21/01/2015

Đội đặc nhiệm TK1 (chương 7)

Chương VII

< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối


Ngày thứ mười sáu. 

Từng người nối nhau leo lên một sườn núi cao. Tối qua anh Sơn đã trải bản đồ tính kỹ, để giữ đúng hướng phải vượt qua ngọn núi ấy. 

Đường đi ngày càng dốc. Chúng tôi len lỏi qua những gốc cây, cố tránh các vòm dây leo cuốn lằng nhằng rậm rịt. Trong không khí có mùi trái cây chín ủng và mùi lá rụng mục ải. Những lúc lặng gió, nghe rõ tiếng đàn vắt đánh hơi thấy mùi máu nóng đang đuổi theo rào rào trên lá Cũng may sáng nay chúng tôi đã cẩn thận vò lá ngải hôi xoa khắp người. 

Gần trưa thì leo hết sườn núi. Cả tổ dừng nghỉ bên một tảng đá to mà mưa gió lâu ngày đã bào mòn tạo nên những đường nét kì dị và đẹp mắt. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên đỉnh núi này có rất nhiều tảng đá như vậy nhô lên như mọc từ đất. Anh Sơn bảo đấy là phún thạch vương vãi sau những đợt phun trào của núi lửa. Chúng tôi nướng lại mấy miếng thịt, ăn qua loa rồi hối hả đi tiếp. Đến chiều, cả tổ lọt vào một hẻm núi khá rộng, hai bên là hai vách đá sửng sững. Những thân cây cao vút mọc chen giữa các tảng đá xám đen. Chiều nay trời không mưa nứa, nhưng ở đâu xa tít trên kia vẫn có tiếng sấm ì ùng. Cơn mưa đang đổ xuống một vùng rừng khác. Nắng chiều từ phía sau rọi tới mọc theo hẻm núi nên cảnh vật cũng bớt phần u ám. Thỉnh thoảng lại gặp mấy con rắn nằm khoanh tròn trên đá phơi nắng. Thấy động, chúng chỉ hơi ngóc đầu lười nhác giương cặp mắt lờ đờ nhìn ra. 

Chúng tôi đi mải miết, cố vượt qua hẻm núi trước khi trời tối. Lúc leo qua một tảng đá to chắn ngang lối đi, tôi nghe thoảng trong gió có tiếng nước chảy. Anh Đằng cũng bảo: 

- Hình như phía trước có suối các cậu ạ? Ta gắng đến đó nghỉ lại. 

Mọi người vội bước nhanh hơn. Ai cũng mong đến được suối để nghỉ ngơi tắm giặt cho bõ mấy ngày lội rừng ẩm ướt khó chịu.

Lúc gần tắt nắng thì nghe rõ tiếng nước chảy ồ ồ ở ngay trước mặt. Đang bước nhanh, anh Đằng bỗng đứng khựng lại. Ba chúng tôi từ phía sau dồn tới, cũng bất chợt sững lại như anh. Phía trước, ngay dưới chân chúng tôi là một cái vực sâu hun hút, tiếng nước réo từ dưới đó vọng lên. Lúc này đáy vực tối om!không nhìn rõ được dòng nước, chỉ thấy một dải trắng mờ mờ. Hai bờ vực là hai vách đá gần như dựng đứng. Từ rừng cây ven bờ, màn sương trắng mỏng bắt đầu loang ra như muốn ngăn bớt luồng khí lạnh lẽo đang dâng lên tử đáy vực âm u.

Chúng tôi phải quay lại tìm chỗ nghỉ đêm. Chọn một vạt đất trống, mọi người vội vã dựng lều và kiếm củi đốt. Anh Hùng cầm dao phát hết cây cỏ xung quanh để phòng rắn. 
Ăn xong bữa tối, anh Sơn lấy bản đồ ra, dùng kính lúp xem kỹ khu vực chúng tôi đang đến. Hồi lâu sau chưa thấy anh nói gì, tôi sốt ruột hỏi: - Thế nào anh? 
Anh trả lời, lẩm bẩm như nói với chính mình: 
- Lạ quá! Cái vực này không thấy trên bản đồ. Đây này, - Anh đưa đầu bút chỉ một điểm - ta đang ở chỗ này. Phía dưới có một nhánh sông nhỏ thuộc lưu vực sông Thu Bồn. Có lẽ nước trong cái vực này đổ ra nhánh sông đó. 
Anh Đằng hỏi: 
- Còn bao xa nữa Sơn? 
Anh Sơn lấy thước đo rồi trả lời: 
- Gần hai mươi cây số anh ạ! Ngày mai vẫn phải đi tiếp về hướng đông nam. Mấy hôm nay ta đi chệch hướng nhiều quá, thành ra đoạn đường nhiều gấp mấy lần. 
Anh Đằng trầm ngâm: “Hai chục cây! Ở đồng bằng là đã nhìn thấy..." Tôi nhìn anh, hỏi: 




- Liệu có vượt qua được cái vực ấy không anh?

- Phải vượt thôi! Nếu quay lui sẽ mất nhiều ngày để vòng tránh rừng giang về mé dưới. Còn vượt bằng cách nào, mai xem cụ thể rồi mới tính được. 

Anh Hùng vỗ vai tôi: 

- Cậu không nhớ lời anh Hai Nguyên dặn à? “Nếu quyết tâm thì bất cứ khó khăn nào cũng có thể tìm được cách vượt qua..." Cứ yên trí ngủ, mai sẽ tùy cơ ứng biến. 

Tôi lại quay sang anh Sơn: 

- Anh Sơn này, sao giữa đỉnh núi lại có cái vực sâu vậy anh? 

Anh Sơn cười cười: 

- Có vậy mới trọn bộ. Một cuộc phiêu lưu mạo hiểm mà thiếu cái vực thẳm thì còn ra gì nữa? 

Mọi người cùng cười. 
Nhưng rồi anh Sơn cũng giải thích: 
- Về cái vực này cũng dễ hiểu thôi. Cả vùng núi non miền Trung Bộ đều được tạo nên từ những đợt phun trào của núi lửa cách nhiều triệu năm về trước. Sau khi núi đã hình thành, một hay nhiều cồn địa chấn đã làm biến đổi khối nền của nó nên dãy núi đứt gãy tạo thành vực. Ngày mai nhìn kỹ hai bên vách đá, Hải sẽ thấy rõ vết gãy đó. 
Anh Sơn giải thích rất dễ hiểu. Tôi nhớ mình đã học về động đất, núi lửa trong chương trình địa lý phổ thông. Nhưng hình ảnh cái vực sâu hun hút cứ lởn vởn trong đầu làm tôi thao thức mãi. Tôi linh cảm mơ hồ về một điều tồi tệ, một biến cố ghê gớm nào đó sắp xây ra, nhưng chịu không nghĩ được là chuyện gì. Suốt từ đầu chuyến đi tới giờ, chưa lúc nào tôi ở trong tâm trạng như vậy.

