải mất một khoảng thời gian.

   Khi nắm chặt tay sẽ khiến cho các mạch máu ở dưới tay bị ép lại và gây áp lực lên lòng bàn tay. Hành động bóp chặt này sẽ ngăn chặn và cản trởhệ thống tuần hoàn máu, do đó lòng bàn tay sẽ trở nên trắng xanh.

   Bàn tay khi bị biến thành màu trắng, nếu nó khôi phục lại màu sắc ban đầu ngay lập tức, thì điều đó có nghĩa rằng các mạch máu của bạn vẫn khỏe mạnh. Tuy nhiên, nếu như chúng phải mất nhiều hơn 10 giây để khôi phục, thì bạn nên cẩn thận, đó có thể là một dấu hiệu của bệnh xơ cứng động mạch.

Trắc nghiệm 2: Bóp chặt gốc của móng tay, dùng lực ấn mạnh

Theo học thuyết kinh lạc trong Trung y, 5 ngón tay của con người đều có rất nhiều kinh huyệt chạy qua. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nội tạng, đặc biệt nếu một ngón tay có cảm giác đau đớn, điều đó có nghĩa là những cơ quan nội tạng tương quan với các kinh huyệt này đang gặp vấn đề.

   Bạn hãy nhấn mạnh vào gốc của móng tay, sau đó dùng lực ấn và day chúng, hãy bắt đầu từ ngón út, vê từng ngón một và cảm nhận xem có thấy đau đặc biệt ở một ngón nào không? Cảm giác đau ở mỗi vị trí khác nhau trên ngón tay báo hiệu vấn đề ở từng bộ phận khác nhau.

Đau ngón út:

   Những người bị đau ở ngón tay út thường mắc các bệnh về tim hoặc ruột non. Đầu ngón tay út bên mặt áp sát với ngón đeo nhẫn (áp út) gọi là Thiểu Xung huyệt, bên còn lại gọi là Thiểu Trạch huyệt. Thiểu Xung huyệt có quan hệ mật thiết với tim, do đó khi cơn đau tim đến hãy dùng lực ấn mạnh đầu ngón út, có thể giúp giảm bớt cơn đau. Thiểu Trạch huyệt là kinh huyệt của ruột non, khi tình trạng ruột non không được khoẻ, có thể dùng lực ấn mạnh một bên đầu ngón út này.

Đau ngón áp út:

   Người có độ dài ngón áp út và ngón trỏ (cạnh ngón tay cái) tương đồng thường có xác suất lên cơn đau tim cao hơn. Khi ngón áp út bị đau có thể gây ra do triệu chứng đau họng hoặc đau đầu. Phía trên của phần tam tiêu kinh trên ngón áp út có một huyệt vị Quan Xung, khi bị cảm cúm, sốt thì có thể dùng tay chà sát vào vị trí này giúp giảm thiểu cơn bệnh.

Đau ngón giữa:

Trên ngón tay giữa có một huyệt Trung Xung, nó có tương quan tới vị trí bao quanh màng tim, nhiều lúc tim không thể chịu được do nhiệt độ gia tăng, ở vị trí huyệt này sẽ cảm thấy đau nhói.

Đau ngón trỏ (ngón áp ngón cái):

   Ngón trỏ có chứa huyệt Thương Dương tương quan đến đại tràng (ruột già), khi xuất hiện hiện tượng táo bón, nó sẽ gây áp lực lên khu vực này khiến cho ngón tay trỏ cảm thấy rất đau, điều đó cho thấy bạn đang có vấn đề về đại tràng.

Đau ngón tay cái:

   Huyệt Thiểu Thương nằm trên ngón tay cái có liên quan chặt chẽ đến phổi. Chẳng hạn khi phổi xuất hiện bệnh trạng, thì khi ấn vào vùng này ở ngón cái sẽ cảm thấy rất đau.

   Nếu bạn cảm thấy rất đau khi nhấn vào đây, vậy thì nhất định nên chú ý, rất có thể một bộ phận nào đó trong cơ thể có tương quan đến đang có vấn đề, tốt nhất hãy đến bệnh viện kiểm tra.

   Ngay cả khi đau nhẹ thì nó cũng có liên quan đến huyệt vị trên ngón cái này, nó cho thấy bộ phận tương quan đang có dấu hiệu không bình thường. Lúc này cần ấn và day một cách cẩn thận tại vị trí đó trên ngón cái, việc này sẽ giúp bệnh nhanh chóng được cải thiện.

   Không chỉ đối với hai bàn tay như vậy, mà chúng ta cũng nên tạo thói quen hàng ngày như thường xuyên ấn hay vê hai chân, hai tay. Theo thời gian, nó sẽ thúc đẩy sự lưu thông tuần hoàn máu, giúp các bộ phận cơ thể đặc biệt là tim trở nên khoẻ mạnh hơn.

   Trong cuộc sống bình thường, chúng ta cũng có thể sử dụng những phương pháp này để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của mình. Nó thực sự rất hiệu quả.