12/08/2022

Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người)

Mãn Giác


 

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

 

Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch thơ:

 

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu, già đến rồi

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua – sân trước – một cành mai.

11/08/2022

Kẻ đạo đức giả thường nói 3 câu này, nên cận thận các bạn nhé

 Nhìn và ngẫm.


 Thái Căn Đàm có câu: ‘Kết giao với người, thà lúc đầu khó gần gũi, còn hơn về sau xa cách’. Vì vậy, khi chọn người nào để kết giao, nhất định cần phải xem kỹ tính cách của người kia.

Những người có tính xấu thể hiện rõ nhất qua lời ăn tiếng nói. Con người càng đạo đức giả càng thích nói những lời sau, nếu gặp thì không nên kết giao, nhất định cần tránh xa.

 

1. "Tôi biết nó sẽ như thế này từ lâu rồi"

Người xưa nói: Giúp người đúng lúc, chớ nói vuốt đuôi

Giang tay khi người khác gặp khó khăn luôn tốt hơn những lời vô ích sau khi sự việc trôi qua.

Kết giao bạn bè, chỉ có những người sẵn sàng giúp đỡ nhau mới là bạn bè thực sự.

Khi có chuyện gì xảy ra với bạn, họ sẽ đứng sang một bên để ý sự náo nhiệt, để ý chán rồi, họ sẽ đến “quan tâm” bằng cách đá thêm một cước.

Kỳ thực họ không có thực lực gì cả, chỉ là khua môi múa mép mà thôi.

Trong cuộc sống, bạn cần nhận ra loại người đạo đức giả này, đừng để anh ta trà trộn vào, nếu không, khi có vấn đề, trách nhiệm sẽ được đẩy về phía bạn.

Đối với những người thấy chuyện tốt thì kể công, gặp chuyện xấu thì trốn tránh trách nhiệm, thì hãy tránh họ xa xa.

Trong xã hội này, không có ai ngốc cả, chỉ là có những người nhìn thấu nhưng không nói mà thôi.

Những kẻ cơ hội thì sớm muộn gì bạn bè cũng tránh xa, kẻ chỉ thích cao giọng nói suông cũng sẽ chẳng có ai dám giao phó tấm chân tình.

‘Tặng than khi tuyết rơi’ vĩnh viễn có giá trị hơn việc ‘thêu hoa lên gấm’, đối xử chân thành với nhau sẽ luôn được trân trọng hơn là đi ‘thêm dầu vào lửa’.

 

2. Người thích cao giọng, hứa hão: ‘Hôm khác đi’, ‘Nói sau đi’

Một nhà văn nói: "Sinh mệnh là một chiếc áo choàng lộng lẫy được bao phủ bởi những con rận."

Dù lớp lót có bị bong tróc đến đâu, vẫn luôn giữ cho bề ngoài luôn hào nhoáng.

Những người không xứng đáng là bạn thân thì hiếm khi đối xử chân thành với bạn. Họ luôn lợi dụng bạn dưới vỏ bọc bạn bè.

Trong cuộc sống, rất nhiều những câu như: ‘Hẹn một hôm khác’, ‘nói chuyện sau’, ‘hẹn gặp lại khi có thời gian’ ... Nhưng ‘hôm khác’ đó là hôm nào, lúc nào?

Lão Tử nói: "Con người nếu không tin thì không thể thể đứng vững, nghề nghiệp nếu không có niềm tin thì sẽ không hưng thịnh".

Kẻ đạo đức giả là “bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”, lời nói không có giá trị, thái độ không chân thành, bạn coi họ như người của mình, nhưng anh ta lại coi bạn như kẻ ngốc.

‘Có việc thì tìm đến, không có việc thì không màng đến’, kết bạn với kiểu người này chẳng những không có chỗ tốt, ngược lại sẽ tổn hại lợi ích của bản thân.

Vì vậy, những người thực sự xứng đáng với tình bạn sâu sắc của bạn sẽ cố gắng đảm bảo rằng mọi lời nói đều xuất phát từ trái tim.

Những người thích cao giọng, nói chuyện hàm hồ, kỳ thực đều rất có kỹ năng giả vờ, đặc biệt đạo đức giả. Nếu bạn gặp, xin vui lòng rời xa càng sớm càng tốt!

 

3. Người thích nói những lời nịnh nọt, những lời tâng bốc: ‘Bạn nói thật là đúng’

Trong truyện ngụ ngôn của Krilov có câu chuyện "Con quạ và con cáo".