Trong đêm khuya thanh vắng nằm áp tai xuống đất, tiếng nước chảy dưới đáy vực nghe như dội lên từ chốn thăm thẳm trong lòng đất. Nỗi lo lắng ám ảnh trong từng ý nghĩ. Tôi chìm vào giấc ngủ một cách nặng nhoè, bên tai văng vẳng tiếng nước réo lúc gần lúc xa. 


Chúng tôi đến bên bờ vực lúc mặt trời đã mọc, nhưng ở đây vẫn còn tối mờ. Vực sâu bị che lấp bởi từng đụn hơi nước trắng đục, không biết nên gọi là mây hay sương. Đến khi mặt trời lên cao, ánh nắng xuyên qua những tán cây đan thành vòm trên bờ, vực thẳm mới dần dần hiện ra. Miệng vực rộng độ ba đến bốn chục mét. Từ hai mép vực xuống tới đáy là vách đá lồi lõm gần như dựng đứng. Những thân cây mọc ở kẽ đá vươn lên thẳng tắp. Nhìn từ trên xuống, ngọn cây chĩa lên nhọn như chông. Phải một lúc nữa mới thấy rõ dòng nước đục ngầu cuồn cuộn dưới đáy. Những tảng đá lô nhô chặn giữa dòng làm nước tung bọt trắng xóa. Có lẽ lúc bình thường, đáy vực là một bãi đá chỉ len lỏi dòng nước nhỏ, nhưng mấy hôm trời mưa, nước từ các triền núi đổ xuống đã tạo nên cồn lũ cuốn hung tợn kia. Cứ nhìn những mảng rác rều trôi băng băng kia thì biết! Mà đằng nào cũng thế thôi, chúng tôi không phải băng qua dòng chảy đó vì chẳng thể tụt xuống vách đá được. Từ đây tới đáy ít ra cũng phải sáu chục mét. 

Anh Đằng ngoái lại nhìn cả ba chúng tôi, và chắc nhận ra vẻ lo lắng trên mặt tôi, nên anh cười hỏi: 

- Thế nào Hải? Cậu có phát kiến gì không? 

Tôi cũng cười, lát sau mới nói: 

- Theo em, ta nên đi men bờ vực, tìm chỗ thấp mà qua. 

- Các cậu thấy thế nào? 

Anh Sơn nói: 

- Cái vực này cắt ngang dãy núi nên rất dài. Tất nhiên đi mãi rồi cũng đến chỗ thấp, vấn đề là đi theo hướng nào? 




Cả tổ bàn bạc, cuối cùng quyết định sẽ đi về phía thượng lưu chọn chỗ nào thuận tiện để qua, hoặc tìm một cây gỗ hạ làm cầu, theo ý kiến của anh Hùng. Đi về hướng này là càng xa tọa độ cần đến, nhưng không còn cách nào khác. Phía hạ lưu, vách đá của hẻm núi dựng đứng không kém bờ vực, khó mà leo qua nổi. 

Chúng tôi khoác ba lô lên vai, men theo bờ vực đi ngược hướng nước chảy. Đường rất khó đi vì một bên là vách núi cao, một bên là vực thẳm. Mấy ngày mưa làm rêu trên đá ngấm nước trơn trượt, chúng tôi phải níu cây vất vả lần từng bước một. Mọi người đều hết sức thận trọng vì chỉ sẩy tay một cái là rơi thẳng xuống đáy vực. Gần trưa thì vách núi thoải dần, nền đất phủ đầy lá khô nên dễ đi hơn.

Khi mặt trời tròn bóng, anh Hùng dừng lại bên một cây gỗ dầu thẳng tắp, gốc to cỡ vòng tay ôm. Anh đi quanh gốc cây, tay vỗ vỗ vào lớp vỏ sù sì, mắt ngước nhìn bên ngọn. Tôi hiểu anh muốn chọn cây làm cầu. 

- Các vị thấy thế nào? 

Anh Đằng nhìn sang bờ vực bên kia, trả lời: 

- Được đấy? Nhưng phải hạ thật chính xác. 

Tôi lùi lại mấy bước, đưa mắt ước lượng: cây dầu mọc cách mép vực hai mét và cao phải đến bốn chục mét là ít. Đoạn này miệng vực rộng chừng ba chục mét, phía bên kia khá bằng phẳng. Một địa điểm thuận lợi, mặc dù ở đây đáy vực vẫn sâu thăm thẳm. 

Chúng tôi đặt ba lô xuống, bắt tay vào việc đốn cây bắc cầu. Hai cây dao lưỡi mỏng và nhẹ nên đốn được cây gỗ to này không phải dễ, nhưng khó nhất là làm sao hạ cái cây đổ xuống vuông góc với mép vực để bắc ngang sang được bên kia. Tất cả trông cậy vào tài nghệ của anh Hùng. 

Anh chém những nhát dao đầu tiên, mở một miệng thấp về phía vực và miệng cao hơn về phía vách núi. Sau đó chúng tôi thay nhau chặt. Mảnh gỗ bắn tung toé rải trắng quanh gốc cây. Từ vết chém trên vỏ cây từng giọt nhựa ứa ra, lúc đầu trắng đục, sau dần thẫm lại đỏ như máu. Có lẽ vì thế mà người ta gọi cây này là cây dầu máu. 
Hơn một giờ sau, lúc thân cây đã gần đứt, anh Hùng bảo mọi người lùi lại. Anh nhìn ngọn cây xung quanh để tính hướng gió, rồi thận trọng chém những nhát cuối cùng. Chúng tôi hồi hộp nhìn theo. "Sắp đổ rồi, cẩn thận nhé!", anh nói, tay vung dao chém thêm mấy nhát nữa. Thoạt đầu nghe có tiếng lắc rắc nho nhỏ, rồi tiếng gỗ nứt to dần, ngọn cây xao động như có gió thổi. Cây gỗ bắt đầu chao nghiêng và đổ xuống nhanh dần. "Rắc... rắc rắc... ào ào... rầm", ngọn cây đập xuống bờ vực bên kia, đè rạp cả một vạt cây con. Thân nó đứt lìa khỏi gốc, nẩy lên rồi nằm im. 
Ba chúng tôi vỗ tay reo mừng. Cây gỗ bắc ngang miệng vực làm thành một cái cầu chắc chắn. Đầu bên kia hơi cao vì những cành cây chống bên dưới, nhưng không sao! Dốc một chút càng dễ đi. Nét mặt anh Hùng vẫn bình thản. Anh bảo chúng tôi ngồi đợi rồi tay dao tay súng leo lên vách núi đi vào rừng. 
Chúng tôi lấy lương khô ra ăn. Mặt trời ngả về chiều. Dưới ánh nắng chói chang, cây rừng ắng lặng như còn lơ mơ trong giấc trưa. Tiếng ve kêu ra rả hòa với tiếng nước cuộn ào ào dưới đáy vực tạo nên những âm điệu đều đều buồn tẻ.

