21/01/2015

Đội đặc nhiệm TK1 (chương 9)

Chương IX



< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối

Chúng tôi leo lên tới đỉnh núi lúc trời đã tối mịt. Lát sau thì trăng lên.
Đêm ấy trăng rất sáng, trăng sáng đến nỗi màn sương dày đặc mọi hôm nay như mỏng và trong hơn, và ánh lửa cũng nhạt màu. 
Không hiểu sao lúc đi ngủ tôi lại bắt gặp cảm giác lo âu thấp thỏm như đêm nào ở bên bờ vực, chỉ khác hôm nay không có tiếng nước réo ì ầm vọng lên từ đáy vực sâu. Tâm trạng bồn chồn cứ ám ảnh mãi trong đầu, ngay cả lúc tôi đã thiếp đi trong giấc ngủ nặng nhọc. Suốt đêm tôi toàn nằm mơ thấy ác mộng, nhưng sáng ra chẳng nhớ được gì, chỉ thấy người mệt nhừ. 
… Mãi nhiều năm về sau tôi vẫn nghĩ, phải chăng đã có lúc linh tính báo cho tôi biết trước hiểm họa? Đấy có phải cái mà người ta thường gọi là giác quan thứ sáu, hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa trạng thái tâm lý với sự việc xây ra sau đó? Chịu! Không thể cắt nghĩa được! Nhưng nếu đoán chắc sắp có nguy hiểm thì nó đến khi nào? Từ đâu? Và diễn ra như thế nào? Quả thực trong tôi lúc đó chỉ có cảm giác lo lắng mơ hồ mà chẳng hiểu được vì sao... 
Chúng tôi thức giấc từ khì nghe chim hót những tiếng đầu tiên. Bên ngoài sương mù đặc quánh tưởng như có thể xắn ra được từng tảng. Trăng đã lặn. Trời đang tối lại trước khi hửng sáng nên ba chúng tôi vẫn nằm trong lều khe khẽ nói chuyện với nhau, dù rất nôn nóng muốn nhìn rõ miền đất mới. 
Lúc mặt trời lên, anh Hùng leo lên cây quan sát và báo trong tầm nhìn là một vùng rừng khá rộng. Chưa thấy được gì hơn vì trời mới sáng, trên rừng còn nhiều sương. Chúng tôi bàn bạc và quyết định cứ đi tiếp về hướng tây. Trước mắt, vẫn phải tìm kiếm trong khu vực có bán kính trên dưới hai mươi cây số, tính từ chỗ vượt ở bờ vực. 
Rừng ở đây khá thưa và khô ráo, có lẽ từ nhiều tháng nay chưa có mưa. Những cơn mưa chúng tôi gặp ở miệt rừng phía dưới không đổ xuống nơi này. Chừng giữa buổi, anh Đằng bảo tôi leo lên cây xem tình hình thế nào. Tôi chọn một cây cao mọc ở đầu dốc, leo tuốt lên đến ngọn. Từ đây có thể nhìn thấy cả một vùng rừng rộng, nhấp nhô như những ngọn đồi. Xa hơn về phía tây có những ngọn núi chập chùng hút tầm mắt. Hướng tây bắc núi thấp dần rồi hòa lẫn vào với rừng. Miền đất này có vẻ như là một vùng sơn nguyên, không rộng lắm nhưng tương đối bằng phẳng. 
Chợt có cái gì đó khang khác khiến tôi dừng mắt lại, hình như một tán cây cao vượt lên trên cánh rừng. Tôi vội đưa ống nhòm lên: đúng là một ngọn cây, trông xa như cái tháp nhọn có màu xanh đậm hơn so với màu rừng xung quanh. Tôi run lên, trong người rần rần như có luồng điện chừng vài chục vôn chạy qua. Hình dạng và màu sắc khác lạ của ngọn cây làm tôi nghĩ rằng đó là cây thủy tùng mà chúng tôi đang mỏi mắt tìm kiếm. Đang định kêu to mừng rỡ, tôi kịp kìm lại. Biết đâu chỉ là một sự nhầm lẫn... 
Tôi tuột nhanh xuống đất, cố nén hồi hộp kể lại những điều vừa trông thấy... 
Chúng tôi nhằm hướng ngọn cây lạ, hăm hở cắt rừng băng tới. Nắng đổ lửa. Mọi con vật đều chui vào bụi rậm tìm chỗ mát. Những bóng cây cũng thu nhỏ lại như muốn tránh nắng. Rừng trở nên vắng vẻ lạ thường. Trong không khí oi bức của ngày hè, chỉ còn nghe tiếng lá khô giòn vỡ rào rạo dưới chân và tiếng ve sầu rền rĩ đều đều ru vạn vật vào giấc ngủ trưa nồng. Thỉnh thoảng mới có ngọn gió từ hướng tây nam thổi tới, nhưng chỉ đủ lay động mấy cành lá trên cao. 
Đi trong rừng mới biết nó không bằng phẳng như khi nhìn từ trên cao xuống. Mồ hôi trên người tôi vã ra như tắm nhưng ngay lập tức biến thành lớp muối rin rít. Cái nóng ngấm vào từng thớ thịt làm người cứ hừng hực lên. 
Khoảng hai giờ chiều thì rừng thưa dần. Chen vào giữa những gốc cây là mấy vạt đất trống phủ lớp cỏ héo rũ. Phía trước đã thấy nền trời xanh thấp thoáng sau các thân cây Mọi người hối hả bước nhanh. 
Ra đến bìa rừng, cả ba chúng tôi cùng đứng sững lại. Trước mắt là một cây cổ thụ khổng lồ mọc giữa bãi trống, tán lá xanh thẫm đang đung đưa trên nền trời. Chỉ nhìn phần ngọn chót vót của cái cây này cũng đủ biết nó có sức sống mãnh liệt đến nhường nào. Từ bìa rừng ra tới gốc cây là một khoảng đất rộng chừng bốn trăm mét, thưa thớt dăm bụi cây cằn cỗi mọc lúp xúp trên nền đất sỏi. Phía sau gốc cây có một triền đồi thoai thoải lơ thơ những ngọn cỏ xác xơ. 
Mấy phút sau như sực tỉnh, chúng tôi rảo bước đi về phía cái cây đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là cây thủy tùng cần tìm. Cây mọc hơi nghiêng về hướng đông bắc, gốc to cỡ ba chúng tôi nối tay nhau cũng chưa ôm hết nửa vòng. Trên lớp vỏ màu nâu đen nứt rạn có những đám địa y bám trắng xóa. Từ lưng chừng thân cây, những nhánh cây to tướng đâm ngang vươn cành lá rườm rà che mát cả một vùng rộng. Mặt đất quanh gốc cây không mọc một ngọn cỏ nào, chỉ có vô số những chiếc lá hình kim rụng xuống lâu ngày làm thành một lớp dày êm như nệm tỏa mùi thơm hăng hắc, thứ mùi chi có ở loài tùng bách. 
Anh Hùng đi quanh gốc cây, tay rờ rẫm lớp vỏ sần sùi, miệng tấm tắc: - Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái cây nào đẹp như thế này. Đúng là ở rừng cả đời cũng chẳng ai dám nói đã biết hết về rừng. 
Còn anh Đằng thì ngửa mặt nhìn những cành lá đang rì rào trên cao, hồ hởi nói: 
- Thế là yên tâm đồi, các cậu ạt Chúng ta đã đến được nơi cần đến. Chà, Sơn nó mừng phải biết... - Anh rơm rớm nước mắt. 
Tôi bồi hồi lắng nghe tiếng lá reo vi vu trong gió, mắt ngóng lên đồi cỏ nhuốm nắng hoe vàng mà thấy lòng lâng lâng, người như nhẹ bổng hẳn ra. Mọi vất vả nhọc nhằn, mọi thấp thỏm lo âu biến đâu hết, chỉ còn lại niềm vui phơi phới... 
Anh Đằng tuyên bố. 
- Tối nay ta ngủ lại đây? Còn bây giờ phải lên trên kia xem thế nào. - Anh khoát tay, chỉ lên hướng đồi cỏ trước mặt.