Chuyện kể về một con quạ ăn trộm được một miếng thịt, đang đứng trên cây nghỉ ngơi, bị một con cáo dưới gốc cây nhìn thấy. Cáo rất muốn lấy được miếng thịt đó từ miệng quạ, bèn đảo mắt khen quạ: “thân hình chắc khỏe, lông thật đẹp, nhưng phải biết kêu thì mới xứng là vua của các loài chim”!

Con quạ nghe xong vô cùng đắc ý, không thể chờ đợi được nữa, muốn thể hiện giọng hát của mình, liền cao hứng cất giọng.

Không ngờ vừa há miệng, miếng thịt rơi ra khỏi miệng.

Cáo thấy quạ mắc lừa thì nhanh chóng vồ lấy miếng thịt và chui vào hang.

Lúc còn nhỏ khi tôi đọc câu chuyện này, tôi chỉ nghĩ rằng con quạ quá viển vông, mất bình tĩnh khi gặp phải sự xu nịnh.

Đến khi lớn lên, tôi mới nhận ra rằng ai cũng thích nghe những lời khen, đó là điều dễ hiểu, nhưng khi gặp những người đang tâng bốc mình một cách mù quáng thì bạn phải cẩn thận.

Như Carnegie đã nói: "Lời tâng bốc lọt qua từ kẽ răng, còn lời khen ngợi đến từ trái tim."

Những người xu nịnh trước mặt thường một kiểu, sau lưng lại một kiểu, họ sẽ không thẳng thắn chỉ ra lỗi sai của bạn, thậm chí còn biện hộ cho những khuyết điểm của bạn, và khiến bạn đắc ý tự mãn.

Làm bạn với một người như vậy, bạn rất dễ rơi vào vòng luẩn quẩn cảm thấy hài lòng về bản thân mà không hề hay biết, để rồi lại phạm phải sai lầm.

Chúng ta thường nói rằng con người cần hiểu bản thân mình. Người khác khen ngợi thì cứ nghe, nhưng đừng tin điều đó là thật.

Những kẻ đạo đức giả đôi khi còn đáng sợ hơn những người phản đối.

Trong cuộc đời này, bạn gặp người như thế nào thì bạn sẽ trở thành người tương tự như thế.

Kết bạn với người có đức tính tốt sẽ tốt cho bạn cả đời; kết bạn với người xấu tính, bạn có thể dễ dàng bị lừa dối, bị lợi dụng, thậm chí bị tổn thương.

Người đáng tin cậy, nói chuyện thường chân thành, làm mọi việc đều có lời giải thích, mọi việc đều lợi lạc, sự sự đều có hồi âm.

Kẻ đạo đức giả, nói chuyện thường có sự tính toán, mặc dù lời nói nghe có vẻ dễ nghe, nhưng đó không phải là lời chân thành.

Mặt khác, những kẻ đạo đức giả nói chuyện thường chủ động, lời nói khéo léo, nhưng họ không chân thành.

Vì vậy, bất kể bạn đang ở bên ai, đừng nghe những gì họ nói, hãy nhìn những gì họ làm.

Lời thề dù tốt đẹp đến đâu, nếu không được thực hiện thì cũng là lừa dối, lời hứa dù chân thành đến đâu mà không được thực hiện thì cũng là lừa gạt.

10 ĐỘNG TÁC TẬP VÀO SÁNG SỚM ĐỂ CƠ THỂ LUÔN KHỎE

ST TRÊN NET.



Chỉ cần vài phút mỗi sáng thức dậy bạn thực hiện nhữgg động tác dưới đây, sẽ mang đến cho bạn cơ thể khỏe mạnh, tinh thần sảng khoái, không còn lo lắng bệnh tật. Ngoài ra sẽ giúp bạn nâng cao tuổi thọ thêm hàng chục năm nữa.

1. Xoa hai bàn tay vào nhau

Cách làm: Sáng ra, khi bạn xoa hai bàn tay vào nhau, sẽ tạo ra nguồn năng lượng, vừa giúp bạn tỉnh ngủ, vừa làm ấm cơ thể, còn mang đến nhiều lợi ích to lớn như giúp giảm tê tay, giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến tay, khiến cho tinh thần thư giãn, thoải mái. Không chỉ vậy, động tác này còn giúp chị em làm đẹp đôi tay của mình nữa đấy!

