12/08/2025

Buổi nói chuyện trước khi chết

 ST

 


Dr. Richard – 40 tuổi, bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ, triệu phú – đã chia sẻ về cuộc đời mình trước sinh viên năm nhất tại Trường Đại học Y vào ngày 19/01/2012:

“Chào buổi sáng.

Giọng tôi hơi yếu, mong mọi người thông cảm.

Tôi là Richard – một bác sĩ.

Hôm nay tôi chỉ muốn chia sẻ một chút về cuộc đời mình.

Tôi rất biết ơn thầy cô đã mời tôi đến đây, vì ngoài các bài học về nha khoa mà các bạn đang học, tôi nghĩ có một số điều khác đáng để lắng nghe.

Từ nhỏ tôi đã là một “sản phẩm hoàn hảo” của xã hội hiện đại – đúng chuẩn thành công.

Sinh ra trong cảnh nghèo, nhưng tôi lớn lên trong môi trường truyền thông, nơi người ta định nghĩa hạnh phúc là sự thành công, mà thành công thì lại đồng nghĩa với tiền bạc.

Tôi đã mang trong mình một khát vọng ganh đua rất lớn.

Tôi không chỉ là học sinh xuất sắc, mà còn muốn là người giỏi nhất trong mọi lĩnh vực.

Tôi phải đoạt giải, phải mặc đồng phục đẹp, phải có huy chương – càng nhiều, càng tốt.

Tôi học Y, và tất nhiên, tôi theo ngành “đắt giá” – phẫu thuật thẩm mỹ.

Tôi được cấp học bổng sang Singapore, nghiên cứu về điều trị mắt bằng laser.

Rồi tôi thấy cơ hội thực sự là ở ngành làm đẹp – nên tôi bỏ dở chuyên khoa và mở phòng khám thẩm mỹ riêng.

Và tôi thành công rực rỡ.

Tôi kiếm hàng triệu USD trong một năm.

Phòng khám phát đạt đến mức phải thuê thêm 4 bác sĩ.

Tôi mở thêm chi nhánh ở Indonesia – phục vụ tầng lớp thượng lưu.

Thời gian rảnh?

Tôi tham gia CLB xe thể thao. Chạy xe đua xuyên biên giới sang Malaysia bằng chiếc SUV độ hàng trăm nghìn đô. Tôi mua Ferrari F430 màu bạc – bạn tôi là chủ ngân hàng thì đi bản màu đỏ.

Tôi bắt đầu sưu tầm bất động sản.

Tôi sống giữa tiền bạc, danh tiếng và sắc đẹp. Bạn gái tôi từng là hoa hậu hoàn vũ. Tôi ăn ở những nhà hàng có đầu bếp Michelin.

Tôi nghĩ mình đang đứng trên đỉnh của thế giới.

Cho đến một ngày…

Khoảng tháng 3 năm ngoái, tôi bắt đầu đau lưng. Tôi nghĩ chắc tại ngồi nhiều. Tôi đến bệnh viện nơi bạn tôi làm việc để chụp MRI. Bạn tôi nói thẳng: “Có dấu hiệu ung thư di căn ở xương sống.”

Tôi sững sờ. Tôi không thể tin nổi. Hôm trước còn chạy bộ được cơ mà!? Hôm sau tôi đi chụp PET scan – kết luận:

Ung thư phổi giai đoạn cuối (Stage IV). Di căn lên não, gan, thận và cột sống.

Tôi – người tưởng chừng như có tất cả – Lúc đó – mới biết mình chẳng còn gì.

Tôi nhìn phim CT và thấy hàng ngàn nốt nhỏ li ti phủ đầy phổi – gọi là miliary tumor.

Bác sĩ bảo – ngay cả dùng hóa trị thì tôi cũng chỉ còn 3–4 tháng.

Tôi suy sụp.

Tôi nghĩ mình có nhà, có xe, có danh tiếng, có mọi thứ…

Nhưng không thứ gì cứu được tôi.

Tôi từng nghĩ tiền sẽ mua được hạnh phúc.

Giờ đây, tôi hiểu rằng những chiếc Ferrari, nhà lầu hay danh tiếng – không thể nào khiến tôi mỉm cười nổi nữa.

10 tháng qua – những giây phút hạnh phúc thật sự của tôi – không phải là khi lái siêu xe, không phải khi ký hợp đồng triệu đô. Mà là khi tôi được bạn bè, người thân ôm tôi khóc, ngồi bên tôi cười, nghe tôi chia sẻ, và im lặng cùng tôi vượt qua đau đớn.