Gần một giờ sau, lúc tôi đã bắt đầu sốt ruột thì anh Hùng về, trên vai nặng trĩu hai cuộn dây mây to tướng, loại mây song sợi to bằng ngón chân cái. Anh ném hai cuộn mây xuống cạnh gốc cây cụt, vớ bi đông nước tu ừng ực. Anh Đằng giục chúng tôi rút dây võng ra nối lại với nhau, rồi anh trở sống dao đập dập đầu sợi mây, nối vào dây võng.


Ngồi nghỉ được dăm phút, anh Hùng đứng dậy khoác chéo súng sau lưng, nói với anh Đằng:

- Tôi sang trước, anh rải dây cho tôi nhét! 

- Được rồi! Nhưng đi cẩn thận đấy! 

- Yên trí! Chuyện vặt ấy mà! 

Anh buộc một đầu sợi dây võng vào thắt lưng, bước lên cây gỗ dang hai tay giữ thăng bằng và đi nhanh thoăn thoắt. Sang quá nửa cầu, anh ngồi xuống khéo léo kẹp hai đùi vào cây gỗ, rút dao chặt nhưng nhánh cây vướng lối đi. Đến bờ bên kia, anh phát hết những cành lá um tùm ở ngọn cây, rồi nạm đầu dây võng kéo sang. Lúc sợi dây dù đã căng, chúng tôi xúm lại gỡ dần sợi mây để anh kéo sang. Công việc còn lại rất đơn giản: đợi anh Hùng buộc đầu dây vào một gốc cây, chúng tôi hè nhau kéo căng sợi mây buộc tiếp vào gốc cây phía bên này. Sợi mây căng dọc theo cây gỗ, cao ngang tầm tay vịn. Bây giờ việc đi qua cây cầu độc mộc đã trở nên đơn giản hơn nhiều. "Vậy mà mình cứ lo vớ lo vẩn...", tôi thấy nhẹ cả người. 

Anh Hùng quay trở lại bờ bên này, khoác ba lô lên vai: 

- Mình sang trước. Các cậu để ba lô đấy, lát mình mang sang cho! 

Tôi và anh Sơn cùng cười: 

- Anh cứ đi đi, chúng tôi tự mang được mà! 
- Để các cậu ấy mang cũng được, - Anh Đằng nói - nhưng phải làm dây bảo hiểm. Cẩn tắc vô áy náy, các cậu ạ! 
Chúng tôi lấy dây võng chập lại làm bốn, buộc một đầu quanh thắt lưng, đầu kia buộc vòng qua sợi mây thành một cái vòng để có thể vừa đi vừa đẩy theo. 
Đợi anh Hùng sang đến bờ bên kia, anh Đằng bảo tôi đi tiếp. Tôi cởi dép nhét vào ba lô, bước lên cầu. Cây gỗ to, vỏ cây nứt nẻ nên dễ đi. Lúc ngang giữa cầu, tôi cảm thấy ngợp khi nhìn xuống đáy vực, nhưng rồi cũng tới nơi trót lọt. Tôi đặt ba lô xuống, nhìn sang. Anh Đằng đang giục anh Sơn đi tiếp. 
- Anh qua trước đi, tôi chặn hậu cho! - Anh Sơn đang buộc lại cái song trên nắp ba lô, cười trả lời. 
Anh Đằng qua cầu một cách nhẹ nhàng. Lúc này anh Sơn cũng bước lên cầu, vừa đi vừa đẩy dây bảo hiểm. Anh còn nhìn tôi cười, nụ cười thật hồn hậu trên khuôn mặt hiền lành dễ mến. 
Anh Sơn qua được nửa cầu.Tôi cúi xuống định mang dép vào chân, bỗng giật mình bởi một tiếng "rắc" nhỏ. Ngay trước mặt tôi, một cành cây chống phía dưới cây gỗ bị gãy. Tôi lạnh toát người nhìn lên: trên cầu, anh Sơn đang chới với. Anh vung tay giữ thăng bằng theo phản xạ, nhưng không được! Thân cầu chao nghiêng làm anh rơi thẳng xuống. Dây bảo hiểm bật căng treo anh lơ lửng bên dưới cây gỗ kéo sợi mây chùng tới gần mặt cầu. 
Tôi thét lên, chụp sợi mây cố kéo căng ra. Anh Đằng lao tới cùng kéo và gọi to: "Bình tĩnh, gắng bình tĩnh Sơn ơi…” Cùng lúc, anh Hùng rút dao găm cắn ngang miệng, cởi thắt lưng đạn vứt xuống đất, nhào đến ôm cây gỗ thoăn thoắt bò ra. 
Dưới kia, anh Sơn đang lúng túng cố vươn người nắm lấy dây bảo hiểm, nhưng chiếc ba lô lúc này trở nên tai ác choàng qua nách kéo anh chúc ngược đầu xuống. Anh Đằng gọi với ra: "Bỏ ba lô, vứt ba lô đi..." Nếu trút được ba lô, anh Sơn có thể rướn người nắm lấy dây bảo hiểm leo lên cây gỗ. Tôi nín thở nhìn ra: anh chần chừ đặt tay lên quai ba lô, chắc nghĩ tới tấm bản đồ. Định thét bảo anh cứ vứt cả đi, nhưng tôi chợt khứng lại khi nhìn thấy điều đáng sợ nhất đã đến: cái nút buộc quanh sợi mây song đang tuột dần. Tôi gào lên: "Giữ yên đừng cử động, dây tuột đấy..." Anh Sơn thôi vùng vẫy, thân hình anh bị kéo gập lại từ thắt lưng. Sợi mây trên tay tôi hết bập bùng, nhưng ngoài kia đầu dây bảo hiểm vẫn tuột dần, phần dây còn thừa sau nút buộc có những sợi dù trắng xồ ra như một túm bông nhỏ đang tử từ ngắn lại. Tôi trợn mắt kinh hãi, người cứng đờ vì cảm giác bất lực đến tuyệt vọng. 




