05/11/2014

22 câu Hỏi - Đáp súc tích về căn bản Phật giáo

   Bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu và thực nghiệm các lời dạy của đức Phật. Ngài dạy rằng lời giải đáp cho mọi vấn đề của chúng ta là ở bên trong chúng ta, không phải ở bên ngoài. Ngài nói với các đệ tử không được tin ngay vào lời dạy của Ngài, mà họ phải tự thử nghiệm các lời dạy đó.

 - Phật giáo là gì?
- Phật giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "Buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh". Phật giáo phát nguồn từ hơn 2500 năm trước, khi Ngài Siddhattha Gotama (Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm), hay đức Phật, tự mình giác ngộ vào lúc 35 tuổi.
- Có phải Phật giáo chỉ thuần là một tôn giáo?
- Đối với nhiều người, Phật giáo không phải chỉ là một tôn giáo mà còn có thể xem như là một triết học, hay đúng hơn, đó là "một lối sống". Gọi Phật giáo là một triết học, vì danh từ "triết học - philosophy" có nghĩa là "sự yêu chuộng trí tuệ", và con đường của đạo Phật có thể tóm tắt như sau:
(1) sống có đạo đức,
(2) nhận thức rõ ràng về mọi ý nghĩ và hành động, và
(3) phát triển sự hiểu biết và trí tuệ.
- Phật giáo giúp tôi bằng cách nào?
- Phật giáo giải thích mục đích của đời sống, giải thích hiện tượng bất công và bất bình đẳng trên thế gian, và cung ứng một phương cách thực hành hay một lối sống để đưa đến hạnh phúc thật sự.
- Tại sao Phật giáo trở nên phổ biến?
- Phật giáo ngày càng phổ biến ở các nước Tây phương vì nhiều lý do. Thứ nhất là vì Phật giáo có những giải đáp cho nhiều vấn đề trong các xã hội vật chất hiện đại. Tiếp đến, cho những ai có chú tâm, Phật giáo cung ứng một sự thông hiểu sâu sắc về tâm trí con người và các cách trị liệu tự nhiên, mà các nhà tâm lý nổi tiếng trên thế giới đều công nhận là rất hiệu quả.
- Đức Phật là ai?
- Ngài Siddhattha Gotama sinh ra vào năm 563 trước Tây lịch, trong một hoàng tộc tại Lumbini, nay thuộc xứ Nepal. Vào năm 29 tuổi, Ngài nhận thức rằng tiện nghi vật chất và an ninh trong thế gian không bảo đảm hạnh phúc; vì thế, Ngài đi tìm học các lời dạy, tôn giáo và triết học thời đó, để tìm kiếm chìa khóa đưa đến hạnh phúc.
Sau sáu năm học tập và hành thiền, Ngài tìm ra con đường "Trung Đạo" và giác ngộ. Sau khi chứng đắc, Ngài dùng quảng đời còn lại tại thế gian để truyền giảng các nguyên lý trong đạo Phật -- gọi là Pháp, hay Chân lý, cho đến khi Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi.
- Có phải đức Phật là Thượng Đế?
- Không, Ngài không là Thượng Đế, và Ngài cũng không tuyên bố như thế. Ngài là Người giảng dạy con đường đưa đến giác ngộ, từ kinh nghiệm thực chứng của Ngài.
- Phật tử có tôn thờ các thần tượng không?
- Phật tử tỏ lòng tôn kính các hình ảnh của đức Phật, nhưng không tôn thờ, cũng không van xin những điều lợi lạc. Một pho tượng Phật ngồi trong tư thế với hai tay dịu dàng đặt trên vế, với nụ cười từ bi, nhắc nhở chúng ta nỗ lực phát triển tình thương và an định nội tâm. Lễ lạy tượng Phật là để tỏ lòng biết ơn về các lời dạy của Ngài.
- Tại sao nhiều quốc gia Phật giáo lại nghèo như vậy?
- Không hẳn đúng như vậy. Nhật Bản là một quốc gia có truyền thống Phật giáo sâu đậm và ngày nay cũng là một quốc gia có kinh tế giàu mạnh. Thái Lan, với Phật giáo là quốc giáo, cũng có một nền kinh tế tương đối vững mạnh và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cần biết rằng một trong các điều dạy của Phật giáo là tài sản của cải không bảo đảm được hạnh phúc, và tài sản của cải cũng không bao giờ thường còn. Dân chúng trong bất kỳ quốc gia nào cũng chịu đau khổ, cho dù họ giàu sang hay nghèo nàn. Chỉ những người nào thông hiểu các lời dạy trong Phật giáo thì mới có thể tìm được hạnh phúc thật sự.
- Có phải có nhiều tông phái Phật giáo không?
- Có nhiều tông phái trong Phật giáo là vì có những khác biệt về văn hóa và truyền thống lịch sử của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, căn bản của Phật giáo vẫn không thay đổi, đó là Pháp hay Chân lý.