Chúng tôi trút ba lô lại dưới gốc cây, xách súng háo hức đi nhanh như chạy. Từ chỗ cây thủy tùng lên tới đỉnh đồi chùng nứa cây số. Sườn đồi thoai thoải, những búi cỏ mọc lưa thưa trên nền đất mưa xói lâu ngày còn trơ lớp sỏi màu gan gà. 

Đi được hơn trăm mét, tôi bỗng trượt chân khuy xuống vì giẫm phải hòn đá tròn to hơn nắm tay. Không bị trẹo chân, nhưng chiếc dép bên trái tuột hai quai cùng một lúc. Tôi đặt súng xuống đất, loay hoay xỏ quai dép. Khi mang lại nó vào chân, ngẩng đầu lên thấy hai anh đã đi trước một quãng xa. 


Đang định đứng dậy chợt nghe có tiếng ù ù là lạ. Tôi tưởng có con bọ cánh cứng nào bay gần đó nên đưa mắt nhìn quanh, nhưng không thấy. Cúi xuống nhặt súng để đi tiếp, lại nghe tiếng ù rõ hơn. Một ý nghĩ lóe trong đầu làm người lạnh toát, tôi vội nghiêng người áp một bên tai xuống đất: tiếng ù dội thành tiếng phành phạch. Chết rồi, trực thăng! Chắc nó nổ máy đỗ phía bên kia đồi hoặc bay thấp sát mặt đất nên tiếng động cơ mới dội lên như vậy. Hai anh đi trước nhưng không nghe được vì gió thổi bạt tiếng động theo triền đồi lên cao. Tôi vùng dậy gào thất thanh: "Máy bay anh Đằng ơi? Quay lại, trực thăng đấy..." Đang bước nhanh, nghe tiếng tôi gào, cả hai anh dừng lại quay đầu nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi lại thét: “Trực thăng, chạy mau..." Chưa dứt lời, tiếng động cơ đã rộ lên rõ mồn một. 
Hai anh tuột súng cầm tay, quay ngoắt người chạy xuống. "Chậm mất rồi...", tôi tuyệt vọng kêu thầm. Phía trên đỉnh đồi, chiếc cánh quạt quay tít đang nhô cao dần, hằn đậm nét trên nền trời xanh lơ lửng mấy cụm mây trắng. Chỉ loáng sau, cái đầu máy bay nhô khỏi đỉnh đồi và to lên rất nhanh: một chiếc HU.1A. Nó lao thẳng lại phía tôi, mặt kính buồng lái phản chiếu ánh nắng loang loáng. 
Mặt đất trống trải, không một bụi cỏ, một tảng đá nào cao quá đầu gối. Cả ba chúng tôi lồ lộ trên sườn đồi, chàng nấp vào đâu được. Tôi quỳ một chân xuống đất, giương súng nghiến răng xiết cò, bắn xả cả băng đạn vào con quái vật màu xanh xám đang lao tới. Chiếc trực thăng lạng nhanh qua trái và bốc lên cao, sức gió cánh quạt cuộn tung những lá cỏ khô. Trượt rồi! Nó đã phát hiện ra tôi ngay từ những phát đạn đầu tiên. 
Tôi bật dậy, quay ngoắt người vừa lao xuống đồi vừa thay băng đạn. Phía sau, các anh đang tách ra hai hướng chạy xuống. 
Chiếc trực thăng bay về phía mặt trời rồi quành lại. Tên phi công định lợi dụng ánh nắng làm lóa mắt chúng tôi, đồng thời chặn luôn hướng chạy vào rừng. Nó lao tới gần. Tôi đứng thẳng người nâng súng lên, nhưng vừa bắn một loạt ngắn đã thấy những sợi khói phụt phụt tử bên cửa hông máy bay, rồi luồng đạn đại liên cắm phầm phập ngay trước mặt. Tôi ôm súng cuộn người lăn tròn. Luồng đạn cày qua chỗ tôi vừa đứng, những cụm bụi nhỏ tung liên tiếp thành một đường thẳng lướt nhanh như lằn chớp. Chiếc trực thăng vụt qua, cái mũ màu cỏ của tên phi công ngọ nguậy trong buồng lái. Hai bên thân máy bay có gắn hai thùng hình trụ lạ mắt giống như cái đõ ong. 
Tiếng AK rộ lên ở phía sau. Tôi nhỏm dậy nhìn: hai anh vừa chạy vừa bắn, chốc chốc lại lăn nhào tránh đạn. Tôi nâng súng đón chiếc máy bay đang vòng lại. Lần này nó bay cao hơn trăm mét, không dám sà xuống như trước. Tôi nhắm vào buồng lái siết từng loạt đạn dài. Biết là khó trúng nhưng không còn cách nào khác. Phải bắn rát buộc nó liên tục chao đảo tránh đạn, tạo cơ hội cho hai anh chạy. Cả ba chúng tôi cùng bắn, ba luồng đạn vụt lên vây lấy chiếc trực thăng. Nó hoảng hốt bốc lên cao và bay về hướng đỉnh đồi. Chúng tôi lợi dụng lúc ấy cùng bật dậy chạy. Chỉ cần đến được chỗ gốc cây là thoát. Tôi còn cách chừng năm chục mét, nhưng hai anh đang khá xa. 
Tiếng động cơ lại rộ lên. Tôi quay người ghìm súng đợi nó đến gần hơn. Chiếc trực thăng lừ lừ bay đến, còn cao hơn cả lần trước. "À, mày sợ rồi phải không?..." Mới nghĩ thế, đã thấy hai luồng khói phụt ra từ hai chiếc "dõ ong”, rồi hai cục lửa đỏ lừ vụt tới. Chết rồi! Nó phóng rốc két. Loại này lạ, tôi mới nhìn thấy lần đầu. Tôi nhào xuống ép người sát đất, một cánh tay co lên đỡ trước ngực. “Oàng...oàng”, hai quả đạn nổ cách tôi vài chục mét, ánh chớp sáng lòa. Mặt đất rung lên, mảnh đạn và đá sỏi bay rào rào, khói cuộn mù mịt. 
Đang lắc đầu rũ bớt đất cát thì nghe tiếng động cơ rồ tới rồi từng tràng đại liên tông tốc tóe khói xung quanh. “Thằng đểu! Nó bắn rốc két từ xa để thừa cơ áp sát..." Tôi lật người nằm ngửa trên đất, tỳ báng súng vào vai nhắm thẳng cái bóng xanh xám đang lướt tới trong làn khói, bắn từng loạt. Trong tiếng đại liên nổ chát chúa và tiếng động cơ rú đinh tai, vẫn nghe hai khẩu AK nổ giòn. Hai anh còn sống. 
Tôi chỉ còn cách cây thủy tùng một đoạn ngắn, nhưng chiếc trực thăng vẫn quần riết trên đầu. Tên phi công quyết chặn không cho chúng tôi chạy tới gốc cây. Chúng tôi cũng không để nó yên. Những loạt đạn bắn rát buộc nó phải lạng lách, ngoi lên ngụp xuống liên tục, làm tên bắn đại liên không chỉnh được đường đạn. Nhiều lúc nó đang bắn, chiếc trực thăng chợt quay ngoắt làm luồng đạn vọt lên, cách xa cả trăm mét. 
Lại thêm một loạt đạn cày tung đất tiến thẳng tới khiến tôi phải lăn tròn theo triền dốc. Khi tiếng động cơ vụt qua đầu, tôi bật dậy chạy thẳng tới cây thủy tùng. Một loạt đạn nữa xía ngược lại, nhưng tôi đã nép được vào gốc cây. "Mày không làm gì nổi tao đâu...", tôi nghĩ thầm, tay thay nhanh băng đạn mới.