Anh Hùng vẫn ôm thân cây bò nhanh ra. "Nhanh lên, anh Hùng ơi..." Tôi muốn gào lên. Còn ba mét... hai mét... một mét. Anh Hùng rướn người vươn tay trái định chụp lấy dây bảo hiểm... Đúng lúc đó nút buộc bung hẳn, sợi mây trong tay tôi bật lên, anh Sơn rơi thẳng xuống đáy vực. Một tiếng thét kinh hoàng dội vào hai bờ vách đá rồi tắt nghẹn trong dòng nước đục ngầu... 

Cả người tôi run lẩy bẩy, mắt trừng trừng nhìn xuống: dòng nước nuốt chửng anh trong nháy mắt. Trên mặt nước cuồn cuộn không có một vết tích gì, dù chỉ một vòng xoáy. "Sao lại thế... tại sao lại thế...", tôi lắp bắp, không còn tin vào những gì nhìn thấy. Một bàn tay nào siết chặt tim tôi đau nhói, hơi thở nghẹt lại nơi cuống họng thành tiếng nấc nghẹn ngào. Như cái máy, tôi nhoài người ra mép vực cố căng mắt tìm, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi vẫn bám lấy sợi mây. 

"Hải lùi lại". Anh Đằng kéo bật tôi khỏi mép vực. Tôi ngã nhào giữa đống cành lá ngơ ngác nhìn lên. Anh lập cập mở bao da lấy ống nhòm nhìn xuống đáy vực, tay run run. Giữa cầu, anh Hùng nam úp mặt trên cây gỗ, vai rung từng đợt thay mình nằm mơ? Hay mình gặp ác mộng Tôi cắn phập vào môi mình. Không phải mơ. Môi tôi đau nhói, vị máu thấm mặn đầu lưỡi. 

Anh Đằng thất vọng buông ống nhòm xuống gọi với ra, giọng nghẹn nghẹn: "Vào đi, Hùng ơi..." Trên khuôn mặt hốc hác. những giọt nước mắt lăn tròn lẫn với mồ hôi. 

Tôi chồm dậy giật chiếc ống nhòm trên tay anh đưa lên mắt. Không thấy gì cả. Tất cả nhòa đi trong màn sương. Mãi sau nhớ ra, tôi gạt nước mắt, cố nín cho nó khỏi trào, lại nhìn vào ống kính, ngón tay run rẩy chỉnh tiêu cự. Trong ống kính hiện ra những đám rác rều trôi băng băng, mấy mô đá đen trũi nhấp nhô tung bọt nước. Ven bờ, vài ngọn cây ngập nước rã rượi. Cố trấn tĩnh, tôi rê ống nhòm nhìn xuống phía dưới. Cũng vẫn thế! Tất cả chỉ có thêm con người thân thiết ấy như đã tan biến trong dòng nước đục ngầu. Không thể tin được mới mấy phút trước đó anh còn cười với tôi... Một xuồng lửa nóng bỏng ngùn ngụt trong đầu, mắt tôi hoa lên, chỉ nhìn thấy lòa nhòa bóng anh Đằng đang đưa tay kéo anh Hùng đứng dậy. 

Chiều hôm đó, chúng tôi bỏ ba lô lại, khoác súng bám từng mô đá lần theo mép vực đi về phía dưới hơn hai cây số. Biết rằng anh Sơn không còn sống, chỉ mong xác anh dạt vào bờ đá hay gốc cây nào đó. Nếu vậy, bằng bất cứ giá nào chúng tôi cũng tìm cách xuống đưa anh lên chôn cất, đắp cho anh nấm mộ giữa rừng... Nhưng đi mãi mà vẫn không tìm được một dấu vết nào. Thấy chẳng còn hy vọng gì nữa, anh Đằng bảo quay lại. 

Anh Hùng lấy dao đẽo một mảng trên gốc cây to ngay đầu cầu. Tôi dùng dao găm khắc lên đó họ tên anh cùng ngày anh hy sinh. Nhựa cây ứa ra trên từng vết khắc và tim chúng tôi ứa theo từng giọt máu.

Không có nén hương nào, anh Đằng nhặt cành khô đốt một đống lửa nhỏ. Chúng tôi chỉ làm được cho anh có thế thôi, anh Sơn ơi... Đột ngột quá! Đau đớn qúal Từ nay chẳng bao giờ được nghe anh nói, được thấy anh cười, được rúc vào người anh tìm hơi ấm trong những đêm rừng lạnh giá... Tôi miết ngón tay lên những dòng chừ, gục đầu vào thân cây khóc nức nở. Chẳng thà được ôm anh một lần trước khi đưa anh xuống mộ, đằng này... Trong đầu tôi hiện lên đôi mắt vời vợi của người phụ nữ trong tấm ảnh anh đưa tôi xem hôm nào. Sau này biết nói với chị và cháu thế nào đây... 

Đã đến lúc phải đi. Chúng tôi khoác ba lô lên vai, xách súng bỏ mũ ngậm ngùi đứng nhìn lần cuối cùng nơi người đồng đội thân thiết vĩnh viễn ra đi. Nắng chiều vàng vọt trên vách đá. Đáy vực đang tối dần, dòng nước mờ trong sương khói. Một ngọn gió lướt tới làm ngàn cây lay động, muôn cành lá rì rào hát lên bản anh hùng ca bất tận của rừng già. 




“Ta đi thôi!", anh Đằng nghẹn ngào nói. Chúng tôi lầm lũi cất bước. Lên đến đỉnh dốc, tôi ngoái nhìn lần nữa, mắt lại nhòa đi. Trên cây gỗ cô đồn bắc ngang hai bờ vực thẳm, như thấy anh đang đứng mỉm cười nhìn theo... Đưa tay gạt nhanh những giọt nước mắt, tôi xốc lại khẩu súng trên vai, rảo bước cho kịp người đi trước.



< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13

14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối

Đội đặc nhiệm TK1 (chương 6)

Chương VI


< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13

14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối



Ngày thứ mười hai. Chúng tôi qua khỏi rừng lim lúc cuối chiều và dừng lại nghỉ trên một mỏm núi nhỏ. Cũng như hôm qua, ráng chiều lại đỏ rực khi hoàng hôn xuống, nhuốm lên cánh rừng lim đại ngàn một màu lửa dữ dội. Anh Đằng chép miệng: "Kiểu này là sắp có mưa to? À này, các cậu nhớ uống thuốc phòng sốt rét, bắt buộc đấy! Không thể chủ quan được đâu?" 

Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh. Những trận mưa rừng dầm dề thường thổi bùng lên cơn sốt rét tiềm ẩn trong cơ thể của người sống nhiều ngày trong rừng. Chúng tôi đang lọt thỏm giữa núi cao rừng rậm, một người ốm lúc này sẽ là trở ngại rất lớn cho chuyến đi. Rất may từ đầu tới giờ chưa có sự cố nghiêm trọng nào xây ra. Cái móng chân của tôi sau vài lần đắp lá thuốc đã lành lẳn, còn vết trăn cắn trên tay anh Hùng cũng khô dần, không bị nhiễm trùng. Nhưng chặng đường sắp tới sẽ rất gian khổ, chỉ nhìn trên bản đồ cũng thấy địa hình phức tạp hơn nhiều. 

Hôm nay không phải đi tìm nước vì lúc sáng mỗi người đã đem theo khoảng năm lít nước đựng trong túi phao bồi. Trong lúc mọi người dựng lều, anh Hùng xách súng đi vào rừng bắn được một con nhím khá lớn. Chúng tôi dốc hết số gạo còn lại, đủ nấu bữa cơm cuối cùng. Như vậy lương thực dự trữ chỉ còn lương khô, gạo sấy. Nhưng cái ăn không đáng ngại, điều lo nhất lúc này là làm sao đi cho đúng hướng. Càng đến gần tọa độ tìm kiếm, mọi người càng thấy sốt ruột và hồi hộp. Giữa mênh mông rừng núi, việc tìm ra cánh đồng cỏ chỉ rộng chừng ba, bốn cây số được nhận biết qua bức ảnh chụp từ rất cao, là điều không đơn giản chút nào. "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", ở chốn hoang sơ biết bao điều rủi ro có thể xảy ra. Chúng tôi tin vào kinh nghiệm và bản lĩnh của chính mình, nhưng chẳng ai dám nói lường trước được mọi việc. Số phận của chúng tôi không chỉ là cuộc sống của từng cá nhân, nó gắn liền với nhiệm vụ được giao, với lòng tin của nhiều người. Nghĩ vậy nên ai cũng lo lắng đến nôn nao... 
Tối đến, chúng tôi đốt hai đống lửa ở hai bên lều để có hơi ấm. Mấy hôm nay trời nửa đêm về sáng rất lạnh, cái lạnh trên miền núi cao buốt như kim châm làm tôi trăn trở mãi, dù bao giờ cũng được ưu tiên nằm giữa. Trong lúc này, giấc ngủ sau một ngày mệt nhọc cũng quan trọng chẳng kém gì thức ăn nước uống. 
Đêm đó trên đỉnh dốc, tôi ngủ được một giấc thật say, chỉ tỉnh dậy khi nghe tiếng chim ríu rít hót vang rừng. 
Chúng tôi ra khỏi lều. Trời hãy còn tối mờ, sương giăng khắp rừng và mây quấn bên sườn núi. Hai đống lửa đã gần tàn, chỉ còn lại vài sợi khói bay lên từ đống than hồng phủ lớp tro cháy trắng. Ở phương nam, nền trời màu xanh đen chuyển dần sang xanh nhạt rồi vàng cam. Đến lúc đó, mặt trời mới tử từ nhô lên, to như cái mâm lửa đỏ rực. 
Anh Đằng vun những cục than đang cháy nướng chỗ thịt nhím hôm qua còn lại để ăn sáng. Khi nắng xua hết sương, chúng tôi mới khoác ba lô ra đi. 
Chặng đường hôm nay là leo lên quả núi xanh đậm trước mặt. Sườn núi không dốc nhưng khó đi vì cây rậm quá. Dưới những tán cây cổ thụ là vô số loài cây thấp um tùm. Dương xỉ mọc chen với cỏ và dây leo phủ kín mọi khoảng đất trống. Dù đang mùa nắng, nhưng cây cối ở đây xanh tươi hơn nhiều so với những cánh rừng gần biên giới. Chúng tôi phải hai người thay phiên nhau đi trước vung dao mở lối, quá trưa mới đến đỉnh, lại thấy ngay quả núi khác sừng sững chắn ngang trước mặt. 
Khoảng hai giờ chiều, lúc mới xuống lưng chừng sườn núi thì trời lặng gió hẳn. Cây cối đứng im phăng phắc. ánh nắng phả hơi nóng hầm hập làm không khí trở nên ngột ngạt, nặng nề. 
Mươi phút sau gió bắt đầu nổi lên, thoạt đầu chỉ hơi rao rao mát, nhưng lát sau đã cuốn ào ào kéo theo từng đám mây đen đặc nhanh chóng phủ kín bầu trời. Cả khu rừng thoáng chốc tối sầm lại, cành cây vật vã rung lá rụng tơi tả. Mấy tia chớp loằng ngoằng sáng rực trên nền mây đen kèm theo tiếng sấm dội rền vách núi. Những hạt mưa bắt đầu rơi lộp độp trên lá. 
Chúng tôi vừa nép dưới một vòm cây rậm kéo tấm tăng che lên đầu thì mưa đã dội xối xả. Vô vàn những giọt nước từ trên cao rồi chéo xuống dày đặc, tạo thành bức màn trắng mờ mịt phủ khắp núi rừng. Gió cuộn từng đợt, thổi những đám bụi mưa bay là là như khói.
Không còn thấm kịp vào đất, nước đọng lại thành vũng rồi tràn ra tạo nên vô số dòng chảy nhỏ len xách qua các gốc cây đổ về chỗ thấp. Tiếng mưa sầm sập như nước xối, tiếng gió rít ù ù và thỉnh thoảng chen vào là tiếng sét đinh tai kèm theo những ánh chớp chói lòa, làm cho cơn thịnh nộ của đất trời càng thêm dữ dội. Cây rừng run rẩy. Những dãy núi nhòa đi trong mưa. Mọi con vật trong rừng đều nép mình lẩn trốn. 
Bốn chúng tôi đưa tay đỡ bốn góc tấm tăng, chốc chốc lại nghiêng xuống trút nước đọng nặng trìu. Thật chả bù cho mấy ngày trước phải hứng từng giọt sương để uống.

Gần hai giờ sau mưa nhẹ hạt dần, nhưng vẫn dai dẳng lác đác một lúc nữa mới tạnh hẳn. Chúng tôi thở phào, cuốn tấm tăng lại. Mây tan hết thành nước, một khoảng trời xanh hiện ra giữa hai vòm cây. Nắng chiều lấp loáng trên lá cây ướt sũng. Khi tiếng mưa dứt, núi rừng lặng đi trong chốc lát rồi lại bừng lên những âm thanh sôi nổi của mọi sinh vật trở về với cuộc sống thường ngày. 


Một bầy bồ chao từ đâu bay đến đậu trên tán cây nơi chúng tôi đứng, hót vang rộn cả góc rừng. Những con bồ chao có bộ lông màu nâu nhạt điểm vệt trắng quanh hai mắt kéo dài xuống bụng trông rất ngộ nghĩnh. Chúng bay tới đâu là ở đó ồn ào như họp chợ. Một chú sóc thò đầu ra khỏi hốc cây, giương đôi mắt tò mò nhìn bầy bồ chao như cố đoán xem có chuyện gì mà lũ chim vui đến vậy. Cũng trên cái cây đó, một con tắc kè to gần bằng cổ tay đang rướn cổ kêu từng tiếng như dấm. Những con mối xõa cánh bay loạn xạ trên lớp lá mục. Cơn mưa tưởng như dừ dội nhưng thực ra đã đem sức sống mới cho muôn ngàn sinh linh của rừng. Cả mấy con vắt cũng vậy. Suốt mấy tháng nắng nóng, chúng như những cuộng lá khô lay lắt đâu đó trong bụi cây nay mềm lại nhờ hơi nước ẩm ướt, bắt đầu hồi sinh, ngoe nguẩy đánh hơi con mồi để bám theo. 

Thấy đã muộn, anh Đằng giục chúng tôi tìm chỗ dựng lều nghỉ lại. Khi đến một vạt đất bằng phẳng, vừa đặt ba lô xuống, tôi thấy ngứa nơi bắp chân. Vén ống quần lên thấy hai con vắt to hơn đầu tăm đang bám hút máu. Nhìn tôi nhăn nhó gỡ vắt, anh Hùng cười: 

- Đã ăn thua gì! Mưa vài ba ngày nữa, cậu sẽ thấy! Nó bám theo từng đàn như vãi trấu ấy chứ! Nhưng đừng lo, tớ sẽ có cách trị được. 

Để anh Đằng và anh Sơn dựng lều, anh Hùng rủ tôi đi săn. Hai anh em xách súng luồn xuống mé rừng phía dưới. Cây cối rậm rạp lại ướt sũng nước nên dù chúng tôi cố đi thật êm, vẫn tạo ra những tiếng sột soạt đánh động những con thú quanh đó. Lúc vòng qua mấy tảng đá, tôi chợt nghe tiếng "soạt” ngay trong lùm cây trước mặt, rồi có con gì đó đâm đầu chạy ào đi, chỉ kịp trông thấy vạt lưng đen bóng. Tôi xuýt xoa tiếc rẻ nhưng anh Hùng vẫy tay ra hiệu đi tiếp. 

Một lúc sau, chúng tôi lần tới quãng rùng thưa hơn. Đang đi rón rén, tôi nghe phía trước có tiếng động lạ, hình như có con thú nào bước trên lớp lá khô. Lát sau có cả tiếng cành cây lay động, lá khua lào xào. Tôi nhìn anh Hùng, anh ra hiệu là đã biết. Chúng tôi thận trọng tiến thêm mươi bước, nép sau gốc cây và từ từ ló đầu ra nhìn: một bầy lợn rừng đang chúi mõm liếm mối. Chúng không phát hiện ra chúng tôi vì mải mê theo những con mối cánh béo múp bay loạn xạ. Thứ mối này tuy nhỏ nhưng ngon, càng ăn càng say. 
Anh Hùng nhìn sang và giơ ngón tay út, ý bảo bắn con nhỏ thôi. Tôi rê súng, lựa một con nhỏ nhất trong bầy, ước độ ba mươi kí. Con thịt đã ở trong tầm tay, có điều phải bắn gục tại chỗ, chứ để nó còn chạy được thì có mà tìm hết hơi. Đạn AK ở cự ly này dư sức hạ con vật nếu bắn trúng đầu, nhưng mãi tôi vẫn chưa tìm được điểm ngắm chắc ăn vì con lợn cứ chúi đầu sau gốc cây. Giờ chỉ còn cách bắn trúng tim. Tôi ngắm vào một điểm phía trên chân trước của con vật, hơi chếch vào bên trong một chút, rồi bóp cò. Tiếng súng nổ đột ngột làm cả đàn lợn co giò vụt chạy, tiếng chân rầm rập át cả tiếng cây gãy răng rắc. Thoáng một cái những sống lưng đen nhấp nhô đã mất hút trong bụi rậm. 
Chúng tôi bước tới nơi con lợn bị trúng đạn. Anh Hùng cầm chân trước kéo lên xem vết đạn, gật gù khen: 
- Bắn trúng tim. Khá lắm! Cậu có thể trở thành thợ săn được đấy! 
- Dễ ợt mà anh! Cách có năm chục mét chứ mấy 
- Nhưng chẳng phải ai cũng biết bắn vào tim đâu nhé! Mà săn lợn rừng không phải là không nguy hiểm, cậu biết vì sao không? 
- Sao anh? - Tôi vác con lợn lên vai, hỏi lại. 
- Khi săn lợn bầy, phải xem chừng con đầu đàn, đó là con dữ nhất. Nó sẵn sàng lao thẳng tới với sức mạnh của bò tót giết chết đối thủ bằng hai chiếc răng nanh sắc nhọn như dao để bảo vệ bầy đàn. Lợn độc lại càng đáng sợ. Có thợ săn lâu năm cũng mất mạng với nó vì thiếu cảnh giác đấy! Nhiều khi cầm súng trong tay nhưng không kịp bắn, hoặc bắn không trúng chỗ hiểm lại không kịp tránh, nó vẫn đâm tới húc anh rồi mới chịu chết. Đến cọp đánh nhau với nó còn chịu thua nữa là!
Chúng tôi đi nhanh về chỗ trú vì trời sắp tối. Thấy anh Hùng vừa đi vừa nghiêng ngó, tôi hỏi: 
- Anh định tìm gì đấy? 
- Mình tìm lá chống vắt. Kia rồi! - Anh nói, tay chỉ vào cây dây leo đang quấn quanh một thân cây nhỏ - Cây này ngoài mình gọi là ngải hôi. Vò lá xoa lên người thì đố con vắt nào dám đeo. Tốt nhất là giã rồi vắt lấy nước mà xoa, hiệu nghiệm còn hơn thuốc chống vắt của Trung Quốc. Cậu nhìn kỹ cho nhớ! - Anh chìa cho tôi mấy chiếc lá. 
Tôi vò một lá đưa lên mũi ngửi. Nó có mùi hăng hắc pha lẫn mùi tỏi. Loại cây này cũng dễ nhận: lá gần giống lá trầu nhưng nhỏ và mềm hơn, mặt dưới lá có một lớp lông mởn màu trắng.

Tối đó cả tổ ăn thịt lợn rừng luộc chấm muối thay cơm. Số thịt còn lại chúng tôi thái thành từng tảng, đem nướng chín rồi sấy trên lửa, để dành cho ngày mai. Xong bữa tối, anh Hùng bắc soong lên bếp hầm mấy cái chân giò, lát nữa sẽ bỏ gạo sấy vào nấu nồi cháo ăn đêm. 


Sau trận mưa, khí trời ẩm và mát. Ánh lửa cháy bập bùng soi những bóng cây xung quanh lúc ẩn lúc hiện như đang di động. Chúng tôi quây quanh đống lửa, dùng que trở những xâu thịt cho chín đều. Anh Đằng ngẩng đầu ngắm mấy vì sao đang nhấp nháy trên cao, nói: 

- Trời trong lắm! Nhưng thể nào cũng còn đổ mưa vài ba buổi nữa. Không khéo mưa lụt tiểu mãn đấy, các cậu ạ! Đã đầu tháng năm rồi còn gì! 

Bốn chúng tôi cùng trầm ngâm hồi lâu. Cơn mưa đầu mùa gợi lên trong tâm trí mỗi người bao kỷ niệm... Rừng khuya vắng lặng. Tiếng thú chạy sột soạt trong bụi cây lẫn trong tiếng mỡ chảy xèo xèo trên đống lửa. Có con chim ăn đêm nào đang kêu khắc khoải hết góc rừng này đến góc rừng khác, nghe cứ tưởng như nó bay lạc trong màn đêm đen kịt của rừng sâu. 

Tôi lên tiếng, phá vỡ sự im lặng: 

- Anh Đằng này! Sao trước đây có dịp về phép, anh không lập gia đình đi?
- Ờ, chuyện cũng... Anh ngập ngừng giây lát rồi kể - Hồi bà cụ mình còn sống, lần nào về cũng thấy cụ đã nhắm sẵn cho một cô nào đấy. Gia đình đôi bên đồng ý cả, nhưng mình không thể. Chưa yêu thì làm sao lấy nhau được? Mình biết bà cụ buồn lắm? Hai cụ chỉ sinh được mỗi mình nên các cụ trông có cháu để còn nối dõi... 
Anh Sơn nói: 
- Nhiều người lấy nhau rồi mới yêu. Các cụ ngày trước “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", vậy mà cũng con đàn cháu đống gắn bó với nhau đến khi khuất núi đấy thôi? 
- Đúng là có thế thật! Lấy nhau, ăn ở với nhau một thời gian cũng có thể vun đắp được tình cảm yêu thương. Nhưng mình có cưới vợ thì cũng sống với nhau vài ngày rồi lại biền biệt. Chả lẽ người phụ nữ lấy chồng chỉ để làm trách nhiệm, nghĩa vụ thôi ư? Biết là có người đỡ đần trong nhà ông bà cụ sẽ đỡ vất vả, nhưng mình đi biết sống chết thế nào, để người ta chờ đợi mỏi mòn thì lại không nỡ... - Anh chớp mắt, thở dài . 
- Thế giờ cụ sống một mình hở anh? - Tôi hỏi. 
- Ừ! Cụ sống một mình. Cũng có mấy người họ hàng gần đó. Hơn nữa bà con lối xóm qua lại giúp đỡ hàng ngày nên mình cũng bớt lo. Mà cụ nghị lực lắm! Cánh trẻ bọn mình còn lâu mới theo kịp. Năm năm hai, cụ đã là tiểu đoàn trưởng trong đại đoàn Quân Tiên phong đấy! 
Anh Hùng nháy mắt nhìn tôi: 
- Ê này! Cánh an ninh chỉ chuyên điều tra, cậu chả bao giờ kể về mình cả. Nghề nghiệp dạy cậu chỉ biết hỏi thôi phải không? 
Biết anh trêu, tôi ngượng nghịu trả lời: 
- Em thì có gì mà kể? 
- Thế cậu đã có người yêu chưa? 
- Em... chưa!
Tôi đáp ngập ngừng, trong đầu thoáng hiện một con đường đất đỏ đi ngang qua những đồi sim, tới mùa hoa nở tím ngát... Trên con đường đó, tôi và Hường, cô bạn học cùng lớp rất thân và rất xinh, đã bao lần đi với nhau trong những ngày lên huyện luyện thi học sinh giỏi năm lớp chín. Hai đứa tôi cùng trong đội tuyển, tôi thi văn còn Hường thi toán. Những ngày ấy chúng tôi sống hồn nhiên, trong sáng và đẹp đẽ biết bao! Người ta nói hoa sim là hoa của đất nghèo, nhưng chúng tôi không để ý đến điều dó, chỉ thấy màu hoa tím gợi bao nỗi xốn xang trong trái tim của những người đang độ tuổi ngập ngừng bước vào đời.
Sang năm lớp mười, cả hai đứa đều nhận thấy trong tình bạn đã có cái gì đó mới hơn, lạ hơn và rất khó nói. Gặp tôi Hường hay ngượng, và tôi cũng thế, nhưng ngày nào không gặp nhau lại bứt rứt nhớ... Thế rồi sang học kỳ hai được vài tháng thì tôi xung phong nhập ngũ. Lúc bấy giờ chiến tranh đã đi vào giai đoạn ác liệt chưa từng có. 
Khi tôi vào chiến trường cũng là lúc Hường thi đỗ đại học và đi học ở Liên Xô. Từ đó tôi không liên lạc với cô nữa, phần bận bịu công việc, phần không có địa chỉ. Sau này mới biết Hường vẫn viết thư về nhà tôi rất đều đặn, thư nào cũng mong tin tôi...



