25/06/2025

Khái quát về các cấu kiện trong kiến trúc cổ Việt Nam

 Từ  EASTERN CULTURE - Tổng hợp

 

 Nếu đã từng đọc các tư liệu về kiến trúc cổ Việt Nam, bạn sẽ vấp phải một mớ từ chuyên môn về kiến trúc cổ. Bài viết này được sưu tầm với mục đích giúp bạn dễ dàng hơn trong quá trình tiếp cận nguồn cội mỹ thuật nước nhà từ ngàn xưa.

Khái quát về các cấu kiện trong kiến trúc cổ Việt Nam

Đình Bảng ở Từ Sơn, Bắc Ninh.

Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam (thời Lê Trung Hưng, triều Nguyễn) làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông:

– Dốc mái thẳng
– Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên
– Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới

Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc thời Minh Thanh sẽ thấy được sự khác nhau:

– Dốc mái võng xuống
– Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là “con sơn chồng đấu” hoặc “chồng đấu tiếp rui”)
– Cột thanh mảnh, tròn đều

Trong các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam, đình Bảng là công trình có các đầu đao vươn xa nhất.

Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức “tàu đao” (hay “đầu đao”) làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong vươn ra nhưng chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái.

Tượng con kìm bằng đất nung gắn trên mái, thời Lê Trung Hưng.

Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hay vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm (long nghê, hay cá chép hóa rồng) ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. “Khu đĩ” thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là “vỉ ruồi”.

Đầu bẩy ở đình Bảng.

Hệ thống đỡ mái hiên là bằng cây kẻ, hay bẩy. Đây một thanh gỗ đặt chéo theo triền dốc mái, khi đến diềm mái thì vươn ra bằng nguyên tắc đòn bẩy.

Các cột trong đình Bảng.

Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông.

Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng.

Hệ khung của đình Bảng với các vì và xà.

Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đó là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là “gian”. Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam.


Phối cảnh góc bộ khung Đình Bảng.

Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau:

CỘT là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột:

– Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính
– Cột quân hay cột con: cột phụ nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính;
– Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước.

là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm:

Xà lòng hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;
Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.

KẺ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau:

– Kẻ ngồi gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
– Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài conson qua cột hiên để đỡ phần chân mái.

Các cấu kiện bộ ̣vì và hệ mái:

BẨY hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm conson nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy hiên.

CÂU ĐẦU là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái).

CON RƯỜNG là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu.

CON LỢN, còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng.

RƯỜNG CỤT là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái.

Các loại xà nằm ngoài khung:

– Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái giữa các khung với nhau.
– Xà hạ hay xà đại liên kết các cột cái giữa các khung, tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái.
– Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên.
– Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn.
– Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn.
– Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung.
– Thượng lương, còn gọi là đòn đô ông hay xà nóc đặt trên đỉnh mái.

Các kết cấu mái

– Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà.
– Dui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.
– Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành – dui – mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên.
– Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.
– Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa.

Chùa Bút Tháp – Ninh Phúc.

Các chi tiết kiến trúc khác

– Cửa bức bàn
– Con tiện
– Dạ tàu
– Đầu đao

Nhà Việt cổ có thể làm theo:

– Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc.
– Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính.
– Hình thức 8 mái chồng diêm.


Chùa Keo – 8 mái chồng diêm.

Truyền thống người Việt thường làm nhà theo cơ số lẻ: Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng

– Nhà 3 gian
– Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái
– Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái
– Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái

 

20/06/2025

Hồ Tây bát cảnh

 

Hồ Tây nay - Bát cảnh đâu? (ảnh minh họa st trên net)

 

Hồ Tây, một thắng cảnh ở Hà Nội, nơi nổi tiếng với với nghề dệt lụa, dệt lĩnh đen, làm giấy và trồng hoa nổi tiếng Thăng Long xưa.

Cảnh đẹp Tây Hồ đã đi vào lòng người, vào thơ, ca, văn học và truyền thuyết bao đời nay.

Nên, nói đến hồ Tây là nhắc lại Tây Hồ bát cảnh, một tập thơ của Lê Vĩnh Hựu làm khoảng năm 1735 - 1739, đã ca tụng cảnh đẹp của hồ Tây:

1 - Bến trúc Nghi Tàm

Chính là chỉ làng Nghi Tàm xưa có trồng một thứ trúc vàng có tên là trúc ngà ở vùng xung quanh làng. Từ xa trông hàng ngàn, hàng vạn cây đứng trước gió, ánh sáng vàng trông rất đẹp. Chính nơi này chúa Trịnh Giang đã cho mở một bến tắm, hàng năm mùa hè cùng các cung nữ lên đó tắm mát và nghỉ ngơi.

 2 - Rừng bàng của Chúa

 Thuộc về làng Yên Thái có một núi đất cao 400-500 trăm thước, rộng chừng một mẫu. Chúa Trịnh Giang cho trồng nhiều cây bàng để lấy bóng râm nghỉ mát. Từ trên đỉnh nhìn xuống, hàng ngàn, hàng vạn cây, cây nào cũng tỏa ra cành lá xum xuê, sắc lá theo từng mùa thay đổi. Nhìn từ xa như những chiếc lọng đỏ, lọng xanh rất đẹp mắt, người dân quanh đó quen gọi là rừng bàng.

 3 - Đàn thề Đồng Cổ

 Được lập trước cửa đền Đồng Cổ trên bờ hồ thuộc làng Thụy Chương dưới thời Lý Thái Tông. Đàn được xây hai tầng, tầng trên thờ thần, tầng dưới vua ngự, mỗi năm hai kỳ xuân thu, nhà vua ra đó làm lễ tế rồi hạ lệnh trăm quan văn võ đứng trước đàn thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, bất hiếu bất trung, thần minh giết chết”. Về sau đàn đấy đổi làm nơi công cộng của nhân dân, hằng ngày có nhiều người đặc biệt là thanh niên nam nữ đến trước đàn thề nguyền, xin thần linh minh chứng cho lòng chung thủy của mình.

 4 - Tượng Phật say

 Trước làng Thụy Chương đời Lê Trung Hưng có ngôi chùa chỉ có mỗi một pho tượng tay chống gậy, chân có vẻ bước liêu xiêu. Một hôm Trạng Quỳnh đến làng Thụy mua rượu vào thăm chùa thấy tượng ông làm mấy câu thơ:

Ông đứng chi mà đứng mãi đây?

Dập dềnh như tỉnh lại như say?

Vãi nào đã chuốc cho ông rượu?

Còn có cho vay một nậm đầy.

Từ đấy người ta gọi tượng là Phật say làng Thụy, mỗi tháng hai kỳ khách thập phương thi nhau mang rượu đến lễ, sau này tượng cũng bị mất.

 5 - Sâm cầm Hồ Tây

 Trước kia khoảng tháng Chạp đến tháng Giêng lại có từng đàn chim sâm cầm bay về kín mặt hồ. Nghe đồn chim ấy chỉ ăn sâm nên thịt rất bổ, vì vậy nghề đánh chim đã trở thành một nghề của mấy làng xung quanh hồ.

 6 - Cánh đồng hoa Nghi Tàm

 Những ruộng dọc bên hồ Tây đều trồng hoa, nhưng chỉ có đồng hoa ở trước chùa Kim Liên, làng Nghi Tàm là đẹp, được chọn làm hoa tiến vào Phủ Chúa và Cung Vua.

 7 - Làng Khán Xuân

 Là một làng ở bên bờ phía Nam hồ. Đời chúa Trịnh Giang lập một ly cung và những dãy nhà như quán hàng ở xung quanh, hàng năm mùa hè ra đó nghỉ mát. Đêm đến nội thần và cung nữ mở chợ bày hàng mua bán, hát xướng làm vui. Những đêm mở chợ, làng Khán Xuân lại sáng rực một góc thành vì đèn nến thắp sáng trưng. Chính vì vậy mà chợ đêm Khán Xuân trở thành một hoạt cảnh đẹp trong kinh thành Thăng Long.

 8 - Tiếng đàn hành cung

 Được đặt ngay tại Chùa Trấn Quốc thời chúa Trịnh. Sau này nơi đây hàng đêm vẫn rộn tiếng đàn của các cung nữ làm người trông coi chùa và trở thành nguồn cảm hứng thi ca của tao nhân mặc khách đến vãn cảnh Hồ Tây.

 Tám cảnh đẹp của hồ Tây cho ta cảm nhận về những vùng danh thắng của Thăng Long xưa. Hồ Tây không chỉ có lịch sử với những câu chuyện truyền thuyết, mà gắn với nó là những danh thắng nổi tiếng đi vào những tác phẩm thơ, ca, văn học nổi tiếng. Chính điều này làm cho Hồ Tây thêm gắn bó, có ý nghĩa sâu sắc đối với mảnh đất Thăng Long – Hà Nội này.

 

 

15/06/2025

Đôi nét về một kiến trúc cổ của Việt Nam - tháp Bình Sơn

 

 Tháp Bình Sơn (còn gọi là tháp Then, tháp chùa Vĩnh Khánh) nằm trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh ở thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.


Là ngọn tháp tiêu biểu cho kiến trúc chùa tháp thời Lý - Trần ở Việt Nam và là ngọn tháp đất nung đời Trần cao nhất còn lại đến ngày nay, tháp Bình Sơn với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí phong phú điêu luyện, là di tích lịch sử và di tích nghệ thuật có giá trị cao trên lãnh thổ Việt Nam. Tháp Bình Sơn đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt còn lại cuối cùng từ thời Lý- Trần vào tháng 3/2016. 


 Tương truyền, ngọn tháp nguyên bản có 13 tầng, trên nóc tháp có một hình khối búp hoa sen chưa nở bằng đất nung tạo cho tháp một dáng vẻ thanh thoát vươn cao.


 Do những thăng trầm của lịch sử, phần chóp tháp đã bị vỡ, tháp hiện chỉ còn 11 tầng tháp và 1 tầng bệ, có chiều cao đo được 16,5 mét.


 Tháp cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét.


 Theo khảo sát, tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm 2 loại trong đó có một loại hình vuông kích thước là 0,22m × 0,22m, một loại hình chữ nhật kích thước 0,45m × 0,22m.


 Trong lòng tháp là một khoảng rỗng nhỏ chạy suốt chân tháp lên đến ngọn.


 Mặt ngoài của tháp trang trí hoa văn rất phong phú, đẹp nhất là từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét, là khoảng cách mắt thường có thể cảm nhận dễ dàng.


 Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng, phức tạp mà nổi bật nhất là những hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ “sư tử hí cầu”…


 Những tầng trên trang trí thưa dần và hình dáng cũng đơn giản hơn với các họa tiết như hoa chanh, lá sòi (hoa dấu phảy)…


 Hoa văn trang trí tinh xảo trên mỗi hòn gạch chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện

Một nét độc đáo khác của tháp Bình Sơn là tòa tháp này được xây dựng không cần vôi vữa. 


 Để làm điều này, những người xây dựng tháp đã sử dụng những viên gạch được chế tác có mấu và có gờ chỉ để giữ lấy nhau, đó là phương pháp xây gạch khẩu ở chân bệ.


 Ngoài ra, còn một cách khác là mỗi viên gạch có một lỗ hình thang, hai viên gạch xếp sát nhau, tạo thành một mộng cá và người ta đổ chì vào mộng cá đó để giữ hai viên gạch với nhau, đó là phương pháp xây bằng cá chì.


Về mặt tín ngưỡng, có nhiều truyền thuyết liên quan đến tháp Bình Sơn, cho thấy vị trí đặc biệt của tháp trong văn hóa tâm linh và ý thức cộng đồng của người dân bản địa.


 Đầu tiên có thể kể đến truyền thuyết về xuất xứ cây tháp, vốn là một tháp lớn dựng trong vườn tháp ở giữa cánh đồng Nẫu xã Tứ Yên, Lập Thạch, sau một đêm mưa bão thì nhảy về vị trí hiện nay…

Một truyền thuyết khác nói về chiếc giếng bên cạnh tháp với con vịt bằng vàng, là dấu tích nền móng một cây tháp khác có màu xanh bên tháp Bình Sơn, đã bay lên trời.

Ngoài ra còn có truyền thuyết về thủ lĩnh địa phương Ngụy Đồ Chiêm, là con một người đàn bà bán quán nước chân tháp, đã ôm kiếm chạy vào cây tháp rồi biến mất khi bị quân triều đình đến đánh dẹp.


 Sau nhiều thế kỷ tồn tại, tháp Bình Sơn từng đứng trước nguy cơ sụp đổ vào thập niên 1960 do các trận lụt liên miên làm sói lở chân tháp.

Nhu cầu tu bổ tháp được đặt ra cấp thiết trong bối cảnh miền Bắc đang trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt.


 Từ tháng 5/1972, quá trình phục chế tháp theo lối thủ công được thực hiện.

Việc làm gạch để thay thế và bổ sung những chỗ bị vỡ trên tháp, bị nát, bị khuyết, bị lũ quét, phải kéo dài đến hai năm.


 Ngày nay, tháp Bình Sơn được coi là một trong những di tích lịch sử và nghệ thuật – kiến trúc có giá trị quan trọng bậc nhất trên lãnh thổ Việt Nam.


 Với những giá trị tiêu biểu của mình, tòa tháp đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt từ năm 2015.