Ngoài sườn đồi, hai anh vẫn vừa bắn vừa lăn, vừa vọt lên chạy từng đoạn ngắn. Chiếc trực thăng lại phóng thêm hai quả rốc két. Hai cột khói bụi cuộn lên như lốc xoáy. Kéo dài nữa là hai anh nguy mất! Nó có lợi thế hơn vì từ trên cao bắn xuống, hỏa lực mạnh, hai thùng rốc két mới bắn có bốn quả. Trong lúc đó tôi chỉ còn băng đạn cuối cùng. Phải dứt điểm chính xác mới mong đảo ngược được tình thế. Tôi nép vào gốc cây, rê súng theo chiếc trực thăng. Nó lại sà xuống, nghiêng sườn về phía tôi. Một tên Mỹ đen to lớn đang nhoài gần nửa người ra cửa máy bay, xoay nòng đại liên bắn như đổ đạn, lửa chớp liên tiếp đầu nòng súng. Tôi nheo mắt đưa nhanh tấm bia thật đen thui vào đường ngắm. "Chết mày này...", tôi bóp cò bình tĩnh như lúc bắn tập, chỉ điểm xạ hai viên. Tên Mỹ đen giật nảy người khuy xuống, kéo nòng đại liên chổng ngược bắn đạn lên trời. Cũng lúc đó chiếc trực thăng ngoặt lên hướng đỉnh đồi hất thằng Mỹ văng ra, xác nó lủng lẳng trên đầu dây bảo hiểm ngay bên cửa máy bay. 

Từ trong đám khói bụi đang lắng xuống, hai bóng người chạy thẳng về phía tôi. Tôi mừng rỡ thét to: "Nhanh lên, các anh ơi...". Hai anh nhào tới như ngọn gió, vừa thở dồn dập vừa nhìn tôi cười. Tôi ôm chầm cả hai, hỏi nhanh: 
- Các anh có sao không? 
- Không sao! - Anh Đằng trả lời, đập tay vào vai tôi - Cậu bắn giỏi lắm! Chơi cú ấy được đấy. 
Chưa kịp đáp, tôi chợt nhìn thấy một vệt máu đang loang ra trên vai anh, bèn kêu lên: 
- Anh bị thương rồi, đưa em xem nào...
Mọi việc sau đó ập tới nhanh như cơn lốc, tôi hoàn toàn bị cuốn vào nó không cách gì cưỡng lại được. Anh Hùng đang băng lại vết thương cho anh Đằng. Viên đạn sượt qua vai nhưng ở phần mềm và không trúng mạch máu, giữ khỏi nhiễm trùng là ổn. 
Phía đỉnh đồi, chiếc trực thăng đang treo lơ lửng, bọn trên máy bay vừa kéo xác tên Mỹ vào trong. Giờ nó có quay lại cũng chẳng đáng sợ. Chỉ cần khéo léo di chuyển quanh gốc cây, ba tay súng chúng tôi dư sức bắn hạ nó. "Biết điều thì quay về cho sớm kẻo hết xăng. - Tôi nghĩ - Phải công nhận tên phi công là thằng giỏi. Giữa ba nòng AK bắn rát như thế mà nó vẫn tránh được..." Khi say chiến thắng người ta thường rộng rãi, ngay cả với địch thủ của mình. 
Tôi mở ba lô để lấy túi nước uống, nhưng mới rút dây buộc thì nghe tiếng phành phạch rộ lên. "Sao nhanh thế nhỉ? Mình vừa nhìn thấy nó trên kia..." Chiếc trực thăng vũ trang ào tới Tôi liếc mắt lên đỉnh đồi, thấy chiếc lúc trước giờ mới bay lại. Thôi chết? Thêm một chiếc nữa. Chiếc này bay từ hướng khác tới, ngược gió nên đến gần chúng tôi mới biết. Chắc được đồng bọn báo trước nên không cần lượn quanh dòm ngó, nó bay về hướng mặt trời, lấy độ cao và quành lại. "Cẩn thận, nó phóng rốc két đấy?", anh Đằng thét, kéo tôi nấp sau gốc cây.
"Oang...oang”, phát rốc két vụt qua, nổ cách chúng tôi chừng ba chục mét. Một bưng khói đen dựng lên cùng ánh chớp. Chúng tôi nhào xuống đất, vừa kịp tránh mảnh đạn. Chiếc máy bay sạt qua, cành thủy tùng lay chuyển ào ào như trong cơn bão. 
Vừa mới nhỏm dậy đã nghe tiếng đại liên nổ rền, chiếc trực thăng lúc nãy đang nhào tới. Chúng tôi vọt qua bên kia gốc cây, một loạt đạn đuổi theo bén gót. Tình thế bây giờ cực kì nguy hiểm. Chỉ cần hai chiếc kẹp hai bên bắn xuống là chẳng còn nấp vào đâu được. 
Tiếng động cơ vẫn ầm ầm trên đầu. Chúng lượn quanh và bắn xối xả, đạn cắm phầm phập vào thân cây. Tôi không còn phân biệt được chiếc nào là chiếc tới trước, cũng không kịp bắn. Chúng tôi căng mắt theo dõi từng động tác của hai con quái vật trên cao và nhào hết góc này sang góc khác, khi vọt lên, khi lăn tròn trên đất tránh đạn. 
Lúc này, một chiếc treo lơ lửng phía bên kia bắn xuống từng loạt ngắn, chiếc còn lại lảng ra xa và bay lên cao. Ba chúng tôi túm vào một chỗ nhìn lên. Nguy rồi! Thằng bắn đại liên đang cố dồn chúng tôi sang một phía để chiếc bên này bàn rốc két. Nó bay lên đến độ cao cần thiết rồi ngoặt lại, chúi đầu lao xuống. Một vệt lửa vút tới kéo theo làn khói thẳng băng. Chúng tôi ép người sát đất. "Oang... Oang”. Quả đạn nổ trúng nhánh cây trên cao, thân cây vụt rung dữ dội. Mảnh gỗ cùng mảnh đạn văng tóe trong đám khói. Một loạt cành cây gãy răng rắc rơi ào xuống. Anh Hùng chụp tay tôi kéo mạnh, một nhánh cây to hơn cột nhà đập xuống đúng chỗ tôi vừa nhỏm dậy. 
Tình thế mỗi lúc một nguy ngập hơn. Cứ thế này, tính mạng ba chúng tôi chỉ còn tính trong từng giây, cùng lắm là từng phút. Cành lá rơi um tùm quanh gốc cây, không sao xoay trở nhanh được. Tiếng anh Đằng gấp gấp: 
- Phải tính cách khác, chứ không thể chết chùm với nhau ở đây... 
- Để em chạy ra, kéo chúng nó theo - Tôi nói trong hơi thở hổn hển. 
- Không được Cậu phải ở lại! - Anh Hùng quát. 
- Hai anh ở lại. Khi chúng đuổi theo em thì chạy vào rừng. 
Tôi nói cương quyết và bật người dậy, nhưng anh Đằng đã chụp tay kéo giật lại và xô tôi ngã chúi trong đám lá: 
- Một người chạy ra cũng không được gì đâu. Cậu phải sống. Nấp đi? - Mắt anh long lên, sáng quác như có lửa ở bên trong. 
- Hải nấp nhanh! Nó quay lại đấy! - Anh Hùng thét, mắt vẫn dõi theo vòng lượn của hai chiếc trực thăng.