Lúc kể tất cả những điều đó cho các anh nghe, tôi biết mình không giấu được nỗi tiếc nuồl trong từng câu nói. Anh Sơn đăm đăm nhìn ngọn lửa, hỏi mà không nhìn tôi: 


- Thế sau đó Hải có biết được địa chỉ của cô ấy không? 

- Có! Gia đình em có gửi vào, nhưng em không viết thư cho Hường nữa. 

- Sao vậy? - Cả ba anh cùng thốt lên. 

- Em nghĩ là... mình vào chiến trường không biết sống chết thế nào, ràng buộc cô ấy qua những lá thư để mà làm gì! - Biết mình đang lặp lại những điều anh Đằng vừa nói, nhưng thực lòng tôi đã nghĩ như thế.

Anh Hùng nói ngay: 
- Mình thấy cách cậu xử sự như vậy không ổn? 
- Sao anh? 
- Có cái gì đó… Thôi, để mình nghĩ đã. Nhưng cậu đọc sách nhiều, thấy những trường hợp như vậy cấc nhà văn họ viết thế nào? 
- Nhà văn thì nói làm gì, anh! 
- Sao cậu lại nói thế - Anh Hùng tròn mắt nhìn tôi. 
Biết mình lỡ lời, tôi lúng túng: 
- Ấy chết? Không phải... ý em không phải như vậy... Em muốn nói là... trong truyện hay tiểu thuyết của ta, người ta thường điển hình hóa mọi việc, cả nhân vật lẫn sự kiện. Nhưng cuộc đời bên ngoài đâu giống thế.
- Thế Hải nghĩ mình là người thế nào? - Anh Sơn hỏi. 
- Em chỉ là em thôi? Chắc là có hay có dở, đôi lúc cái dở nhiều hơn, nhưng em cố sống thật như bản chất mình. 
- Vậy cậu chê tiểu thuyết à? - Anh Hùng vẫn "truy” tiếp. 
- Ôi, em mê như điên ấy chứ? Trong tiểu thuyết ta học được, biết được đủ thứ... 
- Này, về chuyện tình cảm ấy mà, hay là... cậu có cô nào trong này rồi? - Anh Đằng hỏi nửa thật nửa trêu. 
Tôi giãy nảy: 
- Làm gì có, anh! Vào chiến trường mấy năm, hết ở cứ lại vào vùng địch, hết chống càn tránh bom lại đào hầm vác gạo..., đâu có rảnh lúc nào mà tính chuyện yêu đương? 
Anh Đằng vẫn chưa tha: 
- Nghe nói con gái thị xã Quảng Trị đẹp lắm phải không? 
- Chắc là đẹp! Vào đó ngày nằm hầm bí mật, đêm mới dậy mò đi, em cũng chẳng biết nữa!
- Chả lẽ cậu không đi phố ban ngày lúc nào à? 
- Cũng có mấy lần. Những lúc đó em mặc đồ thủy quân lục chiến, tháp tùng mấy anh đóng vai sĩ quan ngụy, anh tính tâm tri đâu mà để ý tới mấy cô? Mà nếu có cô nào "cảm tình" với mình trong hoàn cảnh ấy thì chết dở rồi còn gì? Cả ba anh cùng oà lên cười. 
Gần hết buổi sáng hôm sau, cả tổ xuống tới khe nước nhỏ chảy dưới chân núi. Theo hướng kim địa bàn, chúng tôi leo tiếp lên ngọn núi trước mặt, nhưng mới đi được hơn trăm mét thì phải dừng lại vì một rừng giang chắn lối. Vô số những cây giang dài lượt thượt mọc nghiêng ngả chằng chịt suốt từ đất lên quá tầm tay với, vươn nhánh loằng ngoằng đan thành tấm thảm xanh mềm mại trải kín sườn núi. Ở dưới gốc, mặt đất tối om phủ đầy lá rụng. Cây giang còn leo lên quấn gần tới ngọn những cây thân gỗ mọc trong lãnh địa của nó, trông xa giống như những đụn cỏ xanh. Chỉ có thú nhỏ hoặc loài bò sát mới mong luồn qua dải rừng bùng nhùng này. 

Anh Hùng bỏ ba lô, tìm một cây cao gần đó leo lên. Lúc tuột xuống, anh bảo: 

- Không qua nổi đâu, rộng lắm? Chỉ còn cách đi vòng thôi! 

- Cậu thấy nên đi lên hay đi xuống? - Anh Đằng hỏi. 

Anh Hùng suy nghĩ một lúc rồi trả lời: 

- Ta nên đi lên. Ở phía dưới núi thoai thoải, trong tầm nhìn chỉ thấy màu lá giang. Còn mé trên có ngọn núi cao chắn ngang, rừng giang đến chân núi là hết.

- Thôi được? Ta trở lại khe đi ngược lên. - Anh Đằng quyết. 
Cả tổ im lặng quay xuống. Khi tới khe, chúng tôi men theo dòng nước đi lên phía trên. Nước cạn, lòng khe đầy những hòn đá phủ lớp rêu màu rỉ sắt. Hai bên bờ có những cây chuồi rừng cao lỏng khỏng mọc chen với các loài cây bụi. Những con cua núi bé bằng móng chân cái bò lúc nhúc, thấy động chạy vào kẽ đá. 
Tôi hỏi anh Hùng: 
- Cua này ăn được không anh? 
- Ăn được. Nhưng túng quá mới ăn, chứ nó chỉ toàn mai với còng, chẳng có mấy tí thịt. Cũng đôi nơi có loại 
cua to hơn, như cua đồng ấy! Để hôm nào gặp, mình sẽ làm món cua rang muối cho cậu ăn. Cũng hấp dẫn lắm! 
Đúng như anh Đằng nói, trời còn mưa liên tiếp hai buổi chiều nửa. Vẫn những cơn mưa dừ dội như trút nước và kéo dài mãi đến tối. Rừng trở nên ẩm ướt, cây cối được tắm mát trổ màu xanh mướt. Mưa cuốn sạch bụi bặm làm không gian trong veo, mọi vật sáng rõ hẳn lên. Chúng tôi rất sốt ruột vì phải đi vòng để tránh rừng giang, mà chỉ đi được từ sáng đến trưa, buổi chiều phải dừng lại dựng lều tránh mưa. Ba ngày sau, chúng tôi mới qua hết rừng giang về mé trên và biết là đã đi chệch hướng khá xa.

< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối