07/02/2025

Phương tiện di chuyển của vua, quan ... thời Nguyễn

 Bài đăng từ saigonxua


Bắt đầu từ triều Nguyễn (1802-1945) vua chúa mỗi lần xuất cung đều dùng kiệu để đi lại. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, đã dành hẳn chương Nghi vệ (quyển 79) để miêu tả các loại kiệu dùng cho vua quan triều Nguyễn, với những quy định rất cụ thể về tên gọi, số lượng kiệu cùng các nghi trượng đi kèm, tùy thuộc vào thời thế, địa vị và thứ bậc của người sử dụng.

Dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820), xe kiệu của vua có 4 chiếc, gồm 1 chiếc Ngọc lộ, 1 chiếc Kim lộ và 2 chiếc Kim bảo dư. Sang triều Minh Mạng (1820 – 1841), vua có 5 chiếc, được đặt tên là Cách lộ, Kim lộ, Ngọc lộ, Tượng lộ và Mộc lộ. Tùy mục đích chuyến đi, nhà vua quyết định dùng loại “xe” nào.

Kiệu Vua Duy Tân  

Kiệu vua Duy Tân

Sách cũng cho biết khi vua đi chơi thì không thực hiện đầy đủ nghi thức như khi vua đi cúng tế ở các đàn miếu. Lúc này nhà vua chỉ sử dụng 1 chiếc lọng vàng thêu hình rồng để che mưa nắng, có đội quân tiền đạo và hậu hổ đi theo hộ tống. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua quy định: ngự giá đi trong phạm vi Hoàng Thành thì phải giảm bớt một nửa số cờ quạt và không cần voi ngựa hộ tống để tránh… “kẹt đường”.

Kiệu của hoàng thái hậu, gọi là Từ giá, cũng hoành tráng không kém, gồm 1 Phượng dư và 1 Phượng liễn. Lỗ bộ tháp tùng Từ giá có 2 lá cờ rồng, 2 lá cờ phượng, 2 lá cờ thanh đạo, 8 lá cờ phướn, 2 quạt thêu hình rồng phượng màu vàng, 4 quạt thêu hình rồng phượng màu đỏ, 4 quạt thêu hình loan phượng màu xanh và thêm 20 thứ binh khí hộ vệ.

Kiệu của thái tử chỉ có 1 chiếc, gọi là xe Bộ liễn. Lỗ bộ tháp tùng xe này chỉ có 1 cờ lệnh, 2 cờ xanh, 2 cờ đỏ, 2 cờ vàng, 2 cờ trắng, 2 cờ đen, 8 lá cờ phướn, 1 chiếc tán hình tròn thêu hình 7 con rồng, 4 chiếc tán hình vuông, 4 chiếc 

Cựu hoàng Hàm Nghi trên chiếc xe ngựa với ý trung nhân, Bà Laloe  

Cựu hoàng Hàm Nghi trên chiếc xe ngựa với ý trung nhân, Bà Laloe

Sang triều Khải Định (1916-1925), nhà vua được người Pháp tặng cho một chiếc xe hơi nhân lễ Tứ tuần Đại khánh (mừng thọ vua 40 tuổi). Từ đó, ngoài việc dùng ngự giá truyền thống trong các dịp tế lễ, đôi khi vua Khải Định còn dùng xe hơi để du ngoạn hay đi săn bắn ở bên ngoài Hoàng Thành.

Trước đó, triều đình có cho dựng ở phía trước Ngọ Môn 2 tấm bia đá, trên bia có ghi 4 chữ Hán: Khuynh cái hạ mã, nghĩa là khi đi ngang qua đây thì mọi người phải nghiêng lọng và xuống ngựa. Kể từ khi vua Khải Định dùng xe hơi, thì 2 tấm bia này không còn thích hợp nữa. Vì thế, triều đình đã cho nhổ 2 tấm bia này đưa vào cất giữ trong kho của Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).

Đây cũng là nơi đang trưng bày chiếc kiệu sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại, dùng để đi lại trong phạm vi Hoàng Thành Huế. Ngoài ra, trong kho của Bảo tàng này đang lưu giữ chiếc kiệu mà vua Bảo Đại đã từng dùng khi đi tế Nam Giao vào năm 1935.

Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, kiệu vẫn được sử dụng nhưng đối tượng dùng kiệu được mở rộng. Vào thời này, kiệu còn dành cho các quan thuộc địa người Pháp cùng gia đình và những chức sắc người bản xứ trong việc đi kinh lý hoặc ngoạn cảnh. Trong những bức hình du ngoạn bãi biển Đồ Sơn dưới đây, người khiêng kiệu đều là phụ nữ bản xứ, họ gánh kiệu trên 2 thanh gỗ ngang và kiệu được đặt trên 2 thanh dọc dài hơn.

Kiệu dành cho gia đình quan chức người bản xứ  

Kiệu dành cho gia đình quan chức người bản xứ

Vào thời phong kiến, quan lại triều Nguyễn không được phép dùng kiệu mà chỉ ngồi võng có mui che, được khiêng bởi 4 người lính. Đòn ngang của võng sơn son thếp vàng, khắc hình con giao long, đòn dọc của võng khắc hình con thú ứng với phẩm trật của vị quan ngồi trên võng.

Võng bằng lụa màu hồng. Mui che võng được quang dầu màu xanh để che mưa nắng. Quan lại trên hàng nhất phẩm thì có 4 người lính vác 4 chiếc lọng theo hầu, quan nhất phẩm chỉ có 3 lọng, quan nhị phẩm chỉ có 2 lọng và quan từ tam phẩm xuống đến cửu phẩm chỉ có 1 người vác lọng theo hầu.

Võng được dùng để phục vụ các quan lại trong triều

 
                                Võng được dùng để phục vụ các quan lại trong triều


Ngoài ra, những tân khoa thi đỗ đều được dùng võng để về làng “Vinh quy, Bái tổ”. Trong ca dao xưa có câu “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” để mô tả sự vinh quang của người học trò thành đạt.

Tin người đỗ đạt được đưa về làng, hương chức, dân làng họp ở đình, cắt cử người ra gập Tân khoa để ấn định ngày vinh quy, rước về nguyên quán. Thường thì đỗ Tú tài chỉ làng xã rước, đỗ Cử nhân hàng huyện phải rước, đỗ Tiến sĩ thì hương lý, trai tráng hàng tổng đem đủ nghi lễ, cờ quạt đón từ tỉnh rước về làng. Tuy nhiên, những người trong họ quan Tân khoa được miễn làm phu phen đi rước.

Kiệu dành cho người Pháp du lịch bãi biển Đồ Sơn

Kiệu dành cho… “Ông Tây, Bà Đầm”

 

Phụ nữ bản xứ vát kiệu bà tây

 Kiệu dành cho… “Ông Tây, Bà Đầm”

Ở đây không đề cập đến các phương tiện di chuyển khác như xe, voi, ngựa... cùng tồn tại trong thời kỳ này.  

 

06/02/2025

Việt Nam ta có chế độ phong kiến không?

 Dựa vào nhiều nguồn tài liệu


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/0e/Ph%C3%B9_%C4%91i%C3%AAu_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BB%95_L%E1%BA%A1c_Long_Qu%C3%A2n_t%E1%BA%A1i_%C4%90%E1%BB%81n_N%E1%BB%99i_B%C3%ACnh_%C4%90%C3%A0.jpg

 

Bảo vật quốc gia - Phù điêu Quốc tổ Lạc Long Quân và các nhân vật thời đại Hùng Vương được lưu giữ tại Đền Nội Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

 

Từ trước đến nay, nhiều tài liệu chính thống ở ta và cả nước ngoài đều gọi thời kỳ triều Nguyễn trở về trước là thời kỳ Phong kiến?

Nếu xét theo định nghĩa của phương Tây và Trung hoa thì không đúng và thực tế là không phải.

Trong một bài viết đăng trên một Diễn đàn khoa học, ông Phạm Trọng Chánh, GS-TS Khoa học Viện Đại Học Paris V khi bàn về hai chữ “Phong kiến”  đã cho rằng:

Về chữ Phong Kiến, dịch từ chữ Fesodale của Pháp. Phong kiến là chế độ nhà vua phong đất cho chư hầu; chư hầu cha truyền con nối làm quan; dân trong vùng đất là nông nô, chư hầu có quyền sinh sát trên mọi người dân. Chư hầu có lâu đài, có quân đội riêng, khi nhà vua cần thì chư hầu làm tướng đánh giặc giúp vua. Chư hầu tốt thì nhân dân được nhờ, chư hầu tàn bạo thì vơ vét bóc lột, cướp của, cướp gái đẹp về làm hầu thiếp riêng. Trong gia đình chư hầu thường có một anh em đi tu, giữ chức cao trong giáo hội, thành Giám mục, Hồng y hay Giáo hoàng. Do đó các tranh chấp chính trị Tây phương thời Trung cổ thường lẫn lộn với tranh chấp phe phái tôn giáo, thậm chí tàn sát nhau như giữa Tin Lành và Công giáo; Giáo hội Rome và Giáo hội Avignon…

Thời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung hoa có thể gọi là thời Phong kiến. Chế độ  “phong” cho các quan lang các bản Mường có vài đặc tính phong kiến. Nhưng đem chữ Phong kiến áp đặt vào toàn thể xã hội Việt Nam ngày xưa thì không đúng. Nhà vua Việt Nam không phong đất cho chư hầu, các quan được tuyển chọn qua ba Kỳ thi: Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình. Các quan không cha truyền con nối, nhà vua trực tiếp bổ nhiệm hay cách chức các quan. Phật Giáo, Khổng Giáo không phải có thần quyền như Thiên Chúa Giáo, không có chiến tranh tôn giáo. Thượng thơ Bộ Lại giúp vua việc tổ chức bổ nhiệm. 

Cũng nói về hai chữ Phong kiến, trên Tạp chí Phụ Nữ Tân Văn số 268 ra ngày 29-11-1934 xuất bản ở Sài Gòn, nhà văn Phan Khôi (1887-1959) có bài viết tựa là “Lịch sử Việt Nam không có chế độ phong kiến” ; trong đó có đoạn :

 “Trong sử Ngoại kỷ nói vua vua Hùng Vương chia nước ra 15 bộ, nhưng cũng nói đặt quan cai trị, chớ không nói để phong con, em, cháu hay là bề tôi có công.

Kể từ Đinh, Lê về sau, nước ta mới thành lập hẳn một nước, song cũng chưa hề đặt ra hay noi theo cái chế độ phong kiến. Triều thì chia nước ra từng lô, triều thì chia nước ra từng xứ, triều thì chia nước ra từng trấn, triều thì chia nước ra từng tỉnh, nhưng thảy đều đặt quan cai trị, thay quyền trung ương mà thống ngự thần dân. Nói tóm một lời, nước ta từ hồi lập quốc về sau, sự tổ chức về chính trị theo lối quận huyện chớ không theo lối phong kiến.

Trải qua các triều vua, vẫn có dùng năm tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam mà phong cho các bề tôi đồng tánh hoặc dị tánh, lại có phong đến tước Vương nữa. Nhưng những người chịu phong tước ấy có danh mà không có thiệt, chẳng hề có ai được đất phong lớn, được hưởng cả huê lợi, được cai trị dân như các vua chư hầu đời xưa dưới chế độ phong kiến.

Đại để mỗi người được phong tước thì vua tuỳ từng đẳng cấp mà ban cho ruộng đất ít nhiều, gọi là “thái địa”. Thái địa ấy tự người được phong muốn chọn nơi nào thì chọn, và được truyền tử lưu tôn như đất tư của mình. Thái địa ít thì chừng mấy mẫu, nhiều thì chừng mấy chục mẫu, nhiều lắm cũng đến choán lấy mấy làng là cùng, chớ không khi nào được đến một tỉnh hay một trấn mà có thể làm một nước nhỏ được. Vả lại người được phong chỉ có quyền về thổ địa mà không có quyền về nhân dân ở trên thổ địa ấy; bao nhiêu người dân từ trước lập nghiệp trên thái địa cũng vẫn trực tiếp chịu quyền cai trị của nhà vua.

Có phong tước, có thái địa, nhưng người được phong không hưởng các quyền cai trị dân chúng ở trong thái địa của mình: điều đó làm cho phân biệt với chế độ phong kiến.

Bởi đó nói rằng nước ta xưa nay không có chế độ phong kiến, cái chế độ ấy chưa hề xuất hiện trong lịch sử nước ta…’’

Nhà Lê: Dòng họ quyền lực nhất thời phong kiến, kéo dài đến 300 năm 

Tìm trong nhiều tài liệu, ta thấy hai chữ “phong kiến” xuất hiện sớm nhất trong sử sách ở cuốn Tả truyện bên Trung Quốc, rằng: “Xưa Chu Công đau buồn vì Nhị thúc không quy phục, nên đã phong kiến (phong đất, dựng lãnh địa) cho thân thích để làm phiên giậu che chắn cho nhà Chu”.

Và cũng giống như sự phân tích của hai tác giả trên, nhiều tài liệu đã ghi chép: “Phong kiến” có nghĩa là “Phong bang Kiến quốc”, tức là phong đất đai và tước vị vương, đứng đầu một vùng lãnh thổ, một nước nhỏ. Thiên tử đem các vùng đất ngoài vùng thiên tử trực tiếp cai quản ra, phân chia phong cho các chư hầu. Chư hầu dưới ân trạch của vị “chủ thiên hạ” (thiên tử), kiến lập quốc gia và quân đội riêng. Đến lượt các chư hầu cũng vậy, trong quốc gia riêng của họ, họ lại đem các vùng đất ngoài sự cai quản trực tiếp của mình ra phân phong cho các khanh đại phu. Mục đích phong bang kiến quốc để cho các chư hầu làm lá chắn bảo vệ lạnh thổ của lãnh chúa phía trong. Cũng có những chư hầu được phong ban có quân đội sức lực riêng, rồi tạo phản xâm lược lại lãnh chúa như thời nhà Chu.

Các nước Á Đông khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên… đều theo mô hình quân chủ thống nhất của Trung hoa từ đời Hán, Đường. Tuy trong lịch sử các nước này cũng có những giai đoạn ngắn cát cứ, nhưng đó là các thế lực tự cát cứ tranh hùng, chứ không phải phong kiến do hoàng đế, quân vương phong đất dựng nước, lãnh địa một cách hợp pháp như thời phong kiến.

Tuy nhiên, ở nước ta, trước 1975 vẫn có nhiều nhà văn, nhà chính trị hiểu rõ những thời mà vua chúa trị vì, và họ gọi đó là “chế độ quân chủ”.


Tư tưởng đề cao pháp luật trong các triều đại phong kiến Việt Nam

Sau khi từ “phong kiến” được sử dụng rộng rãi ở bên Trung Quốc khi đã đuổi Tưởng Giới Thạch sang Đài Loan năm 1949, tất cả các vấn đề liên quan truyền thống đều bị cho là “phong kiến” hay “tàn dư phong kiến”. Và họ đã nhân danh “chống phong kiến” để phá hủy khá nhiều những tinh hoa văn hóa truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc, phá hủy tín ngưỡng vào Thần, Phật, Trời...; các Thần Đất, Núi, Sông, Biển, thậm chí phá hủy cả tượng và đền thờ Khổng Tử, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, gia tộc... 

Mất đi tín ngưỡng Thần Phật, Nhân Quả... khiến cho con người không còn e dè sợ sệt điều gì, cái gì cũng dám làm, vì tiền tài danh lợi, vì tranh đoạt địa vị, danh tiếng mà tìm đủ thủ đoạn tàn sát nhau.

Từ ngữ cứ ngỡ đơn giản, dùng đúng sai cũng chẳng có ảnh hưởng gì, chẳng tác hại gì. Nhưng thực tế, từ ngữ là phản ánh nhận thức của xã hội, nhận thức không chuẩn sẽ làm cho con người hiểu sai lệch lịch sử, văn hóa, nhân văn…, có thể dẫn đến sự xuống cấp cho chính xã hội đó.

Cứ như các căn cứ trên, sao ta còn có thể nói rằng Việt Nam có chế độ Phong kiến.