Anh Đằng đẩy tôi chúi sâu vào đám lá, nói nhanh: "Cứ nằm yên may ra đánh lừa được tụi nó. Cố sống mà trở về Hải ạ? Nhớ nhé?" Dứt lời, anh xách súng vọt ra, chạy về bìa rừng phía nam. 

Anh Hùng quay sang, kéo nhanh một nhánh cây phủ thêm trên người tôi, nói như dặn dò: "Cố lên Hải, đừng lo gì cho bọn mình!" Nói xong, anh nhảy qua đống lá chạy theo anh Đằng. Từ lúc quả rốc két nổ trên nhánh cây cho tới lúc anh Hùng chạy đi, chỉ trong mấy chục giây. Nhưng điều đó mãi sau này tôi mới nghĩ tới khi hình dung lại sự việc, chứ lúc ấy đầu óc tôi như bị đông cứng, tôi sững sờ không đáp lại được lời nào. 
Tiếng AK nổ giòn rồi tiếng đại liên ré dằng dặc. Tôi lật bật xoay người trườn một đoạn dưới những cành tùng, tay run run vạch lá nhìn ra. Ngoài kia anh Đằng đang lao nhanh vùn vụt và liên tục đảo người đổi hướng, bỏ lại những loạt đạn cày tung bụi phía sau lưng. Mé dưới cách chừng ba chục mét, anh Hùng cũng đang chạy. Nghe tiếng súng nổ trên cao, tôi biết mới chỉ có một chiếc trực thăng bám theo. "Còn chiếc nữa đâu, hay là..." Chợt anh Hùng quay ngoắt lại, cặp súng vào nách ngửa người bắn một loạt dài. Gần như cùng lúc, một chùm đạn cắm xuống phía sau anh. Anh Hùng lộn người lăn tròn, đạn đại liên chớp nhằng nhằng xung quanh. 
Tôi bật rên, chụp súng định chồm dậy, bỗng nghe anh Đằng thét lớn: "Hải nằm xuống... Phải có người sống..." Tôi cắn môi đến bật máu, cố ghìm người lại. Anh Đằng quỳ một chân trên bãi cỏ, chĩa súng bắn xả vào chiếc trực thăng vừa lao tới. Tiếng đại liên ngừng bặt, anh Hùng vùng dậy xách súng chạy tiếp. Cứ như thế, hai anh thay nhau bắn và chạy thêm được đoạn nửa, lúc này đã cách tôi khoảng trăm mét. Hai chiếc trực thăng vẫn bám theo như đỉa đói, đại liên nổ từng tràng không dứt. Vùng đồi cỏ như sôi lên trong tiếng động cơ, tiếng súng. Cát bụi, cỏ khô bay mù mịt. Tôi dõi theo hai bóng người nhỏ nhoi mờ mờ trong khói bụi, cố níu lấy một chút hy vọng dù biết là rất mong manh. Bìa rừng còn cách vài trăm mét, tài nghệ đến mấy cũng khó thoát khỏi hai khẩu đại liên bắn như phun lửa. Bọn trên máy bay đang tức giận đến điên cuồng. 
Chợt tim tôi thắt lại: ngoài kia anh Đằng đang chạy bỗng đổ ập xuống, hình như một loạt đạn đã bắn trúng chân anh. Tôi run bắn người, hai tay bíu chặt xuống cỏ, cố nén những giọt nước mắt để nhìn ra. Anh Đằng vừa lật ngửa người nâng súng định bắn tiếp, nhưng những cụm khói vẫn phụt liên tiếp quanh anh. Ngay trước mắt tôi, anh giật nẩy người, khẩu súng rơi xuống ngực... 
Thấy anh Đằng ngã, anh Hùng thét lên chạy nhào tới. Không được rồi! Anh chưa kịp đến nơi thì một loạt đạn găm trúng người. Khẩu súng rời khỏi tay, anh lảo đao chạy thêm mấy bước rồi gục xuống người anh Đằng... "Thế là hết..." Tôi nức nở dập đầu xuống đất, run lẩy bẩy...
Nỗi đau đớn bàng hoàng làm đầu. óc tê dại đi. Những sự việc sau đó diễn ra như một cơn ác mộng khủng khiếp. Tôi chỉ thấy trước mắt một ánh lửa chói lòa, hai thân người tung lên cùng cát bụi. Rồi những bưng khói bùng lên liên tiếp, hai chiếc trực thăng thay nhau phóng rốckét xuống chỗ hai anh vừa ngã. Người tôi nẩy theo từng chùm tiếng nổ dội đất. Khói đạn đen kịt, đất đá bay rào rào không ngớt, mùi thuốc súng nồng nặc nghẹt thở. Hai con ác thú vẫn lạnh lùng ngóc lên nhào xuống, tàn nhẫn phóng từng loạt rốc két hai quả, bốn quả… Những cục lửa đỏ lừ kéo chiếc đuôi khói trắng kèm tiếng rít sắc rợn vùn vụt lao xuống nổ cùng một chỗ. 
