14/01/2023

Ý nghĩa của việc thắp 3 nén hương, vái 3 vái khi lên chùa lễ Phật



Vào ngày lễ, tết hay kết hôn rất nhiều người thường có tâm niệm muốn đi lễ chùa bái Phật. Họ thắp hương, vái lạy trước tượng Phật cầu xin được khỏe mạnh, tiêu tai, thăng quan phát tài, tình duyên tốt đẹp hay thi cử đỗ đạt…
Đối với nhiều người, việc đưa tay lấy ba nén hương và vái ba vái trước tượng Phật tựa như hành động “tập mãi thành quen” mà không hiểu ý nghĩa đằng sau của hành động này.
Kỳ thực “ba nén hương” và “ba vái” là có nội hàm ý nghĩa sâu xa ở đằng sau. Nếu như có thể hiểu rõ hàm ý này, rất có thể “trời xanh có mắt” chứng kiến tấm lòng thành kính của chúng ta mà có thể phù hộ!
Chúng ta thắp “ba nén hương” trước tượng Phật là có ý nghĩa tương ứng với “giới, định, huệ”. Nén hương thứ nhất được gọi là “giới hương” tức là trước mặt tượng Phật biểu đạt lòng quyết tâm của mình, từ bỏ thói quen xấu và ý nghĩ xằng bậy của mình. Nén hương thứ hai được gọi là “định hương” là có ý hy vọng đối với bất kỳ sự việc nào xảy ra thì bản thân cũng có thể tĩnh được, bình tĩnh mà xử sự. Nén hương thứ ba được gọi là “huệ hương” (hay “tuệ hương”) là có ý khẩn cầu bản thân có được trí tuệ, khai ngộ mà gặp được Phật tâm.
Theo kinh Phật giáo thì “giới, định, huệ” là phương pháp “phá mê khai ngộ” và cũng là một loại quan hệ nhân quả.
Chỉ có từ bó thói quen xấu và ý nghĩ xằng bậy của bản thân thì tâm mới có thể định xuống được. Khi tâm đã định được rồi mới sinh ra kết quả “định sinh huệ”.
Vậy vì sao phải vái ba vái? Vái thứ nhất là thể hiện cho tâm lễ kính Phật. Vái thứ hai là thể hiện nguyện vọng mong muốn được giác ngộ, nguyện lòng hướng Phật. Vái thứ ba là trang nghiêm sám hối lỗi lầm của mình trước Phật.
Như vậy có thể thấy rằng, thắp hương và bái Phật không phải chỉ là hành động “theo thói quen” hay hành động “bề ngoài” mà chính là thể hiện cái tâm của con người. Cho nên, người xưa có câu “không thắp hương không bái lạy mà vẫn được phúc báo” chính là có ý nói rằng cái tâm của con người mới là yếu tố quan trọng nhất và được Thần linh nhìn thấy rõ.

5 trong số nhiều món nem Việt đặc sắc

 

 Các bạn đã đi nhiều, biết lắm hẳn biết và đã nếm nhiều món ngon trên giải đất hình chữ S - Việt Nam ta. Mình nói thêm chút về một số món nem "độc nhất vô nhị" ở các vùng miền của Việt Nam.



Đặc điểm địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc thù ẩm thực riêng của từng vùng - miền, góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú và đa dạng hơn.

Nói một cách cảm tính rằng, đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lộ trong sự đối sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới: món ăn Trung Hoa bổ, món ăn Nhật nhìn thích mắt... thì món ăn Việt ngon miệng.

Nem tai Hà thành


Nem tai được coi là một món ăn vô cùng độc đáo của Hà Nội, món ăn này được dùng rất phổ biến trong gia đình, trong các bàn tiệc và là món quà rất có ý nghĩa mỗi khi đi xa. Không những vậy, đây còn là món ăn rất nổi tiếng với du khách thập phương.

Có người nói nem tai xuất xứ từ Nam Định, được du nhập vào Hà Nội bởi một người con gái, khi lấy chồng ở Ước Lễ (Hà Tây). Đã kết hợp nem tai gia truyền với chả giò và nem chua, hai món đặc sản nổi tiếng của làng Ước Lễ để trở thành một món ăn thơm ngon và có vị rất lạ.