- Có phải các tôn giáo khác đều sai lầm?
- Phật giáo là một hệ thống tín ngưỡng có tính bao dung đối với các tín ngưỡng hay tôn giáo khác. Phật giáo chấp nhận các lời giảng đạo đức của các tôn giáo khác, nhưng Phật giáo còn tiến xa hơn, bằng cách cung ứng một mục tiêu dài hạn trong sự hiện hữu của chúng ta, qua trí tuệ và sự hiểu biết thật sự. Phật giáo chân chính thì rất bao dung, và không quan tâm chi đến các nhãn hiệu như là "tín hữu Ky-tô giáo", "tín hữu Hồi giáo", "tín hữu Ấn-độ giáo", hay "Phật tử". Vì vậy, trong lịch sử, không bao giờ có các cuộc thánh chiến mang danh Phật giáo. Cũng vì thế mà những người phật tử không đi truyền giảng hay cải đạo người khác; họ chỉ giảng giải nếu được ai hỏi đến.
- Phật giáo có tính khoa học không?
- Khoa học là tri thức được kết hợp thành hệ thống, qua các dữ kiện được quan sát và thực nghiệm và đề ra các định luật tổng quát của thiên nhiên. Cốt lõi của Phật giáo phù hợp với định nghĩa đó, bởi vì Tứ Diệu Đế hay Bốn Sự Thật Thâm Diệu, có thể được thử nghiệm và minh chứng bởi bất kỳ người nào, và ngay chính đức Phật cũng đã từng nói với các đệ tử rằng họ phải thực chứng các lời dạy của Ngài, mà không nên chỉ tin suông. Phật giáo dựa nhiều trên trí tuệ, hơn là lòng tin.
- Đức Phật đã dạy những gì?
- Đức Phật đã giảng dạy rất nhiều đề tài, nhưng các điều căn bản trong Phật giáo có thể tóm tắt trong Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
- Diệu đế thứ nhất là gì?
- Khổ Đế, chân lý thâm diệu đầu tiên, nói rằng đời sống là đau khổ, nghĩa là phải chịu đau đớn thể xác, già nua, bệnh hoạn, rồi chết. Ta cũng phải chịu đau khổ về mặt tâm lý như cô đơn, phiền giận, bực bội, sợ hãi, bối rối, thất vọng, sân hận. Đây là một sự kiện hiển nhiên, không thể chối cãi. Đây là thực tế khách quan, không phải bi quan; vì bi quan là mong đợi những điều gì trở nên tệ hại. Mặt khác, Phật giáo giải thích cách thức giải quyết các đau khổ đó và cách thức để có hạnh phúc thật sự.
- Diệu đế thứ nhì là gì?
- Tập Đế, chân lý thâm diệu thứ nhì, dạy rằng tất cả mọi đau khổ đều do ái dục và tham thủ. Ta sẽ bị phiền khổ nếu ta mong đợi người khác phải tuân theo ý muốn của mình, phải làm giống như mình, nếu ta không được những gì mình muốn, v.v. Ngay cả khi ta muốn và được, điều này cũng không bảo đảm có hạnh phúc. Tâm khát khao ham muốn cướp đoạt của ta niềm vui được thỏa lòng và hạnh phúc. Thay vì kiên trì chiến đấu để thành đạt điều mong muốn, hãy cố gắng sửa đổi chính cái lòng ước muốn của mình.
- Diệu đế thứ ba là gì?
- Diệt Đế, chân lý thâm diệu thứ ba, là có thể chấm dứt đau khổ và đạt được trạng thái thỏa lòng và hạnh phúc. Khi ta dứt bỏ ái dục, vốn là vô ích, và tập sống từng ngày, chúng ta bắt đầu sống an vui và tự do. Chúng ta sẽ có nhiều thì giờ và năng lực để giúp đỡ người khác. Trạng thái ấy được gọi là Niết bàn.
- Diệu đế thứ tư là gì?
- Đạo Đế, chân lý thâm diệu thứ tư, là con đường đưa đến chấm dứt đau khổ. Con đường này gọi là Bát Chánh Ðạo.
- Bát Chánh Đạo là gì?
- Đó là con đường gồm 8 yếu tố chân chánh: Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, và Chánh Định. Đây là con đường của đạo đức và tỉnh thức - qua lời nói, ý nghĩ và hành động, và phát triển trí tuệ bằng sự nhận thức rõ ràng về Tứ Diệu Đế và bằng sự tăng trưởng lòng từ bi.
- Ngũ giới là gì?
- Đây là năm điều giới luật đạo đức của Phật giáo. Đó là: không sát hại, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói dối, và không dùng các chất say làm lu mờ trí óc.
- Nghiệp là gì?