Lợi ích:

Động tác cọ xát hai bàn tay vào nhau sẽ tác động lên hệ thần kinh trung ương, giúp "đánh thức" ý thức của bạn và từ đó giúp "đánh thức" toàn bộ cơ thể sau một đêm ngủ vùi. Động tác này sẽ giúp bạn tránh khỏi nguy cơ chóng mặt, choáng, thậm chí ngất xỉu sau khi vội vàng thức dậy.

Bên cạnh đó, xoa lòng bàn tay vào nhau còn giúp kích thích các huyệt vị trên khu vực này và giúp thông lục kinh, khỏe nội tạng, điều hòa âm dương và khí huyết. Ngoài ra, động tác nhẹ nhàng này còn có tác dụng thư giãn vai, làm mềm khớp, giảm mệt mỏi và giúp mắt bớt áp lực.

2. Massage da đầu

Động tác này kích thích trực tiếp đến các kinh mạch quan trọng trên da đầu, tăng cường sự trao đổi chất, lưu thông máu, cho bạn cảm giác minh mẫn, sảng khoái cả ngày. Ngoài ra đây cũng là bí quyết giúp bạn có mái tóc đen nhánh, khỏe mạnh, ngay cả khi bước vào tuổi trung niên.

Cách làm: Sử dụng mười đầu ngón tay nhẹ nhàng massage với một lực vừa phải quanh da đầu, sẽ giúp bạn có được sự thư giãn tuyệt vời. Dùng các đầu ngón tay (không dùng móng tay) nhẹ nhàng mát xa từ chân trán lên đỉnh đầu và ra vùng sau đầu. Nhẹ nhàng thực hiện động tác trong khoảng từ 2 - 4 lần/1 giây và thực hiện trong 1 phút là đủ.

Lợi ích:

Động tác mát xa đầu sẽ giúp kích thích vỏ não, tăng lưu lượng máu trong não và giúp cải thiện trí nhớ đồng thời còn thúc đẩy hoạt động trao đổi chất. Bên cạnh đó, mát xa đầu nhẹ nhàng còn giúp tóc thêm chắc khỏe nhờ chân tóc được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng.

Ngoài ra, động tác mát xa này còn giúp tác động đến huyệt bách hội (huyệt nằm đỉnh đầu). Thường xuyên mát xa huyệt bách hội sẽ mang lại nhiều tác dụng lên toàn bộ vùng đầu, lưu thông kinh lạc đồng thời giúp điều chỉnh sự cân bằng của các chức năng bên trong cơ thể.

3. Xoa tai

Trên cơ thể, tai là bộ phận chứa tới 120 huyệt và các huyệt này lại thông với tất cả bộ phận trong cơ thể. Do đó xoa tai sẽ mang lại hiệu quả thư giãn, tăng cường sức khỏe cho toàn bộ cơ thể, tránh nguy cơ ù tai, chóng mặt.

Cách làm: dùng ngón cái áp sau tai, ngón trỏ sát bên mang tai rồi đẩy lên đẩy xuống vành tai, lặp đi lặp lại khoảng 30 lần. Dùng ngón trỏ cùng ngón cái nhẹ nhàng xoa bóp và day bấm nhẹ vành tai từ trên xuống dưới, rồi lại thực hiện động tác ngược từ dưới lên trên. Xoa bóp trong thời gian khoảng 1 phút hoặc cho đến khi cảm thấy vành tai nóng ấm và chuyển sang màu đỏ hồng là được.

Lợi ích:

Khu vực vành tai được xem là nơi tập trung rất nhiều huyệt vị quan trọng, là "cửa ngõ" của các cơ quan nội tạng bên trong cơ thể. Vậy nên mát xa vành tai sau khi thức dậy mỗi sáng sẽ có tác dụng "khơi thông" kinh tuyến và giúp máu lưu thông tốt hơn.

4. Đảo mắt qua lại

Cách làm: Đảo hai mắt từ trên xuống dưới, rồi từ trái qua phải, sau đó làm ngược lại. Mỗi chiều làm khoảng 10-15 lần. Động tác này giúp mắt sáng, thư giãn, giảm mệt mỏi cho mắt rất hiệu quả. Xoay đảo mắt sau khi thức dậy vào mỗi buổi sáng cũng là bài tập thể dục hàng ngày cho mắt. Bạn chỉ cần xoay đảo mắt 30 lần theo chiều kim đồng hồ và theo chiều ngược lại, sau đó nhấp nháy mắt thêm 3 - 5 lần mỗi giây.