Do đòi hỏi sự tỷ mỉ và cẩn thận rất lớn, ngay từ khi chọn tai, người làm phải lấy tai của con lợn khỏe mạnh, vì như vậy thịt tai sẽ dày dặn, to bản và ít diềm hơn. Tiếp đó là làm sạch tai, đây là khâu vô cùng quan trọng và cần sự tỷ mỉ; nếu không sạch, sẽ để lại mùi và ảnh hưởng đến thời gian bảo quản. Sau đó là hấp cách thuỷ từng mẻ một để tai không bị mất nước mà vẫn đảm bảo độ giòn, mềm.

Công đoạn thái tai yêu cầu dao phải mài thật sắc để thái cho thật chuẩn, không được dày quá vì ăn sẽ mất ngon và cũng không được mỏng quá vì sẽ không giòn và mất vị. Thế nhưng, khâu cuối cùng quan trọng nhất, quyết định thành công của món nem tai vẫn là thính - được làm từ bột đỗ xanh, đỗ tương, gạo nếp, gạo tẻ và một số gia vị khác. Những nguyên liệu này được rang liu riu trước khi hạ thổ, rồi lại rang vàng, sau đó cho vào cối xay nhuyễn và trộn đều vào tai lợn.

Khi thưởng thức, nem tai được cuộn vào chiếc bánh đa nem kèm với một vài miếng sung muối chua, một ít lá sung, lá đinh lăng, một vài lá kinh giới, cộng với một lát giò lụa hoặc một nửa chiếc nem chua. Chấm vào nước mắm dấm cay nhẹ, sẽ khiến cho bạn hay bất kỳ ai đều phải nhớ mãi món ăn này.

Nem nắm Giao Thủy


Nem nắm Giao Thủy (Nam Định) nổi tiếng từ thời nhà Trần. Tương truyền rằng, khi các vua Trần chọn phủ Thiên Trường làm nơi ngự, các làng nghề đã được hình thành. Món nem nắm Giao Thủy cũng được xem là đặc sản dâng vua thời đó.

Là sản phẩm của nền văn minh lúa nước, nem nắm Giao Thủy được làm từ bì và thịt lợn trộn đều với thính gạo lẫn với các phụ gia khác như tỏi và nước mắm…, rồi nắm trong lá sung và lá đinh lăng. Bì lợn làm nem được lựa chọn kỹ càng từ da của những con lợn khỏe mạnh, không quá già hoặc quá non. Sau khi loại bỏ lông và phần mỡ dính dưới da, bì lợn được đem luộc chín tới (nước sôi khoảng 3- 5 phút) để bì vừa dai lại vừa mềm; nếu luộc kỹ bì sẽ bị keo dính ăn không ngon. Bì phải thái mỏng bằng tay, tuyệt đối không dùng bằng máy thái.

Thịt lợn làm nem được chọn ở phần đầu, phần thịt có lẫn chút mỡ. Vị thơm của món nem phần nhiều là do thính gạo tạo nên. Người Giao Thủy đã dùng thứ gạo thơm ngon nhất vùng chiêm trũng để làm thính, do đó tạo nên hương vị đặc trưng phân biệt với vùng khác.

Để thưởng thức cuốn nem nắm vào chiếc lá sung sần sần, thêm ít rau thơm rồi nhón qua bát nước mắm Sa Châu (xã Giao Châu, huyện Giao Thủy). Thứ nước mắm này cũng rất nổi tiếng, nó được làm theo cách cổ truyền, cá được nấu chín tự nhiên, không qua tẩm ướp, sau chừng 6 tháng mới mang ra vắt lấy nước mắm nguyên chất. Sau đó, mắm lại được phơi nắng nóng rồi cho vào vại sành chôn xuống đất thêm 6 tháng nữa. Vậy là phải mất ngót 1 năm, nước mắm Sa Châu mới được mang ra để ăn với nem nắm.

Nem chua xứ Thanh


Nhắc đến hương vị ẩm thực xứ Thanh không thể không kể đến đặc sản nem chua - có vị lạ rất khác với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán hay nem tai. Nó vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị, có vị ngọt của thịt làm ta không thể không ăn tiếp vài cái nữa.