- Nghiệp hay "nghiệp-quả" là một định luật cho biết rằng mỗi một nguyên nhân đều tạo ra một hậu quả, có nghĩa là các hành động của ta đều có những hậu quả. Định luật đơn giản này đã giải thích nhiều vấn đề: sự bất công trên thế gian, tại sao có người sinh ra lại có phế tật, có người lại có nhiều tài năng, có người có đời sống rất ngắn ngủi. Nghiệp cho thấy tầm quan trọng về việc tất cả chúng ta phải chịu trách nhiệm về các hành động của chính mình, trong quá khứ và hiện tại.
Làm thế nào để thử nghiệm tác động nghiệp quả của các hành động của ta?
Câu trả lời được tóm tắt bằng cách hãy nhìn xem 3 điểm chính:
(1) ý định đằng sau của mỗi hành động,
(2) hậu quả của hành động đó vào chính mình, và
(3) hậu quả của hành động đó vào những người khác.
- Trí tuệ là gì?
- Trong Phật giáo, Trí tuệ phải được phát triển cùng với từ bi. Trong một cực đoan, bạn có thể là một người tốt bụng nhưng khờ dại, và trong một cực đoan khác, bạn có thể có nhiều kiến thức nhưng lại không có tình cảm. Phật Giáo dạy ta nên giữ thật sự cân bằng và trọn vẹn cả hai, phải trau giồi cả trí tuệ lẫn và từ bi. Trí tuệ cao nhất là thấy rõ ràng rằng trên thực tế, mọi hiện tượng đều không hoàn toàn, không thường còn, và không có một thực thể cố định. Trí tuệ thật sự không phải chỉ vì tin vào những gì được dạy, mà phải chứng nghiệm và thông hiểu chân lý và thực tế. Trí tuệ đòi hỏi phải có một tâm ý rộng mở, khách quan, không cố chấp. Con đường của Phật giáo đòi hỏi phải can đảm, nhẫn nhục, mềm dẻo và thông minh.
- Từ bi là gì?
- Từ bi bao gồm các phẩm hạnh của lòng san sẻ, sẵn sàng an ủi người khác, thiện cảm, chăm lo và ưu tư. Trong Phật giáo, ta chỉ thật sự cảm thông người khác khi nào ta thật sự cảm thông chính mình, qua trí tuệ.
- Tôi phải làm thế nào để trở thành một người theo đạo Phật?
- Bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu và thực nghiệm các lời dạy của đức Phật. Ngài dạy rằng lời giải đáp cho mọi vấn đề của chúng ta là ở bên trong chúng ta, không phải ở bên ngoài. Ngài nói với các đệ tử không được tin ngay vào lời dạy của Ngài, mà họ phải tự thử nghiệm các lời dạy đó.
   Như thế, mỗi người tự có quyết định và tự chịu trách nhiệm về các hành động và sự hiểu biết của mình. Điều này cho thấy Phật giáo không phải là một tập hợp cố định các tín điều cần phải được chấp nhận trọn vẹn. Đây là những lời dạy để mỗi người tự tìm hiểu, học tập và áp dụng theo tình huống riêng của mình.
Theo PHẬT GIÁO VIỆT NAM

04/11/2014

Một số hình ảnh Việt Nam thời Pháp thuộc.

Hồ Hoàn Kiếm có đến hai cây cầu, trẻ em tập đánh bốc, chiếu bạc ven đường... là những hình ảnh độc đáo về Việt Nam thời  Pháp thuộc, được tập hợp trong cuốn sách có tựa đề "Đông Dương sâu kín" (L'Indochine Profonde) của tác giả. J. P. Dannaud.
Cuốn sách xuất bản năm 1962 được minh hoạ bằng những bức ảnh do các tay máy người Pháp như Raoul Coutard, Jean Lhuissier, Kim Khánh, Pierre Ferrari, Guy Defive... thực hiện trước năm 1954 tại nhiều địa điểm khác nhau ở Đông Dương. Các hình ảnh này được giới thiệu trên trang BELLE INDOCHINE của  Pháp.
Vẻ nhộn nhịp trên đường phố Hà Nội.
Bức ảnh này cho thấy có thời điểm hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội) có tới hai chiếc cầu dẫn vào đền Ngọc Sơn. Cây cầu bên trái là cầu Thê Húc, cây cầu bên phải nhỏ hơn, được dựng sơ sài bằng các thân tre.
Gánh hàng tào phớ trên đường phố.
Dịch vụ cà trắng răng ngay trên vỉa hè.
Nhiều cư dân Hà Nội thời thuộc Pháp đến từ các vùng nông thôn lân cận.
Người đàn ông theo Công giáo và những bức tượng nhỏ.
Chiếu bạc ven đường. Các bộ bài Tây đã du nhập vào Việt Nam từ nước Pháp.
Xem bói ở phía ngoài một ngôi đình.