Lợi ích:

Động tác xoay đảo mắt giúp tỉnh táo tinh thần đồng thời ngăn ngừa các bệnh liên quan đến mắt như: viêm giác mạc, lão hóa mắt và các triệu chứng khác.

Lưu ý: không nên đảo mắt quá nhanh, ưu tiên chất lượng hơn số lượng.

5. Xoa cánh mũi

Động tác này giúp giảm các triệu chứng bệnh liên quan đến mũi, lưng, tim phổi và bộ phận sinh dục. Có thể tăng cường sinh lý đàn ông, và giúp làm giảm nguy cơ sa tử cung ở phụ nữ.

Cách làm: Dùng 2 ngón tay trỏ vuốt ngược từ chân 2 cánh mũi lên, qua sườn mũi đến tận 2 đầu mày (30 lần). Sau đó dùng ngón trỏ và ngón cái chụm lại, vuốt xuôi sống mũi, từ trên đầu mày xuống đầu mũi (30 lần). Dùng hai ngón tay nhẹ nhàng mát xa vành mũi, sau đó vuốt từ trên xuống dưới và dọc theo sống mũi đồng thời day bấm các huyệt xung quanh sống mũi. Thực hiện động tác khoảng 50 lần hoặc đến khi có cảm giác thông mũi là được.

Lợi ích:

Mát xa mũi với động tác này có thể giúp thông mũi và khai thông phổi đồng thời ngăn ngừa các bệnh có liên quan đến nhiễm khuẩn vùng mũi và đường hô hấp, viêm phế quản. Ngoài ra, động tác mát xa đơn giản này còn giúp phòng ngừa xơ vữa động mạch và bệnh tim.

6. Tập cơ miệng

Cách làm: Há rộng miệng ra hết cỡ rồi khép lại. Lặp đi lặp lại khoảng 30 lần, vừa giúp luyện tập cơ mặt, vừa giúp răng miệng khỏe mạnh.


7. Xoa bụng

Động tác xoa bụng được chứng minh là mang lại nhiều lợi ích, cực kì tốt cho sức khỏe. Giúp thúc đẩy tuần hoàn máu đến nội tạng, tăng cường trao đổi chất trong cơ thể, hỗ trợ hệ tiêu hóa, chống táo bón, đầy bụng, phòng ngừa các bệnh về dạ dày.

Cách làm: đứng thẳng hoặc nằm ngửa trên giường, thả lỏng vùng bụng, đặt hai bàn tay lên trên bụng và bắt đầu xoa vòng quanh rốn theo chiều kim đồng hồ, bắt đầu từ góc bên phải bụng.

Chú ý: xoa nhẹ nhàng, dùng lực vừa phải, mỗi lần 20 vòng, thực hiện từ 2-3 lần là được.

Lợi ích:

Nhẹ nhàng mát xa xung quanh rốn giúp cho khí trong dạ dày và hệ tiêu hóa lưu thông đồng thời đào thải những khí thải ra khỏi cơ thể. Bên cạnh đó, động tác mát xa này còn giúp làm tăng nhu động ruột, xả chất thải và tăng cường hoạt động trao đổi chất.

8. Hóp bụng - nâng thắt hậu môn

Cách làm: Hóp bụng là động tác đơn giản, nhưng rất hiệu quả trong việc tăng cường chuyển hóa năng lượng, luyện tập cơ bụng, tránh tích lũy mỡ thừa. Nằm ngửa trên sàn nhà, sau đó hóp bụng, thở ra và từ từ nâng hông lên cao đồng thời thắt chặt hậu môn và lại hóp bụng, nín thở và giữ yên tư thế trong thời gian 3 giây rồi thả lỏng. Thư giãn trong thời gian 3 giây rồi lại tiếp tục thực hiện động tác như ban đầu. Lưu ý: thực hiện động tác trong thời gian 1 phút.

Chú ý: Bạn nên kết hợp với động tác hít thở, khi hít vào thì bụng phình to ra, khi thở ra thì bụng xẹp lại, thực hiện từ từ. Đây cũng chính là động tác bắt đầu mà bất kì ai muốn học yoga, dưỡng sinh thì đều phải biết.

Lợi ích

Động tác này giúp thúc đẩy tuần hoàn máu và tăng cường lực co bóp của cơ vòng hậu môn, giúp đại trực tràng hoạt động tốt hơn. Ngoài ra, đây cũng là bài tập giúp nâng cao khả năng "giường chiếu" của bạn.

9. Co duỗi chân tay

Cách làm: Đứng thẳng, sau đó giơ hai tay và duỗi chân trái ra phía trước mặt (như minh họa). Sau đó thu tay về trước ngực, chân gập lại ở tư thế lò cò. Tiếp tục duỗi chân, tay ra phía trước, rồi thu về. Làm lần lượt chân trái, rồi chuyển sang chân phải. Mỗi bên co duỗi khoảng 20 cái. Động tác này tác động lên các cơ, khớp, giúp cơ thể vận động nhanh nhẹn, linh hoạt, phòng tránh các bệnh xương khớp và các bệnh về tim mạch.

Lợi ích:

Động tác vươn người, co giãn tay chân giúp máu lưu thông nhanh hơn đến các chi và các cơ quan bên trong cơ thể. Giúp bạn nhanh tươi tỉnh sau một đêm ngủ vùi đồng thời cung cấp khí huyết cho tim và não, phòng ngừa các bệnh tim mạch. Ngoài ra, động tác này còn giúp tăng cường sức khỏe gân cốt, xương cơ linh hoạt hơn.

10. Cọ xát lòng bàn chân

Cách làm: Sử dụng 2 lòng bàn chân cọ xát vào nhau cho ấm lên. Chân là vị trí có rất nhiều huyệt đạo quan trọng. Khi matxa làm ấm chân, sẽ cực kì tốt cho cơ thể, đặc biệt giúp cho tim phổi và ngũ tạng được khỏe mạnh.

Ngoài ra, để cơ thể được khỏe mạnh, chúng ta cần lưu ý đến giấc ngủ, mỗi ngày nên ngủ đủ giấc (từ 7-8 tiếng). Thời gian thích hợp để đi ngủ là 9-10h tối. Bạn cũng nên bổ sung đầy đủ nước cho cơ thể.

Lợi ích:

Mát xa lòng bàn chân sẽ tác động đến huyệt dũng tuyền - đây cũng là điểm khởi đầu của trung tâm kinh tuyến thận. Xoa bóp vùng huyệt này sẽ giúp làm dịu các dây thần kinh, giúp tỉnh táo nhanh đồng thời mang lại tác dụng thông các giác quan, ổn định tinh thần và sức khỏe.

Lưu ý: chế độ ăn đầy đủ dinh dưỡng, khoa học, tránh xa các thực phẩm không lành mạnh. Đặc biệt nên kết hợp với việc rèn luyện cơ thể mỗi ngày, vận động vừa sức, luôn giữ cho tinh thần lạc quan, thanh tịnh, đó chính là chìa khóa vàng, mang đến cho bạn sức khỏe và tuổi thọ dài lâu.


09/08/2022

Một vài tên rượu đặc sản Việt Nam ta

 Trải nghiệm và sưu tầm.


Việt Nam của chúng ta là một quốc gia đặc biệt. Tuy diện tích không quá lớn, dân số cũng khiêm tốn so với nhiều đất nước khác nhưng yếu tố văn hóa vùng miền lại được thể hiện rất rõ trong văn hóa ẩm thực cũng như đồ uống. Điển hình như nhắc đến các loại rượu đặc sản chẳng hạn. Danh sách những đồ uống có cồn tại các vùng miền của Việt Nam vô cùng đa dạng, phổ biến và được nhiều người biết đến.

Có đi sẽ biết nhiều – đó là đương nhiên. Giời sinh mình tính thích du ngoạn lại ham rượu nên cũng biết được một chút vài loại rượu đặc sản Việt Nam ta nên giới thiệu cùng các bạn.

Rượu ngô Bản Phố – Lào Cai



Rượu ngô Bản Phố còn được gọi là rượu ngô Bắc Hà. Đây là một thứ rượu ngon đặc sản của người Mông ở Bản Phố, cao nguyên Bắc Hà, Lào Cai. Rượu ngô Bản Phố nấu từ nước lấy từ suối Hang Dế. Ngô dùng nấu rượu Bản Phố không phải trồng ở nương rẫy hoặc thung lũng, mà ở trên núi đá cao heo hút.

Rượu Bản Phố có màu trong như nước suối. Lúc mới uống nghe hương vị thơm nồng, sau đó là cảm giác êm dịu. Rượu ngô Bản Phố hương thơm thì nồng nàn, quyến rũ, uống vào không gắt, không chua. Bí quyết tạo nên sự khác biệt của rượu ngô Bản Phố với các loại rượu khác là lên men bằng bột bông của cây “pa”, còn gọi là cây Hồng Mi. Rượu ngô nơi đây say lâu nhưng không làm người ta ngu muội. Thay vào đó là cảm giác sảng khoái, dễ chịu.

 

Rượu Mẫu Sơn



Rượu Mẫu Sơn là một loại rượu ngon đặc sản do người Dao sống trên đỉnh Mẫu Sơn, Lạng Sơn làm ra. Rượu được chưng cất thủ công với phương thức cổ truyền hàng ngàn năm từ gạo, từ nước tinh khiết của những con suối chảy trong núi có độ cao hơn 1000m và loại men lá rừng được pha chế từ hơn 30 loại thảo dược quý hiếm. Rượu Mẫu Sơn trong vắt như nước suối, rót ra chén sủi tăm. Người uống vào không có cảm giác gắt; hương vị thơm nồng, êm dịu, đậm đà đặc trưng của lá và rễ cây.

 

Rượu nếp San Lùng



Rượu nấu bằng thóc nương, trộn với một ít hạt cao lương, khoảng năm phần trăm thôi, ngâm nước và nấu lên như nấu cơm. Khi hạt thóc chín tới, vỏ trấu nứt ra, lộ một vết gạo trắng trông giống như nảy mầm là được. Thóc chín, rỡ ra nong, để nguội, rắc bột men, trộn đều, cho vào thùng ủ.

Một hoặc hai ngày sau, tùy theo thời tiết, thóc chín men, thơm mùi cơm rượu, đổ nước suối vào ngâm, một số ngày tùy theo chất men và thời tiết, rồi chưng cất. Cất bằng chảo gang lớn, mỗi mẻ năm mươi cân thóc, cho ra hai mươi lít rượu trong vắt, nặng từ bốn lăm đến năm mươi độ, hoặc hơn…Rượu San Lùng nhấm 1 ngụm thấy tê tê, ngòn ngọt đầu lưỡi, và đặc biệt thơm mùi men, ngát hương.

 

Đặc sản rượu Táo Mèo – Sapa



Rượu Táo Mèo là thứ rượu đặc sản của người H'Mông Sa Pa

Rượu Táo Mèo là thứ rượu đặc sản có mùi thơm nồng nàn và màu nâu nóng

Rượu Táo Mèo là thứ rượu đặc sản của người H’Mông Sa Pa, cùng với rượu San Lùng, Bát Xát và rượu ngô Bắc Hà rượu Táo Mèo là các danh tửu của Lào Cai. Rượu Táo Mèo có màu nâu sóng sánh và vị thơm ngọt đặc trưng. Rượu này được ngâm ủ từ trái sơn trà một loại táo rừng mọc hoang trên dãy Hoàng Liên Sơn. Vì những nơi có thứ trái này là nơi người H’Mông sinh sống nên còn gọi là trái táo mèo; loại cây ra hoa trắng vào mùa xuân và có trái vào mùa thu.

 

Rượu Kim Sơn ở Ninh Bình



Rượu Kim Sơn là rượu được chưng cất từ gạo nếp, men thuốc bắc, nguồn nước giếng khơi tự nhiên, sản xuất theo bí quyết của người dân các làng nghề tại Kim Sơn. Rượu thường có nồng độ cao, trong suốt. Nếu bọt tăm rượu càng to thì độ rượu càng cao. Trước đây, rượu được đựng trong các vò đất và nút lá chuối khô. Rượu Kim Sơn khi uống vào cảm thấy rất thơm và êm dịu. Một đặc trưng của rượu là càng để lâu càng ngon. Đặc biệt rượu Kim Sơn có tác dụng rất tốt cho sức khỏe khi được ngâm với rắn, tắc kè, sao biển, bìm bịp .v.v.

 

Rượu Hồng Đào



Người Tây Nguyên nổi tiếng với rượu cần, Lạng Sơn lại nổi tiếng với rượu Mẫu Sơn, còn người dân Quảng Nam thì làm say lòng người nhờ rượu hồng đào nồng nàn. Thứ rượu quý bởi chất men. Có lẽ chỉ ở tại đây mới làm ra rượu hồng đào chuẩn mực, không thể tìm thấy ở nơi khác.

Rượu Hồng Đào được nấu từ nếp hương Bà Rén và gạo Gò Nổi. Tất cả đều là nguyên liệu mới, thu hoạch không quá ba tháng. Men rượu là loại men đặc biệt tuyển chọn từ men lá cổ truyền trong đó Men Hồng Đào là men đặc trưng của rượu Hồng Đào. Ủ men trong các chum sành phải đúng sáu ngày rồi mới chưng cất.

 

Rượu Làng Vân – Bắc Giang



Rượu làng Vân được nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon

Rượu làng Vân là đặc sản nổi tiếng ở Bắc Giang

Rượu làng Vân được nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon; trồng trên cánh đồng của làng Vân Xá, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Cộng thêm với men gia truyền bằng các vị thuốc bắc quý hiếm sau hơn 72 giờ ngâm ủ kết hợp với nghệ thuật nấu rượu tài tình của người làng Vân mới có thể cho ra rượu Làng Vân như một thứ tinh túy nhất của trời đất ban tặng cho con người được.

Cha truyền con nối, rượu làng Vân là thương hiệu “ông tiên” quen thuộc. Loại rượu này nổi tiếng khắp mọi miền đất nước và cả ở nước ngoài. Đã từ rất lâu rồi, hương vị đặc biệt của rượu làng Vân luôn được du khách ưu tiên chọn mua về làm quà khi qua có dịp đi qua vùng Kinh Bắc. Xưa kia, rượu Làng Vân còn là lễ vật để dâng lên vua chúa. Chúng thường xuyên được sử dụng trong những buổi yến tiệc ở chốn cung đình.

 

Đặc sản rượu Phú Lễ



Rượu Phú Lễ là một loại rượu nổi tiếng của tỉnh Bến Tre. Rượu có vị rượu nồng đậm, thơm ngon và nặng đô. Rượu Phú Lễ được sản xuất từ ấp Phú Lợi, xã Phú Lễ tỉnh Bến Tre. Rượu Phú Lễ thơm ngon là nhờ men, nước giếng làng, nếp trồng trên chính vùng đất này. Đặc biệt mùi thơm còn nhờ ủ nếp trong những cái tỉn đã có hằng trăm năm.

 

Rượu Bàu Đá



Tên gọi của rượu là do được nấu chủ yếu từ làng Cù Lâm thuộc xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Bàu Đá là tên của một bàu nước ngày xưa cả làng dùng chung, là nguồn nước để chưng cất rượu Bàu Đá. Rượu Bàu Đá rất “nặng” (trên 50 độ) uống nhanh say nhưng say rồi không thấy mệt hay nhức đầu. Thưởng thức rượu Bầu Ðá ướp lạnh và nhâm nhi cùng với một ít khô mực thì chẳng còn gì sánh bằng. Hương thơm, vị nồng ấm của rượu hoà quyện với vị mực béo thơm sẽ là một cảm giác tuyệt vời.

 

Rượu cần ở Tây Nguyên



Rượu cần Tây Nguyên có hương vị thơm nồng và dịu ngọt

Rượu cần Tây Nguyên vô cùng nổi tiếng và được nhiều du khách yêu thích

​Những ai đã từng đến với đại ngàn mênh mông của rừng núi Tây Nguyên mới thấm thía hết chất men say của núi qua chóe rượu cần của đồng bào dân tộc nơi đây. Một thức uống với chất men cực kỳ độc đáo, không giống với loại men ở nơi nào trong nước cũng như các quốc gia khác trên thế giới.

Rượu cần là cách gọi của người Việt đối với loại rượu đặc sản được một số dân tộc thiểu số Việt Nam. Rượu này được ủ men trong hũ/bình/ché/chóe/ghè, không qua chưng cất. Khi đem ra uống phải dùng các cần làm bằng tre/trúc đục thông lỗ để hút rượu. Ở Tây Nguyên đâu đâu cũng uống rượu cần. Rượu cần thơm, ngon, mát, bổ, kích thích tiêu hoá, lợi tiểu.

 

Rượu Xuân Thạnh tại Trà Vinh



Rượu Xuân Thạnh là một loại rượu nổi tiếng của Trà Vinh. Rượu Xuân Thạnh thuộc loại nặng, khoảng 60 độ, sủi tăm trong vắt. Hương vị rượu nồng nàn, hấp dẫn và không gây khó chịu nếu uống quá chén. Rượu do một số gia đình trong cùng một dòng tộc tại ấp Xuân Thạnh xã Hòa Thuận, Châu Thành nắm giữ bí quyết chưng cất. Rượu được sản xuất rất cầu kỳ, từ gạo nếp mùa truyền thống cùng với 14 loại men viên và 48 dòng nấm mốc gia truyền có hoạt tính đường hóa cao. Đặc biệt rượu Xuân Thạnh mà dùng với món trâu luộc cơm mẻ thì rất thú vị.

 

Rượu đế Gò Đen



Rượu đế Gò Đen, thường được gọi tắt là Đế Gò Đen. Đây là tên một loại rượu trắng nổi tiếng của Việt Nam. Loại rượu này được nấu từ gạo, hoặc nếp mỡ, nếp than, theo phương pháp cổ truyền. Địa điểm sản xuất ở Gò Đen, Bến Lức, tỉnh Long An. Rượu đế Gò Đen có nồng độ cồn rất cao, có thể lên đến 50 độ cồn.

Dĩ nhiên còn nhiều loại rượu tên tuổi ở các vùng miền khác trên đất nước như rượu Quậy, rượu Lạc Đạo, rượu cần Hòa bình… nhưng do bài viết đã dài nên đành tạm dừng vậy.

08/08/2022

NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ

 

GS Trần Quốc Vượng



Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XX.

Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v… tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…

Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế…

Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản…

Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.

Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.

Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.

Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!

Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!

Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày…

Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.

Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC.

Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.

Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.

Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?

Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…

Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông Trường Chinh (tác giả chính của cái “Đề cương” đó) đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”

Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!

Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!

Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!

Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!

Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thày mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!

Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy:- Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,

Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.

Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của chế độ.

Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!

O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).

Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!

Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…

*

*   *

Báo Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên Bộ chính trị kiêm bí thư thường trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2 tiếng, ông chỉ “nói” mà không “nghe”, lại còn bảo: “Sống ở nước ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!“

Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông lắm.

Tôi là “trí thức” ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân Đội Nhân Dân” 1987 công bố “Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của tôi, nói về việc “Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và “thân mật” bảo ban 2 điều:

- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng heo, treo móng giò”) kiểu đó ?

- Nếu anh nói thế, “tôi” thì “tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ không nghe được! Từ nay anh nên “thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!

Tôi cũng “trả lại ông” 2 điều:

- Đảng bảo: “Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công nhân – theo ông – nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?

- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!

Thực ra, tôi biết thừa cái “giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi” ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!

Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà): – Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con! Chùa Một Cột có bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả nước, đâu dính gì đến riêng anh mà anh cứ “la làng” lên, một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái giải gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước “nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.

Ôi, làm “thằng người Việt Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ luỵ”.

Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để “nói xấu” họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn – vợ con – học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên Bộ chính trị ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại “gia trưởng”, “nho giáo cuối mùa” hơn ai hết!

Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist” (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).

*

*    *

Ông giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một “cậu Tú” ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày 23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm 1954 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học.

Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.

Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn nhân và gia đình” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.

Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable” (nguyên văn có nghĩa: không thể “thọ” được).

Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!

Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống “khủng hoảng toàn diện”?

Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người “tự do”, tính ưa phóng khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!

Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc “Cách mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.

Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et Marxisme” (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!

Đầu thế kỷ XX, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.

Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ…

Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác-Lê thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân – Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.

Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.

*

*     *

Dưới thời Quân chủ – Nông dân – Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ vi CÔNG”.

Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.

Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.

Xây “đời sống mới” năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: “Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, v.v… và v.v…

Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi…

Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn “bướng bỉnh” của một nước Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.

Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:

CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là “của công”, nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo dòng máu.

Dân gian nói giản dị:

Trống làng ai đánh thì thùng

Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng!

Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng thôi!

 Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày- khảo cổ ,đêm- khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố “Định Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang “Bài học Định Công” của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:

- “Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá – Thông tin).

Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!

Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: “Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:

- Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.

- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.

- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.

- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.

Vụ án “văn tự” này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ?

Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền thống người già Việt Nam”. Báo Đại Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.

Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm “chứng từ thanh toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết “Thánh Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị…!

Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy? Hay là tại dân gian “nói cạnh” các cụ: Có tật giật mình?

*

*    *

Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, “trở thành chính mình”. Nhưng xã hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:

Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có phúc” mà vẫn không thích “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.

Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”.

Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi sơn hà”.

Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng đầu thì dại, “không ngoan” nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời phải thế”.

Vì ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.

Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng.

Chỉ còn một cách để “đổi đời” cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian…

Tóm một chữ thì không phải là chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…

Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)

“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm thay!

Cornell 01/5/1991

© Gốc Sậy 2013.