Tôi từng nghĩ mình đang “khoe” thành quả. Nhưng bây giờ tôi biết – tôi chỉ đang phô bày bản ngã và lòng kiêu hãnh.

Tôi từng làm việc ở khoa ung thư khi còn thực tập. Tôi gặp bệnh nhân đau đớn, thở oxy từng nhịp. Nhưng với tôi lúc ấy – đó chỉ là “công việc”. Tôi không thực sự cảm nhận được nỗi đau của họ. Giờ đây – khi chính tôi phải hóa trị, khi tôi phải đối mặt với cái chết – tôi mới thực sự hiểu thế nào là “bệnh nhân”.

Nếu có ai hỏi tôi:

“Nếu được sống lại, anh có thay đổi điều gì không?”

Tôi sẽ nói: Có. Tôi sẽ quan tâm hơn, biết lắng nghe hơn. Tôi sẽ không đánh giá người khác bằng đồng tiền. Tôi sẽ làm bác sĩ – đúng nghĩa – để chữa bệnh và xoa dịu nỗi đau.

Tôi có 2 điều muốn nhắn gửi:

Thành công và giàu có không sai. Nhưng nếu để những điều đó định nghĩa con người bạn, bạn sẽ không thể chịu nổi khi đánh mất chúng. Đừng quên lý do bạn trở thành bác sĩ. Bệnh nhân không phải là “nguồn thu”. Đừng kê đơn vì lợi nhuận. Hãy đối xử với họ như con người – với trái tim biết đồng cảm.

Tôi đang hóa trị lần thứ 5. Nó rất kinh khủng. Tôi không muốn bất kỳ ai phải trải qua những gì tôi đang phải trải qua. Tôi không ăn uống được.

Nhưng tôi vẫn đến thăm các bệnh nhân ung thư khác, vì tôi hiểu được họ. Dù đã quá muộn – tôi vẫn muốn làm gì đó có ý nghĩa.

Các bạn có cả một tương lai tươi sáng. Tôi chỉ muốn các bạn nhớ:

Bệnh nhân là con người thật, đang thật sự đau đớn.

Không phải chỉ người nghèo mới đau khổ – người giàu có khi còn khổ hơn.

Một chút thấu cảm của bạn – có thể là ánh sáng trong địa ngục của họ.

Tôi sắp chết – nhưng tôi cảm thấy… tôi vừa mới bắt đầu sống. Những người quan tâm đến tôi lúc này – mới chính là những người tôi trân quý.

Nếu tôi có thể sống lại – tôi sẽ sống khác.

Trong một cuốn sách có câu:

“Tất cả chúng ta đều biết mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai thực sự tin điều đó. Nếu tin, chúng ta đã sống khác đi rồi.

Đừng sống như tôi đã từng. 

Hãy sống như tôi đang sống – dù chỉ còn vài tháng để sống.

Xin cảm ơn vì đã lắng nghe.

Nếu có ai muốn hỏi, tôi sẵn sàng chia sẻ thêm.

- Bác sĩ Richard qua đời ngày 18.10.2012

10/08/2025

Các gánh hàng rong một thời trên đường phố Hà Nội giai đoạn 1930-1950

ST


Một phụ nữ bán cam trên phố Hàng Buồm vào dịp Tết Ất Mùi (1955). Tác phẩm là một trong hơn 20 bức ảnh được triển lãm tại sự kiện Gánh hàng rong - buổi trưng bày nghệ thuật do Viện Pháp tại Việt Nam và Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) tổ chức từ ngày 23/9 đến 5/11 ở Idecaf (quận 1, TP HCM). Triển lãm nhằm gợi lại những ký ức xưa cũ về các gánh hàng rong một thời trên đường phố Hà Nội giai đoạn 1930-1950, nguồn ảnh từ các nhiếp ảnh gia Pháp trong những chuyến công du ở Việt Nam đương thời. Từ năm 2008, Hà Nội cấm hàng rong trên nhiều tuyến phố, vỉa hè để giữ không gian công cộng, bảo vệ môi trường và an toàn giao thông.