Làm nem là một nghề độc đáo, không khó nhưng phải có những bí quyết nhất định. Nguyên liệu chủ yếu bao gồm thịt nạc xay nhuyễn; bì lợn luộc chín, cạo thật sạch, lạng mỏng bỏ vào máy cán thành sợi, ngắn chừng 3cm; thính là gạo tẻ rang vàng, xay nhỏ mịn. Gia giảm còn có men, tiêu bắc, muối tinh và bột ngọt vừa đủ...

Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là khâu pha chế: thứ gì làm trước, thứ gì làm sau, ngào trộn như thế nào…và khâu vệ sinh cũng như kỹ thuật gói nem cũng rất nghiêm ngặt. Do vậy, phải thực sự là con nhà nòi mới làm nên món ăn lạ miệng và lôi cuốn. Lá chuối, lạt buộc là thứ vật liệu làm nem chua. Tước lá chuối khoảng 3 đến 4 cm, xếp gọn lên nia hoặc rổ rá, lạt buộc phải mềm, dẻo, sợi to nhỏ tuỳ theo kích thước của nem (hiện nay thay bằng chun vòng). Đôi tay dẻo dai, mềm mại của người làm nem bắt đầu tỉ mẩn nặn từng viên thịt, thường thì kích cỡ khoảng gấp đôi quân cờ. Lá chuối khi rửa sạch, phơi khô được quấn xung quanh viên thịt có lá đinh lăng tô điểm. Quấn nhiều lá khiến chiếc nem có thể to gấp 10 lần đến 15 lần lúc đầu, thành một hình vuông xinh xắn. Những ngón tay thoăn thoắt gói khoảng 1 phút, sau đó lạt buộc chắc tay làm sao cho lá không rơi ra mà chiếc nem vẫn xanh và đẹp.

Tuỳ theo thời tiết có thể ăn nem, mùa hè thì độ 5 tiếng đã có nem ăn, mùa đông thì 1 đến 2 ngày. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề cũng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân. Ngày lễ Tết hoặc cưới xin, nem chua trở thành món ngon không thể thiếu. Kèm với những cặp bánh chưng xanh, những chiếc giò ngày Tết là những xâu nem chua làm từ chất liệu quê hương mời khách đến chơi nhà.

Nem lụi Huế


Nem lụi là món ăn độc đáo của Huế, rất được mọi người yêu thích, đặc biệt là các bạn gái mê ăn vặt và những đồ "cuốn cuốn, chấm chấm".

Nem lụi làm từ thịt lợn nạc còn nóng, quết nhuyễn như quết chả rồi trộn với bì và mỡ làm sạch, thái hạt lựu, nhồi kỹ, ướp với các loại gia vị như tiêu, hành, mắm, đường, thính, muối... Khi khách gọi, chủ quán xiên thành từng xâu nhỏ rồi nướng trên bếp than hoa đỏ rực, thơm nức, tỏa lan khắp đoạn phố như mời gọi, như níu kéo người đi đường.

Nước lèo là thứ quyết định chất lượng nem lụi, là món gia truyền khó bắt chước được. Nước lèo ăn nem lụi được chế biến từ hàng chục loại thực phẩm như dầu thực vật, vừng lạc, bột đao, một số vị thuốc bắc, thuốc nam... Tất cả các nguyên liệu đó được chế biến thành một hỗn hợp sền sệt vừa thơm vừa ngậy, ngọt bùi, ăn một lần là nhớ mãi. Loại nước lèo này tương tự như nước lèo ăn bánh khoái, bún thịt nướng.

Thông thường, người ta ăn kèm nem lụi với bánh tráng, rau thơm, khế chua, chuối xanh, sung, giá sống, vài lát ớt, tỏi, gừng thái chỉ… tùy theo khẩu vị mỗi người. Món ăn là sự kết hợp hài hòa của các hương vị: mùi thơm của miếng thịt đã nướng vàng, chút cay cay của tiêu và ớt, độ ngọt và bùi bùi của nước chấm sền sệt, vị tươi mát từ rau xanh...

Nem nướng Nha Trang


Đặc sản Nha Trang gồm rất nhiều món gắn với hương vị biển, nhưng cũng có những món nghe qua chẳng có gì dính dáng đến biển, trong đó có nem nướng.

Món nem nướng Nha Trang được làm từ nạc đùi loại thật tươi, vừa mới xả thì khi làm nem mới ngon, dẽ và thơm. Thịt vừa xẻ được quết mịn, ướp thêm ít gia vị đậm đà, xiên que rồi nướng trên bếp than hồng cho thịt nem vàng ươm. Sau đó, cuốn với miếng bánh tráng mỏng dai, trong suốt cùng chả ram chiên vàng rộm; ăn kèm với các loại rau sống, rau thơm, khế chua, chuối chát... và chấm với nước tương được chế biến từ hơn 20 loại gia vị theo bí quyết gia truyền.

13/01/2023

Phố đông không thấy mặt người

Lướt web thấy mấy ảnh thú vị về giao thông ở Hà Nội của tác giả Phạm Thành Long nên đăng lên cùng các bạn thưởng lãm. Mình nhặt từ Vietnamnet.

Đây là tập hợp nhiều bức ảnh ghép lại bằng công nghệ số.









Cần hiểu kết quả xét nghiệm cơ bản về máu như thế nào?

- Các ký hiệu đơn vị sử dụng:

  + M/µl  một triệu (milion, 106)  trong một micro lít (một milimét khối)

  + G/l     một tỷ (giga, 109) trong một lít

  + K/µl   một nghìn (kilô, 103) trong một micro lít (một milimét khối)

  + T/l     một nghìn tỷ  (teta, 1012) trong một lít (một đềximét khối)

  + mg/dl  miligram trong một đềxilít (hay 100 mililít) , có khi ghi là mg%

  + fl        femto lít  (10-15 lít)

  + pg       pikogram (10-12 g)

  + mmol/l, µmol/l, nmol/l: mili-, micro-, nano mol trong một lít (mol là đơn vị đo lường dùng trong hóa học nhằm diễn tả lượng chất có chứa 6,02×1023 hạt đơn vị  (hằng số Avogadro)).

Bạn cũng không cần phải nhớ các đơn vị này. Thông thường trong kết quả xét nghiệm ta chỉ cần so với chuẩn cho ở đó là đủ. Đôi khi họ ghi chữ H (viết tắt chữ high), dấu mũi tên … đi lên tức là cao hơn chuẩn; hoặc chữ L (viết tắt chữ low), dấu mũi tên đi xuống… nghĩa là thấp hơn chuẩn.

 

Cần hiểu kết quả xét nghiệm ra sao?

 

RBC

(Red Blood Cell, krwinki czerwone, hồng cầu). Có khi còn ghi là erytrocyty

 

 

 

 

 

Giá trị chuẩn:

- trẻ sơ sinh: 3,8 M/µl

- nữ: 3,9-5,6 M/µl

- nam: 4,5-6,5 M/µl

Hồng cầu hình thành trong tủy xương, có chức năng vận chuyển ôxy (do nó có chứa hemoglobin) từ phổi đến nuôi các tế bào. Để tạo ra hồng cầu, cơ thể cần dùng nhiều chất như sắt, đường glucô, axit folic, vitamin B6 và B12..nếu thiếu các chất này hồng cầu sinh ra sẽ có dị dạng hay thay đổi kích thước..

Hiếm khi số lượng hồng cầu vượt chuẩn (ví dụ có thể xuất hiện ở những người sống ở vùng núi cao, các nhà thể thao dùng chất doping).

RBC ở dưới chuẩn là biểu hiện thiếu máu, hay bị mất máu (do chảy máu trong ở dạ dày hay tá tràng), hoặc thiếu chất sắt, vitamin B12, axit folic. Cũng có khi hồng cầu bị hủy hoại do tác động của một số nhân tố đồng thời nào đó. RBC dưới chuẩn cũng xuất hiện ở phụ nữ có mang, người mắc bệnh thận, ung thư.

HGB

(nồng độ hemoglobin)

Giá trị chuẩn:

- nữ: 6,8-9,3 mmol/l hoặc 11,5-15,5 g/dl

- nam: 7,4-10,5 mmol/l hoặc 13,5-17,5 g/dl

Hemoglobin (huyết sắc tố) là chất đạm (protein) chứa trong hồng cầu cho phép vận chuyển ôxy từ phổi đến tế bào và và chuyển ngược lại khí cacbonic từ tế bào về phổi. Nó có mầu đỏ, do thế mà có tên gọi của hồng cầu.

HGB vượt chuẩn có thể làm máu đặc hơn, dễ sinh tắc mạch hoặc chứng tỏ cơ thể bị thiếu nước. HBG dưới chuẩn là biểu hiện bệnh thiếu máu (tiếng Anh và Ba lan: anemia)

HCT

(chỉ số  hematokryt)

 

Giá trị chuẩn:

- trẻ em dưới 15 tuổi: 35-39%

- nữ: 37-47%

- nam: 40-51%

Chỉ số này cho biết hồng cầu chiếm bao nhiêu phần trăm thể tích máu.

HCT cao khi cơ thể thiếu nước hay mắc một  loại bệnh ung thư máu (tiếng Anh và Ba lan: polycythemia vera, czerwienica).

HCT thấp có thể do thiếu máu, nhưng để xác định thiếu máu loại gì ta cần xét nghiệm thêm: thể tích trung bình của hồng cầu (MCV), khối lượng hemoglobin trong hồng cầu (MCH) và nồng độ của nó (MCHC)

MCV

Mean Corpuscular Volume, thể tích trung bình của hồng cầu

 

Giá trị chuẩn:

80-97 fl

MCV cho ta biết hồng cầu có kích thước chuẩn không, hoặc bé hay to hơn bình thường.

Giá trị MCV quá cao không có nghĩa là bạn bị bệnh gì, nhưng nếu số này vượt quá 110fl thì thiếu máu có thể do thiếu vitamin B12 hay axit folic. Lưu ý là ăn chay quá mức có thể sinh ra thiếu vitamin B12.

MCV thấp có thể do cơ thể thiếu chất sắt.

MCH

Mean Corpuscular Hemoglobin, lượng trung bình hemoglobin trong hồng cầu

 

Giá trị chuẩn:

26-32 pg

MCH thấp chứng tỏ máu không đủ độ đỏ, chủ yếu do thiếu chất sắt

MCHC

Mean Corpuscular Hemoglobin Concentration, nồng độ trung bình hemoglobin trong hồng cầu

 

Giá trị chuẩn:

31-36 g/dl hoặc 20-22 mmol/l

MCHC dưới chuẩn là biểu hiện đặc trưng sự thiếu máu do thiếu sắt, hay gặp ở phụ nữ lúc hành kinh

RDW

Red Cell Distribution With, chỉ số độ đồng đều về kích thước của hồng cầu

 

Giá trị chuẩn:

80-94 fl; 11,5-14,5%

Đây là giá trị thống kê trung bình. Nếu RDW cao ví dụ như 20% thì trong 1 milimet khối máu có nhiều cả hồng cầu to và bé, còn khi RDW là 12% thì tất cả hồng cầu có kích thước như nhau.

RDW trên chuẩn xuất hiện trong tất cả các trường hợp thiếu máu

RET

Retykulocyty, hồng cầu non

 

 

Giá trị chuẩn:

5-15  phần nghìn

Các hồng cầu mới sinh ra còn non, chưa „trưởng thành”. Nó rất ít nên tính bằng phần nghìn. Chỉ số này cho biết mức độ hoạt  động của tủy xương (bone marrow, szpik kostny), ví dụ như khi RET là 30 phần nghìn thì tủy xương sản xuất ra nhiều hồng cầu và chuyển vào máu nhanh quá (không có thời gian chờ để „lớn” trong tủy xương)

RET tăng khi cơ thể thiếu ôxy hay mất máu rất nhiều. RET thấp khi thiếu máu do tủy xương tạo ra ít hồng cầu 

PLT

Platelets hay thrombocytes, płytki krwi

 

 

 

 

Giá trị chuẩn:

140-440 K/µl (G/l)

 

  

Trombocyt là một thành phần của máu, là một dạng tế bào không có nhân, có dạng hình đĩa dẹt và với phần lớn các động vật có xương sống, nó có tác dụng quan trọng làm đông máu ở các chỗ mạch máu bị tổn thương.

PLT có giá trị cao lúc viêm nhiễm cấp tính, khi dùng sức nhiều, lúc thiếu chất sắt, sau khi cắt lá lách, phụ nữ có mang hoặc bẩm sinh.

PLT thấp hơn chuẩn có thể do hoạt động không bình thường của tủy xương (ví dụ như bị ung thư di căn vào tủy xương hoặc bệnh ung thư máu cấp tính). Cũng có khi do dùng một số loại thuốc hay nó bị các chất độc của vi trùng hủy diệt. Khi giá trị của nó thấp dưới 50 G/l mới được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.

MPV

Mean Platelet Volume, thể tích trung bình của trombocyt

 

Giá trị chuẩn:

9-13 fl

WBC

White Blood Cell, leukocyt, bạch cầu

 

 

 

 

 

 

Giá trị chuẩn:

4,1-10,9 K/µl (G/l)

Bạch cầu hình thành trong tủy xương, một số loại hình thành  ở các nơi khác ví dụ như lá lách (tiếng Anh: spleen, Ba lan: śledzione). Nhiệm vụ chính của chúng là chiến đấu với các chỗ cơ thể bị nhiễm trùng. Bạch cầu có các loại: tế bào lympho (limfocyty), bạch cầu đơn nhân (monocyty) và bạch cầu dạng hạt (granulocyty). Mỗi loại làm một nhiệm vụ khác nhau như tiêu diệt tác nhân gây bệnh, sản xuất ra kháng thể, giúp cho cơ thể chống lại các bệnh nhiễm trùng và các tác nhân gây dị ứng.

Chỉ số WBC cao khi cơ thể bị nhiễm trùng, viêm nhiễm cục bộ hay toàn thân, bệnh ung thư máu (đôi khi nó cũng cao sau khi làm việc chân tay quá mức, bị stress nặng hay sau khi phơi nắng lâu).

Chỉ số WBC thấp dưới chuẩn có thể do thiếu bạch cầu dạng hạt, tế bào lympho hoặc thiếu đồng thời tất cả các loại bạch cầu. Cũng có thể do tủy xương bị tổn thương hay do bệnh cũng như các triệu chứng sinh ra do quá trình chữa bệnh (ví dụ như phần lớn các thuốc chữa ung thư đều làm giảm lượng bạch cầu dạng hạt)

GRAN

Granulocyte, granulocyty, bạch cầu dạng hạt

 

Giá trị chuẩn:

2-7 K/µl (G/l)

Bạch cầu hạt (granulocyte) được đặc trưng bởi các hạt nhuộm màu khác nhau trong tế bào chất dưới kính hiển vi quang học. Có ba loại bạch cầu hạt: bạch cầu trung tính (neutrofile), bạch cầu ái kiềm (basofile) và bạch cầu ái toan (eozynofile) (được đặt tên theo các thuộc tính nhuộm màu của chúng).

NEUT

Neutrofile, neutrocyty, bạch cầu dạng hạt trung tính

 

 

 

Giá trị chuẩn:

2,5-6,5 K/µl (G/l)

Chỉ số bạch cầu trung tính cao khi có viêm nhiễm cục bộ hay toàn thân, ung thư, ung thư máu (nhất là ung thư tủy xương), nó cũng xuất hiện sau khi bị thương, chảy máu, trụy tim, các bệnh về chuyển hóa thức ăn, người nghiện thuốc lá, phụ nữ có mang lúc trong 3 tháng trước khi sinh.

Chỉ số bạch cầu trung tính thấp hơn chuẩn khi tủy xương bị tổn thương, bệnh ung thư máu cấp tính, các bệnh do virus gây ra (như cúm, sởi), do vi khuẩn (lao, bệnh thương hàn, kiết lỵ), sốt rét hay khi đang dùng thuốc chữa bệnh ung thư. Khi số bạch cầu trung tính giảm dưới mức 1000/µl, cơ thể bị giảm sức đề kháng, và nếu bị nhiễm trùng sẽ có thể ở trạng thái nguy hiểm chết người.

EOS

Eozynofile, eozynocyty, bạch cầu ái toan

 

 

 

Giá trị chuẩn:

0,1-0,3 K/µl (G/l)

Chỉ số bạch cầu ái toan cao khi: bị dị ứng (hen), bệnh do ký sinh trùng gây ra, các bệnh của máu (ung thư hạch bạch huyết), bệnh vẩy nến (łuszczyca), khi đang dùng một số loại thuốc (như penixilin).

Chỉ số bạch cầu ái toan thấp hơn chuẩn khi: bị nhiễm trùng, bị thương, bệnh thương hàn (typhoid fever, dur brzuszny), đi ngoài ra máu (dysentery, czerwonki), bị bỏng. Chỉ số này cũng thấp khi bị lao lực hay do tuyến thượng thận tiết ra quá nhiều hooc-môn.

BASO

Bazofile, bazocyty, bạch cầu ái kiềm

 

Giá trị chuẩn:

0,1 K/µl (G/l)

Chỉ số bạch cầu ái kiềm cao khi ta bị dị ứng, bệnh ung thư tủy xương cấp tính, viêm cấp tính đường tiêu hóa, thiểu năng tuyến giáp trạng hay ở trong giai đoạn hồi phục sau khi bị nhiễm trùng.

LYM

Limfocyty, tế bào lympho

 

 

 

 

Giá trị chuẩn:

0,6-4,1 K/µl; 20-45%

Đây là các tế bào chủ yếu của hệ miễn dịch. Chúng được chia ra hai loại: tế bào lympho B sản xuất ra kháng thể để tiêu diệt các vi trùng nằm giữa các tế bào trong cơ thể, có thể coi như các viên đạn của hệ thống phòng thủ của người, tế bào lympho T tiêu diệt các virus nằm trong tế bào, chúng có khả năng phân biệt các tế bào lành và tế bào đã nhiễm bệnh.

LYM có chỉ số cao khi: ung thư hệ bạch huyết (chłoniaki), ung thư hệ tạo máu (multiple myeloma, szpiczak mnogi), ung thư cấp tính của các tế bào lympho, cường tuyến giáp, khi trẻ em bị các bệnh lây. Chú ý: trẻ em dưới 4 tuổi có số tế bào lympho nhiều hơn người lớn và một việc bình thường!

Việc giảm số lượng tế bào lympho ở người lớn có thể là dấu hiệu của bệnh AIDS hoặc ít gặp hơn là do nhiễm virus. Ở trẻ em có thể do bẩm sinh và cần được điều trị sớm.

MONO

Monocyty, bạch cầu đơn nhân

 

 

 

 

Giá trị chuẩn:

0,1-0,4 G/l

Bạch cầu đơn nhân có chức năng dọn dẹp các vật thể lạ bằng cách nuốt chúng vào trong. Nó cũng có tiết ra các chất hóa học nhằm thông tin để cơ thể điều chỉnh hoạt động của các tế bào: ví dụ nó báo cho hệ thống phòng thủ khi cơ thể bị viêm nhiễm và kích hoạt hệ miễn dịch hoạt động.

MONO có thể tăng cao hơn chuẩn khi: bệnh Pfeiffer (Pfeiffer's disease, mononucleoza zakaźna), cơ thể mắc bệnh do vi khuẩn gây ra như lao, lậu, bệnh Brucellosis, bệnh Crohn, cũng như sau phẫu thuật, ung thư tế bào đơn nhân.

Giá trị MONO thấp hơn chuẩn có thể xảy ra khi cơ thể bị nhiễm khuẩn, hoặc do đang dùng một số loại thuốc. Tuy nhiên nó không có ý nghĩa quan trọng trong thực tế.

OB

odczyn Bienackiego, sự lắng đọng của hồng cầu

 

 

 

 

 

Giá trị chuẩn:

2-8mm/h

Ở Ba lan, các bác sỹ hay cho làm xét nghiệm OB. Đây là một xét nghiệm đơn giản. Máu được hòa với một chất lỏng để chống đông và cho vào một ống nghiệm thủy tinh để thẳng đứng có vạch đo milimét. Người ta đo tốc độ lắng đọng xuống của hồng cầu: xem chiều cao của cột hồng cầu giảm đi bao nhiêu sau một giờ. Cũng có khi người ta áp dụng phương pháp đo kết quả sau 7 và 10 phút.

Chỉ số OB cao chứng tỏ trong cơ thể có viêm nhiễm, có bệnh lao, một số bệnh về gan cũng như ung thư. Nếu OB là số có 3 chữ số có thể nghi là người bệnh bị ung thư hệ tạo máu hay bị ung thư ở giai đoạn tiến triển cao.

Chú ý: tốc độ lắng nhanh của hồng cầu có thể là dấu hiệu của viêm nhiễm hay ung thư, nhưng không phải là dấu hiệu chắc chắn. Bạn cần coi đó là tín hiệu nhắc bạn đi gặp bác sỹ ngay lập tức thôi!