St và biên tập
Ngoại ô Hà Nội xưa có hơn 30 làng, nhà nào cũng có vườn trồng
hoa, bao nếp nhà lá thâm thấp là cây cối xanh mát, bốn mùa thơm mùi quả chín.
Con trai ngoại ô hiền lành, chăm chỉ, con gái nết na, đảm đang. Cứ xong công việc
đồng ruộng trở về nhà là trai hay gái lại bắt tay vào làm quà mang vào bán
trong thành.
(Tớ không đề cập đến vùng bên kia sông Hồng, vì xưa, nó thuộc tỉnh Bắc Ninh. Hà Nội là trong sông, bao bọc bởi sông lớn. Mấy con sông nhỏ, lìu tìu như sông Tô, sông Nhuệ... không nên tính nhé, các bạn.
Dĩ nhiên sẽ thiếu nhiều, đương nhiên rồi, vì những 30 làng, 12 ấp ngoại ô cơ mà các bạn - không có khả năng sưu tầm ạ dù muốn lắm.)
Người ngoại ô ai cũng khéo tay, biết ăn, nên chế biến ra những món hợp khẩu vị làm người khó tính cũng hài lòng. Phía Nam có nhiều làng làm quà nổi tiếng, xưa có câu: “Rượu kẻ Mơ/Thơ kẻ Lủ”. Rượu kẻ Mơ đậm đà, dịu cổ họng và thơm nhẹ, còn làng Lủ có nhiều người học hành đỗ đạt, múa bút ra thơ. Làng Lủ xưa nằm bên sông Tô trong xanh, có bến cá lớn nhất phía Nam kinh thành. Dân làng mua cá da trơn để chế thành món chả cá bất hủ đãi bằng hữu. Rồi vài người vào trong phố mở quán ở khu vực phố Hàng Cân ngày nay. Khi khu vực sông Tô bị lấp, không còn nguồn cung cấp cá tươi nên họ quay về làng tiếp tục với nghề làm bỏng rang tẩm mật, làm kẹo bột.
Phía Nam có món bánh cuốn Thanh Trì nức tiếng. Sáng sáng, các
bà các cô đội thúng bánh vào thành bán. Những lá bánh mỏng tang vừa dai, vừa
giòn xếp chồng lên nhau thành từng lớp, song khi bóc ra không bao giờ dính. Bí
quyết nằm ở những chấm nấu rải đều trên mặt, đó là hành lá thái li ti phi mỡ
như trang trí, nhưng cũng có tác dụng chống dính. Để ăn kèm với bánh cuốn, trong
thúng bánh phải có vài lạng giò lụa Văn Điển. Giò lụa Văn Điển xưa được dân
làng Quán Gánh chọn mua để bán kèm với bánh giầy cho khách. Văn Điển còn có nghề
nấu rượu cổ truyền. Thời Pháp thuộc chỉ rượu chai Văn Điển mới cạnh tranh được
với rượu Pháp.
Cách Văn Điển không xa là làng Tương Mai có món xôi lúa và
bánh đúc rưới hành mỡ rất ngon. Khi trời đất còn mờ mờ, các bà, các cô đã cắp
thùng xối vào thành, mùi thơm của nếp đồ, hành phi và lá sen quện vào nhau tỏa
ra trên đường đi thay cho tiếng rao. Có câu: “Tứ Kỳ gánh cân, Pháp Vân gánh
nánh”, tức làng Tứ Kỳ chuyên làm bún, mang bán xếp vào hai thúng rất cân, trong
khi làng Pháp Vân bán bún ốc chan, bên nồi nước nặng hơn bên để bát đũa, vì thế
gọi là gánh nánh.
