30/12/2019

Dao Ka-Bar

Ham mê về cơ khí và dao kiếm nên mình rất quan tâm đến các loại vũ khí lạnh cổ kim của TG. Không có tiền để sở hữu nên phải lên internet sưu tầm. Những kiến thức về chế tạo vũ khí lạnh Đông Tây vô cùng phong phú và quý giá, có điều bị mai một dần bời sử phát triển của khoa học và công nghệ - thật tiếc. 

Được dịch từ tiếng Anh-Ka-Bar là tên gọi phổ biến đương đại của con dao chiến đấu được Thủy quân Hoa Kỳ sử dụng lần đầu tiên vào tháng 11 năm 1942 với tư cách là con dao chiến đấu 1219C2, và sau đó được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng làm con dao tiện ích của Hải quân Hoa Kỳ, Mark 2.

Đây là những con dao chuẩn thuở ban đầu của Kar – Bar

 



Cái tên Ka-Bar xuất phát từ năm 1923 khi hãng cơ khí Union Cutlery Co. (được thành lập từ tận năm….1800) tuyên bố một câu chuyện thú vị: một người thợ săn đã dùng dao của họ để giết 1 con gấu bị thương sau phát đạn đầu tiên, nhưng chưa gục ngã và tiếp tục tấn công khi súng của người thợ săn bị kẹt đạn. Từ “Ka-Bar” là nói chệch đi từ “kill bear” (giết gấu). Không ai có thể xác định được câu chuyện này có thật hay không, nhưng thương hiệu Ka-Bar bắt đầu nổi như cồn từ thời điểm đó.




Thiết kế của con Kar – Bar dành cho TQLC

   Năm 1942, Thủy quân lục chiến (lính Marine) Mỹ cảm thấy họ thực sự cần cải tiến lại vũ khí cận chiến của mình, và Ka-Bar chính là cái tên đầu tiên được lựa chọn để “đặt hàng” những mẫu dao đầu tiên.
Sở hữu nhiều tính năng ưu việt nhờ kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực này, Kabar đã làm nên nhiều mẫu dao đã trở thành huyền thoại, với những chi tiết “mẫu mực” mà nhiều thương hiệu dao sau này cũng phải học tập như đường vát để làm nhọn mũi dao một cách cân đối, biên dạng dao để tạo sự cân bằng trong chuyển động, phần lưỡi răng cưa được sử dụng để dễ cắt dây thừng.
   Nổi tiếng bởi độ bền và tính đa dụng cao, được ưa chuộng bởi nhiều thế hệ quân đội Mỹ, Kabar nổi tiếng với một biệt danh khác “Đồ tể”. Với thiết kế rãnh dọc lưỡi dao, nạn nhân khi gặp phải sát thương từ con dao này sẽ mất máu liên tục do rãnh dọc này dẫn đường cho máu chảy ra ngoài nhanh hơn.
   Toàn bộ quá trình sản xuất dao hầu như được chế tạo thủ công với quy trình kiểm tra nghiêm ngặt cũng như những bí quyết công nghệ được giữ bí mật gắt gao. Chính vì lẽ đó mà những con dao này đều có tuổi thọ và độ tin cậy rất cao.Bên cạnh sử dụng để chiến đấu, dao KA-BAR đã chứng minh tính đa năng của nó khi được sử dụng cho việc mở lon, đào rãnh, cắt gỗ, rễ cây, dây leo, dây cáp. Bên cạnh đó thì con dao này cũng sở hữu giá trị thẩm mỹ khá cao và thường được tìm mua bởi những người đam mê quân sự.
Hãng Ka-Bar ngày nay đã nghiên cứu sản xuất nhiều loại dao khác để phục vụ những mục đích phong phú như hỗ trợ săn bắn, công cụ lao động… thế nhưng dao quân sự vẫn là một trong những niềm kiêu hãnh lớn nhất của họ. Hầu hết các mẫu dao quân sự hiện có của Ka-Bar đều được thiết kế dựa trên những thông số này: Dao dài 30,16 cm, phần lưỡi dài 18 cm, nặng 0,56 kg, được làm bằng thép cacbon 1095, Phần chuôi dài 12.7cm được làm từ da ép, những miếng da được cắt hình tròn đồng xu sau đó được ép lại. Cùng với đó là các biện pháp xử lý hóa chất để có thể chống lại ảnh hưởng của nấm mốc.
   Ngay trên trang web của Ka-Bar, những mẫu dao quân sự có thể được bán với giá tương  đương 100 USD, và nếu bạn đang ở Việt Nam, cái giá để bạn có được một con dao Ka-Bar còn lớn hơn nhiều.


21/12/2019

Tản mạn về Anh hùng




Tôi thế hệ 6x chắc giống nhiều người trước và đến thế hệ 7x hoặc cả lớp trẻ sau này đều đọc và thích rồi ngưỡng mộ các nhân vật trong các tác phẩm văn học Trung Quốc như Đông Chu Liệt Quốc, Tam quốc, Hán Sở tranh hùng, Thuyết Đường, Thủy hử vv... với các nhân vật như Hàn Tín, Hạng Vũ, Khổng Minh, Chu Du, Quan Công, và vô số  các anh hùng khác.

Mình thấy Trung Hoa là cái nôi sản sinh không ngừng các danh tướng kiệt xuất của nhân loại.

Nhưng, lùi xa một chút, có một cảm giác không hẳn là ổn. Lịch sử Trung Hoa chứa đựng một quá trình chiến đấu không ngừng với các bộ lạc phương Bắc. Và xem ra, họ không mấy thành công. Để tiện so sánh, tính từ thế kỷ 10 khi Việt Nam giành độc lập cho đến thời cận đại, Trung quốc trải qua bốn triều đại phong kiến Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Hai trong số đó (Nguyên và Thanh) được lâp ra qua sự xâm lược của người Mông cổ và người Mãn, các bộ tộc phương Bắc có dân số kém Trung quốc mấy chục lần. Dưới triều đại nhà Tống, Trung quốc cũng có đến quá nửa thời gian khốn đốn đối phó với các cuộc xâm lược của Liêu và Nữ Chân, và chịu mất một nửa lãnh thổ cho đến khi bị diệt vong. Trong cùng thời gian đó, người Việt chỉ có chừng 20 năm mất tự chủ sau khi nhà Hồ bị đánh bại.

Vậy trong thời gian rất dài đó, các tướng như vậy ở Trung Hoa kiệt xuất ở đâu ?

Nếu để ý, các nhân vật lỗi lạc được nêu ở trên, và phần lớn các tướng Trung Hoa oai phong mà các bạn biết, đều là anh hùng của các cuộc nội chiến.

Không lẽ Trung quốc không sản sinh ra một đội ngũ đông đảo các tướng lĩnh ngang tầm trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, diễn ra trong một quá trình rất dài ? Hay đơn giản là các viên tướng của những kẻ xâm lược đã xuất sắc hơn họ ?

Lan man thêm một chút, Trung Hoa là nước có chữ viết rất sớm. Các sự kiện, hay truyền thuyết, được ghi lại rất chi tiết. Các ghi chép công phu cùng số lượng không nhỏ các truyền thuyết về một nhân vật nôi tiếng là nguyên liệu dồi dào cho các nhà văn. Tầm vóc của các bác tướng Trung Hoa chắc phải cảm ơn rất nhiều ngòi bút siêu việt của các nhà văn đồng hương.

Trong một ví dụ tiêu biếu, ta thử phân tích sự nghiệp của Khổng Minh, có thể nói là một soái được nhắc tới nhiều nhất như một quân sư đại tài trong lịch sử Trung quốc.

Không nghi ngờ gì, Khổng Minh là môt người thông minh và có kiến thức cao trong rất nhiều lĩnh vực, liêm khiết và tận tâm với nhiệm vụ. Nhưng thiên tài quân sự của ông phần nhiều được tưởng tượng ra bởi La quán Trung, tác giả tiểu thuyết Tam quốc có ảnh hưởng rất sâu rộng trong văn học sử và cả đời sống hàng ngày.

Các mưu mẹo tuyệt vời của Khổng Minh được viết đến cực nhiều trong Tam quốc, và vô số sách “ăn theo” sau đó (Tam quôc ngoại truyện, vvv). Nhưng nếu đọc kỹ, rất khó có thể phân biệt giữa truyền thuyết và sự thật, và khá nhiều chi tiết mang tính thần thánh hoá, cho trẻ con đọc cho vui (chẳng hạn Thạch trận đồ). Để khách quan, ta sẽ dựa vào các nét lớn được lich sử ghi nhận mà thôi.

Công bằng mà nói, viên tướng xuất sắc nhất trong quân Thục, chính là Lưu Bị. Hai chiến dịch thành công lớn, lấy Đông Xuyên và Tây Xuyên, đều do ông trực tiếp chỉ huy, với tham mưu là Pháp Chính, Bàng Thống, chứ không phải Khổng Minh.

Khi Lưu Bị lên ngôi, Pháp Chính là ngừoi nắm quyền cao nhất. Nguỵ Diên được làm thái thú Hán Trung, vị trí quan trọng sau Thành đô, cũng nhờ công lao của ông ta trong hai chiến dịch trên.

Sau khi Lưu Bị mất, các chiến dịch do Khổng Minh chỉ huy chống lại nước Nguỵ, mặc dầu được tả hết sức hấp dẫn với nhiều mưu mẹo tuyệt vời làm mọi người thích mê, đã không thu được lợi ích gì nhiều.

Quân Thục dưới quyền Khổng Minh chưa bao giờ tiến sâu được vào nước Nguỵ, và sau 6 lần xuất quân, đường biên giới hai nước gần như không thay đổi. Trong toàn bộ cuộc chiến, trận đánh lớn nhất ở Nhai Đình, quân Thục thua và thiệt hại rất nặng.

Trong khi đó, Hàn Toại và Mã Siêu, trước đó không lâu, đã chiếm được Tràng An, thành phố trung tâm về phía Tây của nhà Nguỵ, môt cách tương đối dễ dàng.

Chíến dịch thành công nhất của Khổng Minh là cuộc chinh phục các bộ tộc phương nam (bình Mạnh Hoạch). Các chi tiết được La quán Trung mô tả rất ly kỳ, nhưng đã được đẩy cao lên quá tầm quan trọng của chúng.

 Đây là lần đầu tiên Khổng Minh trực tiếp cầm một đạo quân lớn, và để chắc ăn, ông mang theo ba viên tướng giỏi nhất lúc đó của nhà Thục là Triệu Vân, Nguy Diên và Mã Đại, mà có lẽ bất kỳ ai trong số họ cũng đủ sức điều khiển toàn bộ chiến dịch thành công.

Vài năm trước đó, Tào Chương (con trai Tào Tháo) bình đinh bộ lạc Ô Hoàn ở miền Bắc, một nhiệm vụ không kém khó khăn, mà không dùng bất kỳ đại tướng nào của bố.

Khổng Minh chọn Khương Duy, học trò cưng của mình, làm người kế nghiệp về mặt quân sự. Kế tục sự nghiệp của thầy, Khương Duy tiếp tục tấn công nước Nguỵ. Các cuộc ra quân liên miên này không mang lại ích lợi gi đáng kể , và đã làm nước Thục kiệt quệ về mặt kinh tế, dẫn tới sự sụp đổ chỉ 30 năm sau khi Khổng Minh mất.

Một nhân vật Việt Nam có hoàn cảnh tương tự như Khổng Minh là Đào Duy Từ. Trong thời ông (thế kỷ 17), bối cảnh Việt Nam khá giống thời Tam Quốc.

(Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia - Đào Duy Từ (chữ Hán: 陶維慈1572-7/12/1634) là nhà quân sựnhà thơ[1] và nhà văn hóa, danh thần thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Chỉ vỏn vẹn 8 năm phò Chúa Sãi từ 1627 đến 1634 nhưng Đào Duy Từ đã khắc hoạ hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một học giả, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, là người góp phần định hình được nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong. Vì vậy ông được coi là đệ nhất khai quốc công thần của họ Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu.[2])

Chúa Trịnh lập vua Lê lên ngôi, nhưng giữ hết quyền hành. Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Quảng, xây dựng căn cứ phía Nam. Ngoài Bắc con cháu nhà Mạc vẫn giữ Cao Bằng.

Đến lúc Đào Duy Từ lên nắm quyền (1627), nhà Mạc đã về hàng chúa Trịnh, Trịnh Tráng quyết tâm bình định phương Nam. Thế lực họ Trịnh hơn họ Nguyễn nhiều lần. Về qui mô, số dân Đàng trong và Thục có lẽ cũng xấp xỉ nhau (nươc Thục thời Tam quốc có chừng 1 triệu dân).

Giống Khổng Minh, Đào Duy Từ được chúa Nguyễn tin dùng, cất nhắc từ thư sinh lên làm tể tướng. Ông chấp chính, đắp luỹ để phòng thủ. Đàng Trong lực lượng mỏng hơn nhưng nhờ chiến luỹ chắc chắn chặn được biết tiến của chúa Trịnh, quân dân không bị tổn hại nhiều. Ông không Bắc tiến, mà chủ trương Nam tiến khai khẩn bờ cõi, cùng lúc giúp chúa Nguyễn xây dựng được đinh chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng cho một thể chế lâu dài.

Đào Duy Từ cầm quyền vỏn vẹn 8 năm, mà đặt được nền móng 100 năm cho cơ nghiêp của các chúa Nguyễn, được nối tiếp thêm bởi các vua nhà Nguyễn sau đó, tồng cộng hơn 300 năm.

Những người được ông tiến cử như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến chẳng những giữ được thế cân bằng về quân sự với Đàng Ngoài, mà còn góp phần quyết định cho cuộc khai khẩn phương Nam của người Viêt. Con trai của Nguyễn Hữu Dật là Nguyễn Hữu Cảnh là người xác định chủ quyền của người Việt tại Sài gòn-Gia Định.

Đến đời Nguyễn Ánh, Đàng Trong và Đàng Ngoài đã có dân số xấp xỉ nhau. Sự trù phú của đất phương Nam và ảnh hưởng của các chúa Nguyễn ở đây là yếu tố quyết định giúp ông thống nhất được Viêt Nam sau một cuộc nội chiến dai dẳng. Về sự nghiệp mà nói, có thể nói Đào Duy Từ đã thành công hơn người đồng nghiệp phương Bắc Khổng Minh rất nhiều.

Như vậy, đọc internet và sách báo Lịch sử Ta tôi mới Ngộ ra là thần tượng vốn dĩ tồn tại chỉ do Ta không chịu khó đọc sách và suy nghĩ mà thôi.

Nước Việt nhỏ nhưng Anh Hùng đâu ít … Xa như dưới thới Bắc thuộc không có tài liệu và sách nhưng sau thới đó thì sao ?... và cả nay nữa ?

 

20/12/2019

Anh ngủ thêm đi anh Em phải dậy lấy chồng



Phạm Thiên Ý
2014

Anh ngủ thêm đi anh
Em phải dậy lấy chồng
Mùa thu vừa rụng lá
Lòng em đã sang đông.

Đừng cười và đừng khóc
Đừng tin và đừng nghi
Hãy bình thường mà sống
Em lấy… kẻo lỡ thì
.

Anh bảo rằng rất yêu
Rất thương và rất nhớ
Rất cần nhưng không thể
Cưới em? Chuyện trong thơ

Chẳng cần phải lí do
Giải thích và phân bua
Chỉ cần anh im lặng
Em đã hiểu: Mình thừa
.

Ừ! Thôi em lấy chồng
Chẳng còn gì luyến tiếc
Ừ! Thôi lên xe hoa
Bên chồng mà câm điếc
.

Anh cứ ngủ say thôi
Em dậy đeo nhẫn cưới
Kẻ mắt môi cô dâu
Tím ngực buồn rười rượi

Yêu mà sao lại thế
Thương mà sao vậy anh
Em – đàn bà yếu đuối
…Muốn đời mình duyên lành

Nhưng anh đã không thể
Mạnh mẽ để làm chồng
Cởi áo mà không dám
Mặc cho em váy hồng?

Thì thôi anh ngủ đi
Nhắm mắt và câm điếc
Em cười nụ cuối cùng
Giễu đời này quá nghiệt.