Những đứa trẻ tập đánh bốc. Môn thể thao này cũng được đưa vào Việt Nam từ nước  Pháp.
Người nông dân lỉnh kỉnh đồ nghề đi đánh giậm.
Những chiếc hũ dùng để đựng nước mắm chất thành đống cao tại một tỉnh Nam Kỳ.
Mùa nước nổi trên lưu vực sông Mekong.
Lễ hội đua thuyền.
Một cô gái thuộc gia đình quý tộc người  H'Mông ở miền núi phía  Bắc.
Phụ nữ H'Mông trên một cánh đồng thuốc phiện. Nghề trồng và chế biến thuốc phiện đem lại cho họ các khoản tiền mặt lớn cũng như nhiều thứ hàng hoá của miền xuôi.
Trẻ em H'Mông đã biết lao động từ khi còn rất nhỏ.
Phụ nữ dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trồng lúa, ngô trên nương rẫy để bảo đảm nguồn lương thực.
Phụ nữ thuộc một bộ tộc ở Lào.
Phụ nữ thuộc một bộ tộc ở Lào.
Một đội voi của người  Lào.

25/10/2014

50 điều bạn không bao giờ nuối tiếc vì đã làm


Bạn chỉ có một cuộc đời để sống. Thay vì dành thời gian để nuối tiếc và ao ước thì hãy làm tất cả những điều yêu thích, chấp nhận rủi ro và học từ sai lầm. Dưới đây là 50 điều bạn nên thử để làm giàu thêm trải nghiệm cuộc sống.
1. Đọc lại cuốn sách yêu thích, một hoặc nhiều lần.
2. Nói “con yêu ba mẹ”, “em yêu anh”, “anh thương em”, “tao thương mày”… thường xuyên hơn khi bạn còn có thể.
3. Chụp ảnh lại những khoảnh khắc quan trọng, ảnh cưới, hình tốt nghiệp, chụp hình con vật cưng… Những hình ảnh đẹp và quan trọng sẽ khiến bạn hạnh phúc, yêu đời khi ngắm nhìn.
4. Thư giãn cơ thể với việc tắm nước nóng.
5. Xem mặt trời mọc trên biển, từ căn gác trọ, trên núi. Mọi khoảnh khắc bình minh đều tuyệt vời với tâm trí.
6. Từ chối bữa ăn với gà rán, nước có ga; chọn cho mình bữa ăn lành mạnh, nhiều rau quả. Đó là cách bạn đối xử công bằng với cơ thể.
7. Thông suốt một vấn đề, một câu hỏi dẫu nó rất khó. Sự thanh thản là thuốc bổ cho tâm hồn, đừng để tâm trí phải lấn cấn vì bất cứ vấn đề gì.
8. Hãy nói lời xin lỗi.
9. Theo đuổi thứ mà bạn đam mê, yêu thích để thấy thật sự hứng khởi làm việc.
10. Ưu tiên tập thể dục, vận động cơ thể.
11. Đến một lớp học bạn thực sự quan tâm, một lớp học vẽ, học làm bánh, học múa bụng… thêm kỹ năng sẽ bồi đắp sự tự tin.
12. Dành thời gian cho những người bạn yêu thương, hẹn hò, trò chuyện, quan tâm, vỗ về họ.
13. Kiểm tra sức khỏe hằng năm, đo mắt và khám răng 6 tháng một lần, đừng có quên.
14. Buông bỏ những mối quan hệ xấu, làm bạn trượt dài, mạnh dạn lên và đừng tiếc nuối.
15. Ngủ một giấc ngắn, tỉnh dậy mọi chuyện sẽ khá hơn.
16. Lắng nghe tâm sự của một đứa bạn thất tình, giải quyết rắc rối giúp một người quen, làm một ngày của ai đó trở nên tươi sáng, bạn sẽ thấy điều kỳ diệu bất ngờ.
17. Uống một ly nước lớn, và nhiều ly như thế trong ngày.
18. Thử thách bản thân trong một hành trình mới để khám phá mình đi đến đâu, đón nhận những cơ hội, dù cơ hội luôn đi kèm thách thức nhưng rất đáng để thử.
19. Nói cám ơn từ tận đáy lòng.
20. Đi ngủ sớm hơn một tiếng. Khó mà vui nổi vào sáng hôm sau khi làm một cú đêm triền miên.
21. Hãy là chính mình.
22. Bao lâu rồi bạn chưa ôm một ai đó. Trao một cái ôm khi bạn có cơ hội, ấm áp lắm đấy, hãy thử.
23. Thực sự thử lắng nghe lời khuyên từ ba mẹ, chắc chắn rồi, họ luôn muốn những điều tốt nhất cho bạn.
24. Gửi một khoản tiết kiệm cho những trường hợp bất ngờ.
25. Học hô hấp nhân tạo. Bạn không thể ngờ cuộc sống sẽ có những gì chờ đón mình, thêm một kỹ năng là thêm cơ hội sống cho người thân yêu.
26. Chậm lại một chút để tận hưởng những điều nho nhỏ, đáng yêu. Hít hà mùi hoa sữa bay nhẹ trong gió chiều hay mỉm cười ngắm cầu vồng sáng bừng sau mưa.
27. Hãy yêu một ai đó, đơn phương cũng được. Cảm giác thầm thương trộm nhớ và yêu thương khiến tâm hồn tươi mới và sống động.
28. Cố gắng vượt qua nỗi sợ, thực hiện một điều bạn vẫn mong muốn.
29. Rửa mặt thật sạch, tẩy trang kỹ càng trước khi ngủ dù có mệt mỏi đến đâu.
30. Thỉnh thoảng tự thưởng một ngày nghỉ làm việc chỉ để đi lang thang ngắm phố phường hay đọc một cuốn sách yêu thích.
31. Đừng quá chủ quan vào trí nhớ, hãy viết lại những cảm xúc bạn muốn mình nhớ. Đến lúc đọc lại, ký ức sẽ sống lại trong bạn.
32. Dũng cảm bỏ một công việc mà bạn thực sự căm ghét.
33. Đi du lịch một vùng đất hoàn toàn mới mẻ.
34. Viết một lời cảm ơn trong tấm thiệp nhỏ hay một cái note. Chúng ta đã quá cũ kỹ, nhàm chán trong những tin nhắn qua Facebook hay email, chữ viết tay vẫn rất tuyệt và nhiều cảm xúc, thử xem.
35. Đừng làm mọi thứ quá nghiêm trọng.
36. Thử bỏ thuốc, bỏ việc kiểm tra Facebook mỗi giờ, bỏ thói quen thức khuya… Rất khó, nhưng bạn làm được.
37. Xem mặt trời lặn, lắng nghe những cảm xúc đến từ bên trong bạn.
38. Nấu các món ăn ngon và đẹp.
39. Xắn tay áo, giúp một ai đó.
40. Chăm sóc một chú chó hoặc mèo.
41. Mạnh dạn ủng hộ những gì bạn tin tưởng.
42. Học một ngôn ngữ mới.
43. Khen một ai đó thật lòng.
44. Nhìn ngắm ban nhạc yêu thích đang thăng hoa.
45. Tha thứ cho một người làm bạn tổn thương.
46. Thoa kem chống nắng trước khi ra đường.
47. Tặng ai đó món quà bất ngờ.
48. Bắt chuyện với người lạ.
49. Trồng một cái cây.
50. Yêu thương bản thân.


24/10/2014

NGƯỜI TU PHẬT là tìm về NGUỒN GỐC AN LẠC GIẢI THOÁT


Đề tài chúng tôi nhắc nhở hôm nay là: “Người tu Phật là tìm trở về nguồn gốc an lạc giải thoát”. Quí vị chú ý nghe lãnh hội đầy đủ thì mới tốt. Đức Phật sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, ngài tìm những người bạn đồng tu là năm anh em Kiều Trần Như để thuyết pháp. Bài pháp đầu tiên là Tứ đế hay Tứ diệu đế, mà đế đầu tiên trong Tứ đế là Khổ đế: cái khổ là lẽ thực trong cuộc đời nầy. Vậy Phật nói khổ, tại sao chúng tôi lại nói người tu tìm về nguồn gốc an lạc giải thoát, tức là vui. Như vậy có trái bản ý của đức Phật hay không? Tôi xin thưa: Khi người ta mới nhìn qua đạo Phật thấy dường như đạo Phật bi quan, yếm thế. Nhưng đi sâu, thấm nhuần giáo lý của Phật rồi, chúng ta thấy ngược lại. Đức Phật nói khổ là chỉ trên quả, mà quả là cái người ta dễ thấy, dễ biết. Khi biết được quả đó rồi thì ngài liền chỉ đến nhân. Nguyên nhân nào tạo ra quả khổ ấy. Khi biết được nhân rồi thì dẹp hết nhân thì quả không còn.
Ngày nay các nhà khoa học luôn phăng tìm manh mối của vạn tượng sum la nầy, căn cứ trên quả mà phăng tới nhân, không bao giờ từ nhân đi tới quả. Vì quả là cái dễ thấy, thấy quả rồi chúng ta phăng tìm ra nhân dễ dàng, còn trước nói nhân sau đó mới chỉ quả thì khó hơn. Như bây giờ chúng ta có cây cam, được quả ăn cam, biết quả cam ngọt. Những người thưởng thức mùi vị quả cam đó hỏi rằng: cam nầy từ đâu mà có? Tự nhiên chúng ta sẽ phải giải thích. Từ hạt cam ươm lên, nẩy mầm lên cây, có lá, đơm hoa , kết quả. Vậy quả là cái hiện thấy, chứng minh được, còn nhân thì đã cũ, đã xưa rồi, chúng ta không thể nào chỉ cho người khác thấy tường tận. 