Phía Tây cũng có nhiều làng làm quà rất ngon. Bún ốc nguội
không đâu sánh được với Khương Thượng. Ốc ngâm với nước gạo cho sạch rớt và
cũng làm cho con ốc béo hơn. Lại có nhà nghĩ ra cách thoa lớp mỡ mỏng lên mặt
thớt, cho ốc bún lên rồi đậy rổ lại. Ốc ăn mỡ nên thịt ngậy hơn. Khương Thượng
còn nổi tiếng với món chả nhái lừng danh. Thịt nhái giã với bột ngô, trộn gia vị
khi rán cả vùng ngây ngất bởi mùi thơm. Nói đến bánh giò có lẽ không đâu ngon bằng
bánh làng Đình Quán ở Phú Diễn, gạo làm bánh là giống Tám thơm, nhân thịt nạc
thăn trộn với hành củ tươi phi mỡ. Ở Yên Hòa có nghề làm bánh rán lúc lắc, bánh
mảnh cộng và bánh cuốn. Bánh cuốn Yên Hòa mỏng và dai không thua kém bánh Thanh
Trì. Khu vực phía Tây còn có một tuyệt phẩm là cốm Vòng. Cốm làm bằng lúa non,
với kinh nghiệm và bí quyết người làng đã tạo ra những hạt cốm mỏng dẹt màu
xanh nhạt tự nhiên có mùi thơm nhẹ. Khi thấy người làng Vòng gánh cốm vào phố
là biết mùa thu đã về. Vào mùa thu, nhiều gia đình cắm hoa cúc, thi nhân uống
hoàng hoa tửu, song nhà nào cũng nhất định phải có một gói cốm. Cốm ăn với chuối
tiêu trứng cuốc thật sang miệng vì vừa thơm vừa bùi.
Trở lên phía Bắc, nơi có chợ Bưởi mở từ thời Lý, xưa gọi là
chợ Ma Phường. Sở dĩ có tên này vì theo truyền thuyết, vào ngày giáp Tết, chợ
đông đúc người mua kẻ bán và lẫn trong người trần còn có cả ma. Để phân biệt,
người bán hàng đặt chậu đồng đựng nước, khách trả tiền sẽ thả đồng tiền vào chậu.
Nếu tiền không phát ra âm thanh, thì đó là ma. Ca dao Hà Nội có câu: “An Phú nấu
kẹo mạch nha/Kẻ Vòng làm cốm để mà tiến vua”. Mạch nha là nguyên liệu không thể
thiếu khi làm kẹo. Mạch nha An Phú trong vắt lại thơm, dai, nên các làng làm kẹo
tin mua. Năm 1960, nhà nước mở xí nghiệp bánh kẹo quốc doanh ở khu vực Bưởi,
người làng đã hiến cho nhà nước bí quyết được giấu kín qua biết bao nhiêu đời.
Phía trên vùng Bưởi là Đông Ngạc, tên nôm là Kẻ Vẽ có món
bánh khoai phồng, làm bằng bột nếp cái hoa vàng vô cùng cầu kỳ, lại phải phơi
được nắng khi rang mới ngon. Vì thế, người Hà Nội đã tụng ca: “Thứ nhất bánh cuốn
Thanh Trì, thứ nhì bánh phồng Kẻ Vẽ”. Kẻ Vẽ còn có món bánh sấy, làm từ thịt nạc
chế biến qua nhiều công đoạn. Ngày đông giá buốt, nướng bánh sấy trên than hoa
nhấm nháp với rượu sen Thụy Khuê rồi đàm đạo nhân tình thế thái thì nhã vô
cùng. Vùng này còn có “giò Chèm, nem Vẽ” nức tiếng thiên hạ. Trên mâm cỗ Tết
xưa không thể thiếu món cá trắm đen kho các cụ xếp là món đầu vị. Món này có xuất
xứ ở vùng phía Bắc kinh thành. Cá trắm đen dứt khoát phải là cá ở Hồ Tây vì thịt
dai khi kho sẽ không nát. Sau khi ướp gia vị, những khúc ca săn chắc được đặt
lên lớp lá sen, dưới là lớp lót bằng mía chẻ, bên trên lại phủ lớp lá sen hồ
Tây. Để có món đầu vị này rất mất thời gian và công phu vô cùng.
Ngày nay, ngoại ô đã lên phố. Những con đường lát gạch
nghiêng đỏ au sau mỗi trận mưa không còn. Hàng rào khúc tần cắt xén vuông vắn
cũng đã mất dấu. May mắn là hội làng vẫn diễn ra vào mùa xuân. Điểm danh lại là
ẩm thực ngoại ô xưa dù có món không thấy trong thực đơn nhưng vẫn còn trong kho
tàng ẩm thực Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét