Công năng của
thập chú
Trong các chùa tụng kinh
Phật có niệm chú, là từ nguyên nhân ngài Ngọc Lâm Quốc Sư triều đại Nhà Thanh
biên soạn hai thời công phu dành cho chư Tăng Ni tu hành, trong đó đặc biệt có
gia hạnh thêm nhiều bài thần chú rất oai linh mầu nhiệm, như chú Lăng nghiêm,
Thập chú, ngũ bộ chú, đại bi chú, vãng Sinh Tịnh độ thần chú … giúp cho chư
Tăng Ni, Phật tử có đủ niềm tin từ lực Phật, Bồ tát gia hộ giải thoát Sinh tử.
1/ NHƯ Ý BẢO
LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI
Namo Buddhaya, Namo
Dharmaya, Namo Sanghaya. Namo Avalokitesvaraya bodhisattvaya mahasattvaya, maha
karunikaya.Tadyatha: OM CHAKRA, VARTTI, CHINTAMANI, MAHA PADMA, RURU, TISTA,
JVALA AKARSAYA, HUM, PHAT, SVAHA.
Âm Hán: Nam
mô Phật đà gia, nam mô đạt ma da, nam mô tăng già da. Nam mô Quán tự tại bồ tát
ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. Đát điệt tha: Án chước yết ra, phạt để, chấn đa
mạt ni, ma ha bát đằng mế, rô rô, (rô rô) để sắt tra, thước la, a yết rị sa dạ,
hồng, phấn, toá ha.
Nam mô Phật đà da
Nam mô Đạt ma da
Nam mô Tăng dà da
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát
Ma Ha Tát, cụ đại bi tâm giả. Đát điệt tha
Án chướt yết ra phạt để,
chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra, thước ra a yết rị,
sa dạ hồng phấn ta ha.
Án, bát đạp ma chấn đa
mạc ni, thước ra hồng
Án, bát lặc; đà bát đẳng
mế hồng .
Nghĩa: Quy y Phật, Quy Y
Pháp, Quy y Tăng. Con xin quy mạng Đức Chuyển luân vương như ý bảo châu đại
liên hoa là Bậc đã xa lìa nội trần và ngoại trần. Con xin an trụ theo ánh lửa
rực rỡ của Ngài để triệu thỉnh chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Chúng, tám bộ Trời
Rồng, chư vị Hộ Pháp giúp cho con phá bại tâm chấp ngã, phát khởi tâm bồ đề,
thành tựu cát tường.
Xuất Xứ: Như
Ý Tâm Đà La Ni Kinh. Nội dung kinh này nói về Bồ tát Quán Tự Tại được sự chấp
thuận của Đức Phật liền tuyên thuyết Vô Chướng Ngại Quán Tự Tại Liên Hoa Như Ý
Bảo Luân Vương Đà La Ni . Đức Phật lại bảo: Nếu người nào tụng chú này 1 biến
thì trừ được tội, qua được tai nạn, thành tựu sự nghiệp. Còn nếu ngày nào cũng
tụng 108 biến thì sẽ có cảm ứng khiến thấy được thế giới Cực Lạc của Đức Phật A
Di Đà và núi Bổ Tát La nơi Bồ tát Quán Thế Âm cư ngụ, khỏi đọa vào đường
ác.
2/ TIÊU TAI
CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Namah samanta,
Buddhanam, apratihatasa, sananam, tadyatha: OM KHA KHA, KHAHI, KHAHI, HUM
HUM, JVALA JVALA, PRAJVALA PRAJVALA, TISTA TISTA, SITIRI SITIRI, SPHATI SPHATI,
SHANTIKA, SRIYE SVAHA.
Âm Hán: Nam
mô tam mãn đà, mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẳng nẫm, đát điệt tha: Án
khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ
ra, bát nhập phạ ra, để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí rị, ta phấn tra ta
phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.
Nẳng mồ tam mãn đa
,mẫu đà nẫm
A bát ra để ,hạ đa xá ta
nẳng nẫm .Đát điệt tha ,
Án khê khê ,khê hế, khê
hế ,hồng hồng ,nhập phạ ra ,nhập phạ ra ,bát ra nhập phạ ra ,bát ra nhập phạ ra
,để sắc sá ,để sắc sá ,sắc trí rĩ ,sắc trí rị ,ta phấn tra ,ta phấn tra ,phiến
để ca,thất rị duệ ,ta phạ ha .
Nghĩa: Hỡi ánh lửa
rực rỡ của Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng đã thiêu cháy mọi năng chấp, sở
chấp hãy tỏa sáng rực rỡ khiến cho con được an trú trong sự gia trì này nhằm
phá tan sự trì độn chậm chạp của Nội Chướng và Ngoại Chướng. Đồng thời khiến
cho con dứt trừ được mọi tai nạn, thành tựu sự an vui tốt lành.
Xuất Xứ:
Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni. Thần chú tiêu trừ
các tai nạn, thành tựu việc cát tường. Một trong 4 Đà La Ni thông dụng trong
Thiền lâm, cũng là pháp Tức Tai trong Mật giáo. Thần chú này xuất phát từ Kinh
Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni và Kinh Đại Oai Đức Kim
Luân Phật Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu Diệt Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni.
3/ CÔNG ÐỨC
BẢO SƠN ÐÀ LA NI
Namo Buddhaya, Namo
Dharmaya, Namo Sanghaya.OM SIDDHI, HOH DHURU, SUDHURU, GARJA, GARBHA, SADHARI,
PURNI, SVAHA.
Âm Hán: Nam
mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da, nam mô Tăng dà gia.Án tất đế, hộ rô rô, tất đô
rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.
Nam mô Phật đà da
Nam mô Đạt ma da
Nam mô Tăng dà da
Án, Tất đế hộ rô rô, tất
đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị ,ta phạ ha .
Nghĩa: Quy y Phật, Quy Y
Pháp, Quy y Tăng. Vinh quang thay sự thành tựu ! Hãy vui vẻ ôm giữ, khéo
ôm giữ kho tàng Chân Như! Hãy khéo giữ gìn tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
Xuất Xứ:
Kinh Ðại Tập (Sutrasamuccaya)Nếu người tụng chú này một biến, công đức cũng
bằng như lễ Ðại Phật Dsinh kinh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến. Lại như chuyển
Ðại Tạng 60 vạn 5 ngàn 4 trăm biến. Tạo tội quá mười cõi sát độ, đọa vào A Tỳ
địa ngục chịu tội, kiếp hết lại Sinh nơi khác để chịu tội. Niệm chú này một
biến, tội kia đều được tiêu diệt, không còn đọa vào địa ngục, khi mạng chung
quyết định vãng Sinh Tây phương thế giới, được thấy Phật A Di Ðà, thượng phẩm
thượng Sinh.
4/ PHẬT MẪU
CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
NAMO SAPTÀNÀM,
SAMYAKSAMBUDDHÀYA, KOTINÀM, TADYATHÀ: OM CALE CULE CUNDHE SVAHA.
Âm Hán: Nam
mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha: Úm chiết lệ chủ
lệ Chuẩn Đề ta bà ha.
Khế thủ quy y tô tất đế,
đầu diện đảnh lễ thất cu chi .
Ngã kim xưng tán đại
Chuẩn Đề, duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam mô tát đa nẫm tam miệu
tam bồ đề, cu chi nẫm, đát diệt tha .
Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn
Đề, ta bà ha .
Nghĩa: Quy mạng bảy trăm triệu đấng Chính Đẳng Chính
Giác - Chân ngôn nói rằng: Khi Thân, Khẩu, Ý hợp nhất với sự Giác Ngộ Phật Tính
sẽ đi thẳng vào Tự Tính thsinh tịnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc của
Đại Niết Bàn.
Xuất Xứ: Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh Người trì
tụng thần chú này đủ chín chục muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, ngũ
nghịch, tiêu trừ tai nạn, bịnh hoạn, tăng nhiều phước thọ.
5/ THÁNH VÔ
LƯỢNG THỌ QUANG MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI
OM NAMO BHAGAVATE,
APARAMITA, AJURJNÀNA, SUVINE, SCITA TEJA RÀJAYA, TATHÀGATÀYA, ARHATE,
SAMYAKSAMBUDDHÀYA, OM SARVA SAMSKÀRA PARI’SUDDHA, DHARMATE, GAGANA,
SAMUDGATE SVÀBHAVA, VISUDDHE, MAHÀ NAYA, PARIVERE, SVÀHÀ.
Âm Hán: Án
nại ma ba cát ngoả đế, a ba ra mật ra đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp
đạp, điệp tả ra để dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã,
đát nể dã tháp.Án tát rị ba, tang tư cát rị, bốc rị thuật đạp, đạt ra mả đế, cả
cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngoả, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa
rị tá hắt.
Án, nại ma ba cát
ngoả đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tả ra
tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế tam dược tam bất đạt dã đát nể dã tháp .
Án, tát rị ba, tang tư
cát bị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại tang mã ngột cả đế, ta ba
ngoả, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngoả rị tá hắt .
Nghĩa: Quy mạng lễ Đức Thế Tôn VÔ LƯỢNG THỌ TRÍ QUYẾT ĐỊNH
QUANG MINH VƯƠNG Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác. OM, tất cả hoạt
động Tâm Ý đều là Pháp Tính cực thsinh tịnh. Thsinh tịnh như Tự Tính thắng
thượng của Hư Không. Hãy phát khởi Thắng Nguyện rộng lớn để mau chóng đạt được
sự an lạc thsinh tịnh của Đại Niết Bàn.
Xuất xứ:
Thánh vô lượng thọ quyết định quang minh vương Như Lai đà la ni kinh.
Công dụng:
Vô Lượng Thọ Như Lai Đà La Ni này , tụng một biến liền tiêu tội 10 ác, 4
trọng, 5 vô gián trong thân. Tất cả nghiệp chướng đều tiêu diệt.
Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni
phạm các tội căn bản, tụng 7 biến liền được trở lại Giới Phẩm thanh tịnh.
Tụng mãn một vạn
biến được Tam Ma Địa, không mất Tâm Bồ Đề, ở trong thân : Tâm Bồ Đề sáng tỏ như
mặt trăng tròn đầy, khi mạng chung thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng vô lượng Câu
Chi Bồ Tát lại nghinh đón, thân tâm vui vẻ , liền được vãng Sinh Thượng Phẩm
Thượng Sinh, chứng Bồ Tát.
Phép niệm Phật A Di
Ðà cầu sinh Tịnh Ðộ là một Ðốn pháp, khiến người tu thấy rõ ngay tâm tính Bồ Ðề
của mình sống lâu vô lượng và sáng suốt vô lượng, cũng như tâm tính Bồ Ðề của
Phật Thích Ca, Phật A Di Ðà và chư Phật, chư Bồ Tát các loài chúng sinh ở khắp
mười phương pháp giới, hết thảy ai ai cũng có tâm tính Bồ Ðề (tâm tính Phật)
bình đẳng như nhau, không hơn, không kém.
Ai muốn thực hành
đạo Bồ Tát để chứng nhận được tâm Bồ Ðề của mình, hãy nên thọ giới Tam Quy, mỗi
tháng ăn chay 6 ngày, mỗi ngày niệm sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật trong nửa giờ
để ổn định tinh thần, dụng công niệm được càng nhiều, càng lâu, càng chóng thấy
rõ tâm Bồ Ðề của mình, của Phật và của chúng sinh hiện ra. Bởi vì tâm Bồ Ðề của
mình thể tính của nó vốn yên tịnh, mình dùng sức động đến nó thì nó mới hiện
ra, mà nó chỉ hiện ra trong một giây lát thôi (tức là một niệm, một sát na
thôi). Nếu mình không niệm Phật luôn để giữ lấy nó thì nó liền bị lu mờ bởi
những niệm khác lấn át nó đi, nó không hiện ra được nữa.
Thần chú đều có
những hạnh lành tương đối đa dạng phong phú, có những thú hướng đặc biệt giúp
cho chúng Sinh thoát khổ, giải thoát Sinh tử luân hồi. Thần chú Vô Lượng
Thọ dành cho liên hữu tu kết thất 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày hay 100 ngày tụng
niệm. Như vậy Phật tử có thể dùng thần chú Vô Lượng thọ làm pháp tu gia hạnh
cho mình trong các thời gian nhập thất niệm Phật rất có hiệu quả.
6/ DƯỢC SƯ
QUÁN ĐỈNH CHÂN NGÔN
NAMO BHAGAVATE,
BHAISAIJYA GURU, VAITURYA, PRABHA, RAJAYA TATHAGATAYA, ARHATE, SAMYAK
SAMBUDDHAYA, TADYATHA. OM BHAISẠIJYE, BHAISAIJYE, BHAISAIJYA, SAMUDGATE SVÀHÀ.
Âm Hán: Nam mô Bạc-già-phạt-đế, bệ sát xả lụ-rô, thích
lưu-li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hát đế, tam miệu
tam bột đà gia, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết
đế tóa ha.
Nam mô bạt dà phạt
đế, bệ sát xả, lụ rô thích lưu ly, bát lặt bà, hắt ra xà dã, đát tha yết đa da,
a ra hắt đế, tam miệu tam bột đà da. Đát điệt tha, Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ
sát xả, tam một yết đế tá ha .
Nghĩa: Quy mạng Đức Thế Tôn Dược sư lưu ly quang vương Như
Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác - Chân ngôn nói rằng: Xin Ngài hãy ban cho
con thuốc diệt trừ bệnh Quả Báo, bệnh Nghiệp Ác, bệnh Kiến Tư, bệnh Trần Sa,
bệnh Vô Minh để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
Xuất Xứ:
Kinh Dược Sư Nếu ai có bịnh chi, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú
này 108 biến để chú nguyện vào ly nước sạch rồi uống thì các bệnh đều tiêu trừ.
Còn người nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, đến lúc mạng
chung được vãng Sinh về thế giới Tịnh Lưu Ly bên Đông Phương của Phật Dược Sư.
7/ QUAN ÂM
LINH CẢM CHÂN NGÔN
OM MANI PADME
HÙM, MAHÀ JNÀNA, KETU SAVÀDA, KETU SÀNA,VIDHÀRIYA, SARVÀRTHA,
PARISÀDHAYA, NÀPURNA, NÀPARI, UTTÀPANÀ, NAMAH LOKE’SVARÀYA, SVÀHÀ.
Âm Hán: Án ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô
đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất
tháp cát, nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết thuyết
ra gia, tóa ha.
Án, ma ni bát di
hồng, ma hắt nghê nha nạp ,tích đô đặt ba đạt ,tích đặt ta nạp ,vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát nạp, bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu
thất ban nạp, nam ma lô kiết, thuyết ra da ,tá ha .
Nghĩa: OM MA NI BÁT MÊ HÙM
là tính chất mầu nhiệm của cây phướng Đại Trí. Hãy ngồi dưới cây phướng ấy, xa
lìa mọi sự chấp giữ mà thành tựu trong khắp các cõi. Hãy luyện các căn cho thsinh
tịnh để thành tựu viên mãn các pháp và siêu việt tất cả. Con xin quy mạng công
đức nội chứng của Đức Thế Tự Tại. Nguyện cho con được thành tựu như
Ngài.
Xuất xứ:
Kinh Trang Nghiêm Bảo VươngPhật bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Sáu chữ Ðại
Minh Ðà La Ni này khó được gặp gỡ, nếu có người nào được sáu chữ Ðại Minh Vương
đây, thì người đó tham, sân, si, độc không thể nhiễm ô. Nếu đeo mang trì giữ
nơi thân, người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. Chân ngôn này vô lượng
tương ưng, với các Như Lai mà còn khó biết, huống gì Bồ Tát làm thế nào biết
được. Ðây là chỗ bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát.
8/ THẤT PHẬT
DIỆT TỘI CHÂN NGÔN
REPA REPATE, KUHA
KUHATE, TRANITE, NIGALA RITE, VIMARITE, MAHA GATE, SANTIM KRITE, SVAHA.
Âm Hán: Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha
ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, Chân lăng càng đế, ta bà ha.
Ly bà ly bà đế,cầu
ha cầu ha đế,dà ra ni đế ,ni ha ra đế,tỳ lê nể đế ,ma ha dà đế,Chân lăng càng
đế,ta bà ha .
Nghĩa: Mọi đường lối và tính
chất của sự thấp hèn đều tuân theo sự hấp thụ điều cao quý và tính chất cao quý
mà vận chuyển thành ánh sáng rực rỡ vinh quang. Đây là con đường rộng lớn hay
chận đứng mọi tai họa để viên mãn phước trí.
Xuất xứ :
Đại phương đẳng đà la ni kinh. Đây là bài chú của bảy đức Phật đã nói từ những
đời quá khứ. Thần chú này hay diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch và được vô
lượng phước, nếu thành tâm trì tụng.
9/ VÃNG SINH
TỊNH ĐỘ ĐỘ ĐÀ LA NI
NAMO
AMITÀBHÀYA TATHÀGATÀYA TADYATHÀ: AMRITOD BHAVE AMRITA SAMBHAVE AMRITA
VIKRÀNTE AMRITA VIKRÀNTA GAMINI GAGANA KÌRTIKARE SVAHA.
Âm Hán: Nam
mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, A di rị đá
tất đam bà tỳ, A di rị đá tì ca lan đế, A di rị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà
dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Nam mô a di đà bà
dạ ,đa tha dà đa dạ,đa địa dạ tha
A di rị đô bà tỳ ,
A di rị đa tất đam bà tỳ
A di rị đa tỳ ca lan đế
A di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha .
Nghĩa: Quy mạng A Di Đà Như Lai.
Chân ngôn nói rằng: Hiện lên cam lộ, phát sinh cam lộ, cũng mãnh cam lộ, đạt
đến cam lộ dũng mãnh, rải khắp hư không, thành tựu cát tường.
Xuất xứ:
Kinh niệm Phật ba la mật Người chuyên tụng chú này được Phật A Di Đà
thường ngự trên đỉnh đầu ủng hộ, hiện đời an ổn, khi mạng chung được tuỳ ý vãng
Sinh.
Công dụng:
Chú lực Thần chú vãng Sinh có công năng, thì sẽ được tiêu tội trong muôn ngàn
ức kiếp, tất cả phiền não ma chướng không dám đến khuấy nhiễu. Chú vãng Sinh
biến người tu Tâm Bồ Đề sáng tỏ như mặt trăng tròn đầy, khi mệnh chung thấy Vô
Lượng Thọ Như Lai cùng vô lượng Caâu Chi Bồ Tát ñeán nghinh đón, thân tâm vui
vẻ , liền được vãng Sinh Cực Lạc Thượng Phẩm Thượng Sinh, chứng Bồ Tát Vị.
Theo Kinh Niệm Phật Ba La
Mật của Hoà Thượng Thích Thiền Tâm dịch, phẩm thứ 7, Khuyến phát niệm Phật và
đọc tụng Chân Ngôn: Ngài Phổ Hiền Đại Bồ Tát vì thương tưởng chúng Sinh thời
Mạt Pháp, khi ấy kiếp giảm, thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu loạn trược
tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành ít. Nên Ngài đã ban thêm cho người niệm Phật
bài chú Vãng Sinh, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ sạch
phiền não, được mau chóng Sinh về Cực Lạc.
10/ THIỆN NỮ
THIÊN CHÚ
NAMO BUDDHÀYA, NAMO
DHARMÀYA, NAMO SANGHÀYA. NAMO SRÌ MAHÀ DEVÀYA, TADYATHÀ,PARIPÙRNA,
CALE, SAMANTA DARSANI,MAHÀ VIHARA GATE, SAMANTA, VIDHÀNA GATE,MAHÀ KARYA
PATI, SUPARIPÙRE,SARVATHA, SAMANTA, SUPRATI, PÙRNA,AYANA, DHARMATE, MAHÀ
VIBHASITE, MAHÀ MAITREUPASAMHÌTE, HE ! TITHU, SAMGRHÌTE,SAMANTA
ARTHA ANUPALANI.
Âm Hán: Nam
mô Phật Đà gia, Nam mô Đạt Ma gia, Nam mô Tăng già gia.Nam mô thất lị ma ha đề
tỷ gia, Đát nễ dã tha, Ba lị phú lâu na, giá lị, Tam mạn đà, đạt xá ni,Ma
ha tỳ ra ha đế, Tam mạn đà, tỳ ni già đế,Ma ha ca lị dã ba nễ, Ba ra ba nễ,Tát
lị phạ lật tha, tam mạn đà, tu bát lê đế, phú lệ na,A lị na, đạt ma đế, Ma ha
tỳ cổ tất đế, Ma ha di lặc đế,Lâu phả tăng kỳ đế, Hê đế tỷ, Tăng kỳ hê đế,Tam
mạn đà, a tha a nậu đà la ni.
Nam mô Phật đà ,
Nam mộ Đạt mạ Nam mô Tăng
dà
Nam mô thấy lỵ, ma ha đề
tỷ da, đát nễ dã tha, ba lỵ phú lầu na gia’ lỵ, tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tỷ
ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, ma hê ca rị dã, ba nể ba ra, ba nể tát rị
phạ lặt tha, tam mạn đà, tu bác lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt mạ đế, ma ha tì
cổ tất đế, ma ha Di Lặc đế, lâu phả tăng kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế, tam
mạn đà, a tha a nậu, đà la ni.
Nghĩa: Quy y Phật, Quy Y Pháp,
Quy y Tăng. Quy y Cát Tường Đại Thiên. Chú nói như vậy: Hỡi Đấng
quyền năng hay ban bố sự viên mãn thù thắng! Đấng chủ tể Đại Tác Nghiệp
hay nhìn thấy khắp nẻo rộng lớn !Hãy khéo léo làm cho tất cả đều được đầy
đủ. Hãy khiến cho khắp tất cả mọi nơi đều được sự viên mãn thù thắng tối
thượng. Hãy thể hiện lòng Đại Từ làm cho Lý Pháp Tính tỏa sáng màu nhiệm
rộng lớn khiến cho con và chúng sinh được thích ứng với sự lợi ích chân
chính. Mừng thay Đấng biểu hiện của lòng yêu thương. Đấng chân chính gìn
giữ sự lợi ích. Hãy giúp cho con và chúng sinh đều gìn giữ được khắp mọi tài
sản lợi ích.
Xuất xứ :
Kinh Kim Quang Minh Trong kinh này nói những kẻ tụng chú này, phàm muốn
cần dùng điều chi thì đều được đầy đủ.
Đại Bi Thập
Chú
BẠCH Y THẦN
CHÚ
Tịnh Khẩu Nghiệp
Chân Ngôn:
Tu lị tu lị ,ma ha
tu li,tu tu lị ,sa bà ha (3 lần)
Tịnh Thân Nghiệp Chân
Ngôn:
Tu đa lị ,tu đa lị
,tu ma lị ,tu ma lị ,sa bà ha (3 lần)
An Thổ Địa Chân Ngôn:
Nam mô tam mãn đà
,một đà nẫm ,án, tô rô tô rô,địa vĩ ,sa bà ha (3 lần)
Bạch y Quán Thế Âm Đại Sĩ
Linh Cảm Thần Chú:
Nam mô đại từ đại
bi cứu khổ cứu nạn ,quảng đại linh cảm bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát . (3 lần)
Nam mô Phật, nam mô Pháp,
nam mô Tăng,n am mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, đát chỉ đá, án dà la
phạt đá, dà la phạt đá, dà ha phạt đá, la dà phạt đá, la dà phạt đá, sa ha
thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân nhất thiết tai ương hóa vi
trần. Thiên la thần đẳng (3 lần)
Kinh hay chú lực của Đức
Phật, Bồ tát chẳng qua là phương tiện giáo hóa cho muôn loài trong đó có chúng
ta, là một lực đẩy vô biên hiệu quả vô cùng, nếu chúng ta biết phát nguyện và
làm đúng theo ý nguyện của ngài.
Chúng ta tu hành mà còn
khổ đau là vì còn cố chấp với pháp của Phật, pháp Phật nói một đường, ta hiểu
một ngã, Phật nói đằng đông ta hiểu đằng tây, Phật dụng tâm ta dụng tướng nên
khổ. Sau khi thọ học pháp Phật, ta thực hành đúng như ngài giáo hóa thì chắc
chắn hết khổ.
Ví dụ: khi tụng bài chú Án
Ma Ni Bát Di Hồng, Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha… chú lực có công năng
phá tan si ám, tịnh trừ tham dục, sân si, những tà niệm ái nhiễm (khổ)… khi
được chú lực gia hộ thì chính mình cũng phải thực hành những lời dạy của Phật
xả bỏ những ái dục tà nhiễm thì trí tuệ sanh, tuệ sanh thì không làm việc xằng
bậy, không làm việc xằng bậy thì không khổ, chú lực của Bồ tát làm cho hết khổ
là như vậy.
Ngược lại nếu tụng chú lực
của Bồ tát, mà hằng ngày vẫn làm ác, niệm ác vẫn dấy sanh, thì chính chú lực ấy
là lực đẩy đưa ta đến chỗ khổ đau; lý do ỷ lại vào chú lực gia hộ cho tai qua
nạn khỏi, nhưng không khỏi, vì có ta nên các pháp giả hợp lúc nào cũng ở một
bên ta, ta thấy nó là thật, nên tụng chú mà vẫn thấy khổ đau.
Tụng kinh chú mà vẫn khổ
là do mất chánh niệm, vì mất chánh niệm nên thấy khổ, có chánh niệm nên thấy
“các pháp vốn giai không”, “ngũ uẩn giai không” , “không có ta” nên dù “có
nghiệp khổ thật” những vẫn không thấy có khổ đau, đấy chính là tác dụng của chú
lực, được Đức Bồ Tát Quan Âm độ cho vượt qua khổ nạn: “Yết đế, yết đế, ba la
yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha” – vượt qua, vượt qua, mọi người đều
vượt đến bến bờ bên kia, được giải thoát an lạc.
Người Phật tử biết phát
tâm tụng kinh chú là quý báu lắm rồi, kinh nào cũng tốt không nên chọn lựa vẽ
vời mà mất chánh niệm. Hiệu quả tu hành theo giáo lý nhà Phật là: “tâm thoát
khỏi những mê lầm, tâm chánh niệm thì an lạc Niết Bàn”.
Người tu tinh tấn, siêng
năng đọc tụng kinh chú Phật mà tai ươn vẫn đến với mẹ cha, phải tự nghĩ: “là do
nghiệp lực đời trước ta đã tạo, nay đủ yếu tố đủ điều kiện nghiệp cũ đến đòi,
quả khổ phát sanh”, nên sám hối giúp cha mẹ và tự nghĩ: ”cha mẹ có bệnh khổ
cũng là phương tiện giúp cho ta có cơ sở báo hiếu báo ân”.
Phật tử nên phát nguyện,
phát lồ sám hối những nghiệp ác vô tình hay cố ý đã tạo trong quá khứ, nay
không làm nữa… thường xuyên quán chiếu thân là vô thường, khổ không, vô ngã,
giữ tâm niệm như thế tai ươn họa khổ lần lượt tan biến.