Đó là việc dễ làm, vì nó cụ thể cho tinh thần Phật dạy rất thích hợp với khoa học hiện giờ, hay ngược lại khoa học hiện giờ rất thích hợp với tinh thần đạo Phật dạy. Vì vậy, nếu người không hiểu, nghe đức Phật nói cuộc đời là khổ, mang thân nầy khổ thì cho rằng đạo Phật bi quan, đạo Phật chán đời…
Khổ đó là quả, chúng ta biết rồi phải phăng tìm nguyên nhân của nó. Nếu biết được nhân nào tạo ra quả khổ thì chúng ta liền dẹp bỏ, tự nhiên quả khổ không còn. Nếu quả khổ không còn, lúc đó là khổ hay vui. Thông thường thế gian nói hết khổ tức là vui. Vui không riêng có mà chỉ khi nào hết khổ. Đó là tinh thần của Phật dạy. Phật nói khổ để chúng ta tìm nguyên nhân gây ra khổ, phải biết rõ nguyên nhân gây ra đau khổ và dứt bỏ nó. Dứt bỏ rồi chúng ta mới hết khổ, tức là được an lạc giải thoát. 
Vậy mục tiêu của đức Phật là dạy chúng ta hết khổ được giải thoát, chứ không phải dạy chúng ta chịu khổ. Phương pháp tu đó không hề bi quan. Quí vị nhìn những người tu hành biết đạo lý sâu, sống được với đạo, có thường lắc đầu, chắc lưỡi, thở dài không, hay là thường cười hoài? Bao nhiêu đó cũng tự trả lời những vấn đề chúng ta cần hiểu rồi. Người biết tu thì phăng tận nguồn gốc nguyên nhân đau khổ, dẹp bỏ qua một bên nên đau khổ đâu còn. Khổ hết thì được an vui. 
Nhưng đáng thương cho Phật tử chúng ta ngày nay tu mà không tìm nguyên nhân của khổ để dẹp bỏ, lại cứ cầu Phật cho con hết khổ hoài. Gặp việc buồn, gặp việc khổ liền vô chùa thắp hương, lạy Phật tha thiết, xin Phật chứng minh ban cho con ân huệ để cho con hết khổ. Việc gì cũng dựa vào quyền lực của đức Phật chớ không bỏ ra công phu tu hành. 
Đạo Phật là một đạo thực tế chứ không phải huyền bí, nhưng Phật tử chúng ta quen bệnh yếu đuối nên xem Phật giống như ông thần. Gặp việc gì khổ quá chỉ xin với Phật cho bớt khổ, chớ không biết tu cho bớt khổ. Đó là điểm yếu đuối, sai lầm của Phật tử chúng ta. Người tu thì phải tìm về nguồn an lạc giải thoát. Quí vị có biết nguồn an lạc giải thoát từ đâu mà ra không?
Tôi xin nêu vài điều căn bản cho quí vị thấy nguồn gốc của an lạc giải thoát. Trong kinh Phật thường nói: “Chúng sinh có tám điều khổ: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Đó là bát khổ”.
Chúng ta thấy trong kinh Phật nói khổ nhiều hơn vui. Vậy, chúng ta xét kỹ xem, cái khổ đó là khổ do tất cả mọi người hay chỉ là cái khổ đối với những ai không biết đạo lý.
Thứ nhất như nói: “Sanh là khổ”. Theo nhà Phật thì sanh gồm hai phần. Thứ nhất, sau khi ra khỏi lòng mẹ đau đớn nhọc nhằn. Thứ hai, trong cuộc sống của chúng ta, nếu không biết tu, không hiểu đạo thì cả cuộc đời chỉ toàn là đau khổ, không chút an vui. 
Như vậy khổ là lúc sanh ra khổ và trong cuộc sống khổ. Khi sanh ra có đứa bé nào cười không, hay đều khóc oa oa? Đó là vì ra đời phải khó khăn đau đớn mới ra được, nên lọt khỏi lòng mẹ là nó khóc. Cái khóc ấy nói lên sinh ra là khổ. Rồi từ bé đến già mấy mươi năm, một cuộc đời khổ nhiều vui ít. Quí vị thử kiểm lại xem trong suốt một đời, những gì chúng ta mong muốn đa phần được như ý hay thiểu phần được như ý? Chắc rằng không có ai nói đa phần như ý. 
Người thì gia đình ấm no có cơm ăn áo mặc nhưng con cháu khó dạy. Người thì con cháu dễ dạy nhưng gia đình lại chật vật thiếu thốn v.v… đủ thứ thuận nghịch, không khi nào được thỏa mãn như ý mình. Vì vậy, đa số đều bất như ý, con người sinh ra ai cũng mơ ước tràn đầy hạnh phúc, nhưng trải qua bốn năm mươi tuổi nhìn lại cuộc đời thấy không có hạnh phúc mà bất hạnh lại nhiều. Ít hôm nghe tin người thân mất hoặc phải đi xứ nầy xứ khác v.v… hay có  chuyện làm mình phải buồn, phải khổ. Không ai được hạnh phúc an vui trọn vẹn. Cả một đời người ba phần tư là đau khổ, chỉ một phần tư an vui thôi, thực tế là như vậy. Bởi vì chúng ta có các thứ khổ do người thân xa lìa, khổ do thân bệnh hoạn, khổ vì hoàn cảnh đói thiếu, khổ vì con cái khó dạy, đủ thứ khổ không phải một thứ. 
Chúng ta đã biết sanh là khổ, bây giờ chúng ta biết làm sao cho hết khổ? Làm sao chúng ta sống trong cõi khổ mà luôn được an vui. Không có gì khó hết, nếu sống trong cuộc đời nầy mà chúng ta biết rõ rằng đời là tạm bợ, có rồi sẽ mất, không ai còn mãi. Như vậy, ngày nào chúng ta còn sống thì ngày ấy còn tốt, còn có thì giờ cho chúng ta tự tu, cho chúng ta làm những điều thiện, lợi ích cho mọi người. Một ngày sống là một ngày vàng, chúng ta phải sử dụng hết để lo cho mình và cho người được an ổn. Một ngày sống chúng ta làm được một điều lành chúng ta nên buồn hay vui? Làm một điều lành là chúng ta được một nguồn vui. Chúng ta chuyển duộc sống khổ đau nầy bằng một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Ngày nào chúng ta cũng mót từng chút một để mà được vui.
Tôi nói như vậy sẽ có vị nghĩ, nếu người giàu có thì giúp đở người nầy người kia dễ, còn như chúng ta không có điều kiện thì giúp được ai, làm sao có niềm vui. Tôi xin nhắc lại trên đời có nhiều niềm vui lắm, chỉ sợ chúng ta không chịu làm thôi. Thí dụ chúng ta không có tiền cho người ăn xin hay đóng góp cứu trợ nạn lụt v.v… nhưng đang đi thấy đứa bé bị té, chúng ta đở lên vổ về an ủi, khuyên bảo nó, như vậy có vui không? Chúng ta không làm được việc cứu giúp bằng tiền thì chúng ta làm việc cứu giúp bằng thân, bằng lời. Dùng thân và lời giúp đỡ người bớt khổ. Bớt khổ là họ được vui. Cái vui đó tốn tiền nhiều hay ít? Không tốn gì hết, chỉ tốn một chút công. Như vậy, tìm nguồn vui đâu phải khó. Chỉ cần thấy một con kiến rớt xuống vũng nước, chúng ta vớt nó lên để trên khô, thấy nó bò mừng rỡ là chúng ta cũng vui rồi.
Người biết tu nhìn lại bản thân mình ngày xưa nhiều nóng giận nay giảm bớt liền cảm thấy vui. Gặp ai đang có nguy khốn, mình ra tay cứu vớt, từ con người cho tới loài vật, giúp được loài nào cũng có nguồn vui. Vậy, chúng ta sống để làm lợi ích cho chúng sinh. Tuy rằng khả năng nhỏ bé, hạn hẹp, nhưng với lòng chân thành thì cũng có vui rồi. Nếu chúng ta biết sống thì đời là khổ hay sanh là khổ, nhưng ngày nào chúng ta cũng lượm cũng mót được nhiều niềm vui. Đó là chúng ta khéo tu, khéo hiểu Phật pháp, chớ đừng lạy xin Phật cho con vui, Phật không cho được đâu, chúng ta phải tự tạo lấy nguồn vui từ bản thân mình. Đó là sanh khổ, nhưng nếu chúng ta biết sống thì sanh trở thành vui, chớ không phải khổ.
Đến khổ thứ hai: già khổ. Song nếu chúng ta khéo chấp nhận cái giả thì chúng ta cũng vui. Tại sao già khổ? Vì già không biết làm gì cứ đi tới đi lui, nhớ con nhớ cháu, buồn ủ rũ, hết trách người nầy tới trách người kia, thành ra thấy tuổi già lê thê, đen tối. Nên già là khổ. Người già nên biết dùng tuổi già trong công việc. Những vị không có trách nhiệm như chúng tôi cứ ở tại nhà, tìm những gì hay, đẹp dạy con dạy cháu. Đem bài kinh hay, đoạn sách ghi những tư cách tốt để dạy con cháu, đó là vui rồi, đâu phải làm việc gì cho nhiều.
Cũng như chúng tôi, một ngày sống là một ngày phải làm được cái gì cho mình cho người, mà làm được cho mình cho người thì tôi vui chớ đâu có khổ. Như vậy nói già khổ hay già vui. Tự nhiên già thế nào cũng có nhiều kinh nghiệm hơn người trẻ. Tại sao chúng ta không đem những kinh nghiệm ấy dạy cho người sau. Vì vậy tuổi già không phải là thừa, không phải là bỏ. Mỗi ngày chúng ta sống đều có giá trị cuộc đời già vui, chớ không phải khổ.
Thứ ba, bệnh là khổ. Điều nầy đa số đều chấp nhận. Có người nào đau mà không rên đâu? Rên tức là khổ chứ gì! Nhiều người than “tôi sao bệnh hoạn lê thê, kéo dài năm nầy năm nọ, chán quá!”. Như vậy, quí vị thấy bệnh là khổ. Nhưng với con mắt nhà Phật, bệnh cũng không khổ. Vì sao không khổ? Là vì Phật dạy thân nầy do nhân duyên hợp, trong đó có đất, nước, gió, lửa. Kinh Niết Bàn nói tứ đại là bốn con rắn: con rắn đất, con rắn nước, con rắn gió, con rắn lửa. 
Tôi xin nói cụ thể hơn, con rắn nước là con rắn hổ ở dưới nước. Con rắn lửa là con rắn hổ lửa. Con rắn đất đất là con rắn hổ đất. Con rắn gió là con rắn hổ mây. Bốn con rắn mà nhốt chung trong cái giỏ thì nó phải cắn nhau, chống chọi nhau thôi. Người nuôi rắn thấy bốn con cứ chống nhau, làm cho con nầy con nọ bất an hoài thì phải ráng can thiệp cho chúng hòa với nhau thì mới yên được. 
Chúng ta mang cái thân đất, nước, gió, lửa; bốn chất đó có hòa hợp với nhau tốt không? Ít hôm thì lửa thắng nước, lúc đó mình nóng quá phải kiếm cái gì uống cho mát. Đó là điều hòa con rắn hổ lửa. Ít hôm nước thắng lửa thì bị lạnh run rẩy, phải kiếm cái gì uống cho ấm. Đó là điều hòa con rắn nước. Ít hôm, con rắn đất bị  rắn hổ mây cắn, thì lúc đó chúng ta kêu trúng gió. Phải đánh gió hay tìm cách nầy cách kia làm cho gió ra thì thân nầy mới nhẹ. Nên tôi nói rằng: “gió thổi mạnh thì đất rung rinh”. Những thứ đó luôn luôn chống chọi nhau. Chúng ta phải điều hòa chúng, như vậy nhàn hạ hay khổ.
Người nào hỏi ra cũng có bệnh. Nếu không bệnh nặng thì cũng bệnh nhẹ, không bệnh nhiều cũng bệnh ít, chớ không ai hoàn toàn không bệnh. Vì bệnh là khổ chung của tất cả mọi loài. Nhiều vị bệnh cứ lăn lộn rên, rên đó là khổ.
Nhưng giờ đây chúng ta biết tu, khi bệnh chúng ta phải làm sao. Chúng ta nhìn bốn con rắn nầy xem đứa nào thắng, đứa nào bại. Biết rõ bốn con rắn độc đang chống chọi với nhau, chúng ta không chấp nhận thân nầy thật. Tứ đại tụ hội nên có thân, nhưng vì tụ hội trong sự chống chọi nên thân nầy khổ. Chúng ta biết rõ nó không chắc, không bền, không có gì quan trọng nên bớt khổ. 
Thường bệnh đau, chúng ta thấy khổ vì thấy thân hơn hết, vì sợ chết. Nếu biết rõ nó là tướng duyên hợp thì hợp cũng tốt mà tan cũng vui. Nếu nó còn thì chúng ta dùng vào việc hữu ích, nó mất thì chúng ta ra đi một cách thảnh thơi, có gì đâu mà sợ, nếu không sợ chết thì đau cứ mặc đau, nó đâu thiệt. Ngày xưa có một vị Thiền sư bị bệnh, thầy tri sự lên thưa: “Hòa thượng bệnh có cái không bệnh chăng?”. Ngài đáp: “Ôi da! Ôi da!” . Cái biết rên đó nó không có hình tướng nên không bệnh, còn thân nầy bệnh.
 Như vậy, chúng ta biết ngay nơi thân nầy là duyên hợp tạm bợ, có hợp thì phải tan, không có gì quan trọng. Không quan trọng thì bớt khổ, đồng thời chúng ta cũng biết ngay trong thân nầy có cái chân thật, không hình tướng, song nó là chủ trì của thân. Biết rõ cái đó thì thân có đau, có nhức là chuyện của thân, nhìn cái đau tức là chúng ta không đau.
***

Hòa thượng. THÍCH THANH TỪ