Một phụ nữ bán cam trên phố Hàng Buồm vào dịp Tết Ất Mùi (1955). Tác phẩm là một trong hơn 20 bức ảnh được triển lãm tại sự kiện "Gánh hàng rong" - buổi trưng bày nghệ thuật do Viện Pháp tại Việt Nam và Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) tổ chức từ ngày 23/9 đến 5/11/2022 ở Idecaf, quận 1, TP HCM.

Một phụ nữ bán cá ở một chợ tại Hà Nội thập niên 1950. Theo Olivier Tessier (Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp) - học giả từng có nhiều năm nghiên cứu văn hóa Việt Nam, những gánh hàng rong ngày trước chủ yếu đến từ các làng phụ cận Hà Nội (ngày nay đã sát nhập vào thủ đô) mà trước kia là vùng nông nghiệp từng góp phần cung cấp lương thực, thực phẩm cho hơn 100 000 người dân nội ô. Bên cạnh những người bán hàng rong, còn có những người chuyên thu mua, trao đổi các đồ vật đã qua sử dụng hay phế liệu các loại, với tiếng rao đặc trưng như: Ai lông gà, lông vịt, đồng nát bán đi.../ Tóc rối đổi kẹo, vỏ chai, hộp xà phòng bán nào....

Một phụ nữ bán cá ở một chợ tại Hà Nội thập niên 1950. Theo Olivier Tessier (Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp) - học giả từng có nhiều năm nghiên cứu văn hóa Việt Nam, những gánh hàng rong ngày trước chủ yếu đến từ các làng phụ cận Hà Nội (ngày nay đã sáp nhập vào thủ đô) mà trước kia là vùng nông nghiệp từng góp phần cung cấp lương thực, thực phẩm cho hơn 100 000 người dân nội ô. Bên cạnh những người bán hàng rong, còn có những người chuyên thu mua, trao đổi các đồ vật đã qua sử dụng hay phế liệu các loại, với tiếng rao đặc trưng như: "Ai lông gà, lông vịt, đồng nát bán đi.../ Tóc rối đổi kẹo, vỏ chai, hộp xà phòng bán nào...".

Một gánh tiết canh lòng lợn được bày bán trên đường phố. Hình ảnh các bà, các chị ngồi xổm trên đất, bán hàng giữa các sọt mây song, in đậm trong ký ức những người yêu văn hóa, ẩm thực Hà Nội một thời.

Một gánh tiết canh lòng lợn được bày bán trên đường phố. Hình ảnh các bà, các chị ngồi xổm trên đất, bán hàng giữa các sọt mây song, in đậm trong ký ức những người yêu văn hóa, ẩm thực Hà Nội một thời.

Các cô bán sirô lựu ở gần chợ Đồng Xuân, Hà Nội năm 1951.

Các cô bán siro lựu ở gần chợ Đồng Xuân, Hà Nội năm 1951.

Những gánh hoa bên hồ Hoàn Kiếm. Người bán chủ yếu là các thiếu nữ đến từ làng hoa Ngọc Hà, Hữu Tiệp. Các cô hay chít khăn mỏ quạ, mặc áo tứ thân ngồi thành một dãy. Một thời gian, nhu cầu mua hoa của người Pháp khiến các kiốt phục vụ không đủ, hoa bày bán tràn ra đường rồi thành chợ ven hồ Gươm.

Những gánh hoa bên hồ Hoàn Kiếm. Người bán chủ yếu là các thiếu nữ đến từ làng hoa Ngọc Hà, Hữu Tiệp. Các cô hay chít khăn mỏ quạ, mặc áo tứ thân ngồi thành một dãy. Một thời gian, nhu cầu mua hoa của người Pháp khiến các kiot phục vụ không đủ, hoa bày bán tràn ra đường rồi thành chợ ven hồ Gươm.

Các thực khách đang thưởng thức bên gánh phở dạo ở hồ Hoàn Kiếm. Theo đơn vị tổ chức triển lãm, trước đây, phở thường được bán trên gánh hàng rong. Người bán sẽ gánh chúng ra vỉa hè để bán; một bên quang gánh đựng bát, thìa, đũa, bánh phở, bên kia thì đựng nồi nước nóng hổi. Người bán sẽ treo thêm tảng thịt bò luộc chín khoảng 2 kg bằng lạt ở phía trên.

Các thực khách đang thưởng thức bên gánh phở dạo ở hồ Hoàn Kiếm. Theo đơn vị tổ chức triển lãm, trước đây, phở thường được bán trên gánh hàng rong. Người bán sẽ gánh chúng ra vỉa hè để bán; một bên quang gánh đựng bát, thìa, đũa, bánh phở, bên kia thì đựng nồi nước nóng hổi. Người bán sẽ treo thêm tảng thịt bò luộc chín khoảng 2 kg bằng lạt ở phía trên.

Khung cảnh họp chợ trước đình làng Bát Tràng.

Khung cảnh họp chợ trước đình làng Bát Tràng.

Một góc gian hàng bày bán bánh chưng, ấm chén, đồ thủy tinh các loại.

Một góc gian hàng bày bán bánh chưng, ấm chén, đồ thủy tinh các loại.

Một gánh phở dạo trên vỉa hè. Người gánh hàng rong cân bằng bằng hai đầu đòn gánh, một bên là bếp lò và nồi nấu, một bên là bán đũa, dao nĩa và các đồ gia vị. Nước dùng luôn sôi sùng sục để phục vụ thực khách thưởng thức món phở tái.

Một gánh phở dạo trên vỉa hè. Người gánh hàng rong cân bằng bằng hai đầu đòn gánh, một bên là bếp lò và nồi nấu, một bên là bán đũa, dao nĩa và các đồ gia vị. Nước dùng luôn sôi sùng sục để phục vụ thực khách thưởng thức món phở tái.

Người bán trà, chiếu và sọt tre ở Hà Nội.

Người bán trà, chiếu và sọt tre ở Hà Nội.

Một góc trước cổng chợ Đồng Xuân vào năm 1951. Chợ Đồng Xuân ra đời năm 1889, là nơi buôn bán sầm uất của người dân thủ đô suốt hơn 100 năm qua. Sau khi hoàn thành, chợ chỉ họp hai ngày một phiên, về sau do nhu cầu phát triển thương mại, chợ họp hàng ngày từ sáng đến tối. Thời kỳ này, các mặt hàng được các tiểu thương buôn bán đa dạng, từ hàng nông sản, thực phẩm, rau quả, đến hàng vải vóc, máy móc của Pháp, Trung Hoa, Ấn Độ...

Một góc trước cổng chợ Đồng Xuân vào năm 1951. Chợ Đồng Xuân ra đời năm 1889, là nơi buôn bán sầm uất của người dân thủ đô suốt hơn 100 năm qua. Sau khi hoàn thành, chợ chỉ họp hai ngày một phiên, về sau do nhu cầu phát triển thương mại, chợ họp hàng ngày từ sáng đến tối. Thời kỳ này, các mặt hàng được các tiểu thương buôn bán đa dạng, từ hàng nông sản, thực phẩm, rau quả, đến hàng vải vóc, máy móc của Pháp, Trung Hoa, Ấn Độ...

Không khí đông vui, nhộn nhịp của chợ Đồng Xuân vào dịp giáp Tết năm 1955.

Không khí đông vui, nhộn nhịp của chợ Đồng Xuân vào dịp giáp Tết năm 1955.


05/08/2025

Làm nước mắm giả từ hơn trăm năm trước

 Vũ Thế Thành


 

Nạn làm nước mắm giả đã có từ thời Pháp thuộc, chủ yếu xảy ra ở miền Bắc, nơi có nhu cầu tiêu thụ cao, nhưng nguyên liệu và thời tiết vùng miền không thuận lợi để sản xuất nước mắm đáp ứng nhu cầu.

Khoảng đầu thập niên 20 của thế kỷ trước, mới có nước mắm Vạn Vân (Hải Phòng) cũng thuộc loại có tiếng, chinh phục được khẩu vị của dân xứ Bắc, nhưng không đáp ứng nổi nhu cầu.

Trước đó, cũng có nước mắm Vạn Phần ở Nghệ An, nhưng mùi hơi nặng, hợp mùi với dân địa phương, nhưng khó đáp ứng với máu sành ăn của dân Bắc Hà.

Nước mắm Phan Thiết thuộc loại ngon nhất rồi, nhưng vận chuyển ra tới ngoài Bắc thì giá lại cao.

Cung không đáp đáp ứng nổi cầu, nên mới sinh ra nạn làm nước mắm giả, rồi đưa cả vào trong Nam. Giá nước mắm giả quá rẻ, mùi nào cũng chơi, giá nào cũng chiều, làm các hàm hộ nước mắm ở Phan Thiết xính vính muốn phá sản.

Chính phủ Pháp hồi đó muốn bảo vệ một ngành nghề truyền thống của xứ thuộc địa, nên giao cho Viện Pasteur Đông Dương và Sài Gòn nghiên cứu về nước mắm, để đưa ra một định nghĩa về nước mắm làm cơ sở pháp lý để ban hành Nghị Định, rồi cơ quan chấp pháp thi hành

Nghị định này rất linh hoạt, vẫn tạo điều kiện cho dân miền Bắc làm nước mắm theo cách riêng của họ hợp pháp. Nghị Định chỉ nhằm triệt tiêu nạn làm nước mắm giả quá đáng và lộ liễu.

Năm 1932 , tờ Ngọ báo Hà thành, số 1393 đưa tin về phiên tòa xét xử vụ nước mắm giả của P.Fauquenot với tựa đề “Một người bị kết 3 tháng tù treo và 2.000 quan tiền phạt (dẫn lại tư liệu của Đỗ Thành Danh).

Một trong những điểm linh hoạt của Nghị Định này là, làm nước mắm ngoài muối và cá, còn được phép dùng THÍNH (gạo) và NƯỚC MÀU tự nhiên thắng từ đường ăn. Tại sao lại cho phép dùng thính và nước màu?

Thật ra, làm nước mắm giả hồi đó không cần dùng tới thính. Chỉ có dân làm nước mắm thiệt ở miệt Trung- Bắc xài thính, vì thính hấp phụ bớt đi mùi khó chịu của nước mắm, và cũng một phần tạo ra màu nâu đỏ cho nước mắm.

Còn nước màu thì đa số là ngoài Bắc hoặc miền Trung Bắc như Quảng Trị, Nghệ An,… mới cần dùng tới để tạo màu nước mắm. Còn trong Nam, nước mắm hạng nhì, hạng ba kẹt quá cũng xài nước màu, vì lúc đó màu nước mắm đã hơi bị nhạt, trông không bắt mắt.

Còn làm nước mắm giả thì quá đơn giản như trích đoạn bên dưới từ quyển “Chuyện đời nước mắm” (Vtt)

============================

Nước mắm hồi đó bị làm giả như thế nào?

Hồi đó mấy anh người Hoa Chợ Lớn đâu đã có bột ngọt hay siêu bột ngọt để phù phép về vị nước mắm, cũng chưa có hương nước mắm nhân tạo để biến hóa mùi, chưa có chất làm dầy để làm giả độ sánh của nước mắm cao đạm, cũng như chưa có màu tổng hợp để giả màu vàng nâu hổ phách…

Cách làm giả duy nhất là, thêm nước muối kéo rút cạn kiệt các thùng chượp bất chấp độ đạm còn bao nhiêu, hoặc pha loãng với nước miễn là còn mùi nước mắm. Rồi thêm muối để chặn nước mắm trở mùi, và thêm nước màu (thắng từ đường) để tạo màu.

Nước mắm giả pha loãng vô tư thế này thì nước mắm thứ thiệt làm sao cạnh tranh nổi. Xưa cũng vậy mà nay cũng thế.

Ngăn chặn nước mắm giả bằng văn bản

Nước mắm giả lộng hành dẫn đến việc chính quyền Đông Dương ban hành nghị định đầu tiên vào năm 1916 nhằm bảo vệ người tiêu dùng và nhà sản xuất chân chính. Sau vài lần thay đổi, nghị định về việc buôn bán và lưu thông nước mắm được ban hành vào ngày 30.04.1930. Những trích dẫn dưới đây dựa trên nghị định sau cùng này.

Điều thú vị là điều 5 của nghị định này quy định như sau:

Trong việc sản xuất nước mắm, cấm sử dụng các loại thuốc sát trùng và chất bảo quản ngoại trừ muối, các loại phẩm màu ngoại trừ nước màu (từ đường thắng) và thính”.

Việc dùng thính (gạo rang xay mịn) chủ yếu được sử dụng trong sản xuất nước mắm ở khu vực Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ, nơi mà thời tiết và nguồn nguyên liệu (cá) không thuận lợi. Họ phải đánh khuấy cá cho nát, chứ không ủ chượp như ở miền Nam, và dùng ít muối để việc lên men được dễ dàng hơn. Điều này làm nước mắm dễ trở mùi, và họ dùng thính để hấp phụ mùi.

Theo điều 5 của nghị định này thì nước mắm công nghiệp ngày nay bị loại khỏi cuộc chơi… nước mắm.