Liên hồi những tiếng nổ lộng óc cùng sự đau đớn tột độ dìm tôi vào trạng thái gần như mê man, không còn biết những chiếc trực thăng đã bắn những quả đạn cuối cùng như thế nào, chỉ nhớ mang máng có một chiếc còn lượn vè vè quanh cây thủy tùng một vòng trước khi bay đi.
Lát sau, sự im ắng đột ngột trở lại làm tôi sực tỉnh. Tôi hất tung những cành lá trên người, chồm dậy quờ tay tìm súng rồi lao ra chỗ hai anh ngã xuống. Đến nơi, tôi khứng lại ngơ ngác nhìn quanh: tất cả chỉ còn là một bãi hố đạn nham nhở chồng chéo lên nhau, đất sỏi tơi vụn và nạm đen. Tôi rụng rời thả rơi khẩu súng, rồi như điên dại thụp xuống dùng tay cào bới lia ha hết mô đất này đến mô đất khác, đến lúc mấy đầu ngón tay tóe máu đau nhói mới sực nhớ rút dao găm đào tiếp. Mắt tôi nhòa đi từng lúc. Tất cả như mờ ảo, như không thực. Ngoài những mẩu đá, những hòn sỏi, những mảnh kim loại, trong đất không còn gì nữa... 
Tôi buông dao, ngã vật xuống một hố đạn ôm mặt khóc tức tưởi. Chẳng lẽ hai con người bằng xương bằng thịt mới đó mà đã tan thành tro bụi rồi ư? Chẳng lẽ không còn một chút xương thịt nào? Cố trấn tĩnh, tôi bò lên khỏi hố đạn. Trên bãi cỏ, lổn nhổn những tảng đất đen sạm nằm im lìm dưới nắng chiều đìu hiu... 
Hai tay ôm cái gói nilon nhẹ tênh, tôi ngửa mặt nhìn trời uất ức. Trong gói là những gì tìm thấy trên bãi cỏ: mấy mảnh thịt nát bấy, bầm máu và đen kịt thuốc súng, nửa chiếc dép cao su cháy sủi, một đoạn nòng AK cong queo. Tôi muốn gào thét, muốn chụp súng bắn, muốn đập phá, muốn làm một việc gì đó cho uất hận vơi bớt đi, trào bớt đi... Nhưng bắn vào cái gì? Đập phá cái gì? Đầu óc quay cuồng như sắp nổ tung, cánh rừng trước mặt nghiêng ngả, những cụm mây trắng xoay tít quanh mảng trời xanh, muôn ánh chớp lóe lên biến thành những mũi kim đâm buốt nhói trong óc. Cái gói trên tay rung bần bật... 
Một tia nhỏ lý trí len lỏi trong những ý nghĩ cuồng loạn báo cho tôi biết mình đang mấp mé bờ vực của trạng thái suy sụp tâm thần. Tôi cố hít những hơi thở sâu nhưng không khí chỉ lọt vào phổi từng ngụm sau mỗi tiếng nấc... 
Mặt trời sắp lặn, bóng cây thủy tùng ngả dài trên bãi cỏ Tôi loạng choạng bước xuống hố đạn sâu nhất rút dao vào đào mãi, cho đến khi không dùng tay móc đất lên được mới thôi. Ôm cái gói gượng đặt nhẹ xuống đáy hố, nước mắt tôi rơi lã chã trên những mảnh thi thể của hai người anh, hai người đồng đội. 
Hoàng hôn nhuộm bầu trời tím sẫm. Bóng tối lấp ló sau những gốc cây nơi bìa rừng. Ngọn gió từ hướng tây nam thổi nhẹ tới, xua bớt mùi thuốc súng trên bãi đất chết chóc. Tôi tựa súng vào vai ngồi im hai bên nấm mộ đơn sơ, không còn biết đêm xuống từ lúc nào, mãi đến khi sương thấm ướt lạnh cả người mới nhận ra ánh trăng đang soi bóng mình đổ dài qua hòn đá đặt trên mộ. 
Đờ đẫn như người mất hồn, tôi chống súng đứng dậy thất thểu đi tới cây thủy tùng. Màn sương trắng đục làm ánh trăng mờ đi nhưng cũng đủ sáng để giúp tôi mò mẫm tìm mấy chiếc ba lô trong đám cành lá. Tôi vun một đứng lá khô rồi nằm xuống, kéo tấm võng đắp lên người, ôm vào lòng mấy chiếc ba lô còn vương mùi mồ hôi quen thuộc và lịm đi... 
Đến gần sáng, chợt thức dậy vì thấy lạnh buốt, tôi quờ tay xung quanh nhưng chỉ sờ thấy những chiếc ba lô lúc này cũng lạnh giá. Ngơ ngác hồi lâu mới nhớ lại những sự việc xây ra trước đó, nỗi đau đớn lại ập tới cùng với sự trống vắng đến tàn nhẫn làm tôi nghẹn thở. Giờ chỉ còn lại mình tôi giữa rừng... Trăng đã lặn. Mọi vật chìm trong sương mờ mớ ảo ảo. Tôi quấn tấm võng ướt lên người, co ro ôm súng ngồi chờ trời sáng.



Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối

Đội đặc nhiệm TK1 (chương 8)

Chương VIII


< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối


Những ngày kế sau đó, chúng tôi hối hả đi về hướng đông nam, hướng mặt trời mọc. Mọi người đều nặng trĩu nỗi đau trong lòng. Ban ngày còn đỡ, những vất vả lúc đi đường làm chúng tôi bớt nghĩ tới sự việc vừa qua. Nhưng đêm đến, khi ngồi bên đống lửa bập bùng giữa rừng hay chui vào nằm trong căn lều mỏng manh, mới thấy trống trải đến tê tái cả ruột gan. 

Ngày thứ ba kể từ khi rời bờ vực, lúc gặp tráng cỏ nhỏ trên một mỏm núi, chúng tôi dừng lại cắm lều dù mới nửa chiều. Cần nghỉ ngơi chút ít lấy lại sức sau mấy ngày vừa qua. Anh Hùng cũng muốn tìm khoảng trống để ngắm sao. Anh Sơn mất đi là một tổn thất nặng nề cho cả tổ, vì kiến thức và kinh nghiệm của anh hết sức cần thiết lúc đi đường và cho công việc sau này. Hiện giờ không có bản đồ và địa bàn, chúng tôi chỉ còn cách nhìn sao, nhìn mặt trời để định hướng. 

Dựng xong lều, anh Đằng bảo hai chúng tôi cứ nghỉ, rồi xách súng đi vào rừng. 

Tôi ngồi bên anh Hùng buồn rầu nhìn về dãy núi có cái vực thẳm. Với ít nắng đọng vàng trên đỉnh và rừng cây bên sườn đang sẫm lại trong bóng núi, lúc này trông nó cũng hiền lành như mọi dãy núi khác. Từ đây tới đó không xa lắm. Ba ngày qua chúng tôi đi nhiều nhưng phải leo lên tụt xuống, vòng vèo tránh những chỗ khó, thành ra quãng đường đi được chỉ trong tầm nhìn. 
Anh Hùng vẫn im lặng như đang mải nghĩ điều gì. Chúng tôi cùng ngồi lặng lẽ như vậy hồi lâu. Nắng chiều nhạt dần trên ngọn cây. Mây trắng đùn lô xô ở phía chân trời. Một đàn chim đang vội vã bay về tổ, những cánh chim chấp chới trên nền mây, nhỏ dần thành những chấm đen li ti rồi mất hút sau dải rừng xa mờ. 
Anh Đằng trở về xách theo một con chim to. Chúng tôi nướng thịt chim ăn bữa tối. Hoàng hôn đang xuống, bóng tối lan ra từ những hốc rừng âm u. ở góc trời phía tây, vài tia nắng cuối ngày thoáng chốc rạng lên trước khi chìm vào màn đêm. Những vì sao hiện ra, nhấp nháy trên nền trời xanh đen. 
Anh Đằng ngắm chòm sao Bắc Đẩu hồi lâu rồi nói: 
- Mình nghĩ tọa độ cần tìm đang ở gần đâu đây. Hôm bên kia bờ vực Sơn có nói phải đi về hướng đông nam hai chục cây. Mấy ngày qua ta đi được trên chục cây tính theo đường chim bay. Nếu Sơn tính toán đúng thì ta có thể tới nơi trong vài ngày nữa, nhưng phải làm sao đi cho đúng hướng. Các cậu nghĩ sao?
- Tôi thấy cần thận trọng. - Anh Hùng nói - Từ ngày mai phải thường xuyên leo lên cây cao dùng ống nhòm quan sát sục tìm. Cánh đồng cỏ tuy rộng nhưng giữa rừng rậm, nhiều khi đi qua ngay bên cạnh cũng không nhìn thấy. 
- Theo em, ta nên đi theo kiểu dịch dắc. Thế này nhé, - tôi nói và dùng que vẽ trên đất - Lấy đường thẳng từ đây tới đồng cỏ làm trục, ta đi theo những đường gấp khúc qua lại, mỗi đoạn khoảng năm cây số. Góc ở chỗ ngoặt chừng sáu mươi độ. Tuy phải đi quãng đường dài hơn, nhưng ta sẽ rà được cả dải rừng rộng. 
Anh Đằng gật gù: 
- Có lý đấy? Hùng thấy thế nào? 
Anh Hùng hơi mỉm cười: 
- Đúng là nên đi theo kiểu dịch dắc. Có điều... tôi nghĩ khó mà có được cánh đồng cỏ bằng phẳng giữa vùng núi non này. Có khi đó là một vùng đồi, độ cao thấp chênh lệch không lớn lắm nên không phân biệt được trên bức không ảnh chụp chính diện từ trên cao. 
- Có thể như vậy, nhưng ta sẽ xác định được nếu tìm thấy cây thủy tùng. Chà, nếu có Sơn ở đây thì... - Biết mình lỡ lời anh Đằng lúng túng dừng câu nói giữa chừng. 
Mấy ngày vừa qua, không ai bảo ai nhưng chúng tôi đều cố tránh không nhắc đến sự việc đau đòng ấy, dù chẳng lúc nào nguôi nhớ anh Sơn. Nỗi đau đớn, thương xót lẫn ân hận luôn dày vò tâm trí mỗi người. 
Anh Hùng ôm đầu, nói như nấc lên: 
- Tại tôi, lỗi tại tôi tất cả? Giá như hôm ấy tôi chặt hết nhánh cây thì đâu đến nỗi... 
- Không đúng, cậu không có lỗi gì hết! Người có lỗi là tôi - Anh Đằng nói, giọng hụt đi trong hơi thở nặng nhọc - Nếu hôm đó tôi qua sau cùng, kiểm tra kỹ từng nút buộc...
Tôi không dám nhìn lên, sợ phải trông thấy sự đau đớn tột cùng trên hai khuôn mặt dày dạn lửa đạn đó. Chúng tôi đã trải qua những ngày tháng chiến tranh ác liệt, đã chứng kiến bao nhiêu cái chết của anh em bạn bè... Nhưng chẳng thà chết trong trận đánh, chết vì đạn bom, đằng này anh Sơn hy sinh ngay trước mặt chúng tôi giữa lúc không ai ngờ tới, chúng tôi nhìn rõ cái chết đến với anh từng giây một mà đành bất lực tuyệt vọng... Chính vì thế nỗi đau càng giằng xé mãnh liệt trong lòng mọi người. 
Tôi ngẩng đầu nhìn ngọn lửa, nói khe khẽ: 
- Không ai có lỗi hết, các anh ạ? Đó chỉ là một tai nạn... 
Anh Hùng thét lên: 
- Cậu đừng an ủi! Lỗi ở tôi, tôi có tội với cậu ấy... 
Anh quắc mắt giận dữ. Trong mắt anh là nỗi dằn vặt oán trách chính bản thân mình. Tôi nhìn anh, nói chậm rãi: 
- Không ai có thể biết trước được mọi việc, chúng ta không phải là thần thánh. Mà trên đời này làm gì có thánh, có thần? Nếu có, những người như anh Sơn đã không phải chết oan uổng như vậy... 
- Hải nói đúng? Chẳng ai là thánh, là siêu nhân cả. - Anh Đằng nói - Chúng ta là những con người. Mà đã là con người thì không ai hoàn hảo đến tuyệt đối được. Nhưng chỉ có con người mới biết yêu thương, căm giận, đau khổ... Chẳng thể nói rằng ai đau xót nhiều hơn ai, chỉ có điều ta không để cho sự hy sinh của Sơn trở nên vô ích. Phải đi tới đích và hoàn thành nhiệm vụ. Chúng ta sẽ làm thay phần việc của cậu ấy.
Khi nói câu cuối cùng, giọng anh trầm lại như nói với chính mình. Tôi hiểu đó cũng là lời thề của mỗi người.

Gió rung cành cây xào xạc, ngọn lửa bùng lên cháy rừng rực, ánh lửa soi chập chờn vòm lá trên cao làm trời đêm như cũng xao động. Chúng tôi trầm ngâm hồi lâu bên đống ìửa. Mỗi người đều cảm thấy nỗi khổ tâm vợi bớt đi khi nói ra những suy nghĩ của mình và có được sự đồng cảm sâu sắc. 

Chúng tôi đi theo một đường gấp khúc trong mấy ngày liền. Đã bốn lần đổi hướng, như vậy chặng đường đi được khoảng hai mươi lăm cây số, còn đường thẳng tính theo trục đông nam trên mười cây. Dọc đường mọi người thay nhau leo lên cây dùng ống nhòm quan sát, nhưng chẳng thấy tăm hơi cánh đồng cỏ đâu cả. Hơn nữa tầm nhìn luôn bị hạn chế bởi những ngọn núi nối nhau san sát. Ai cũng lo là đã vượt qua mục tiêu mà không biết. 

Trưa hôm ấy, chúng tôi nghỉ lại trong một rừng săng lẻ để tranh thủ kiếm thức ăn. Số lương thực mang theo không còn nhiều, tất cả có mười bao gạo sấy và mười hai phong lương khô. 

Chúng tôi căng mấy tấm tăng dựng lều dưới tán một cây săng lẻ cổ thụ, ở gốc cây nổi lên những khía to tưởng trông như cánh của một chiếc tên lửa. 

Dựng xong lều và kiếm đủ củi đốt qua đêm, anh Đằng xách súng đi săn. Anh Hùng rủ tôi đi đào củ mài, nhân tiện xuống suối xách nước một thể. 

Tôi khoác súng lên vai, cuộn cái túi phao bồi dùng đựng nước nhét vào thắt lưng rồi bước theo anh. Phải đi ngược lại đoạn đường vừa qua đến một quả núi khác để tìm củ mài, chứ nơi đây hầu như chỉ độc một loài săng lẻ. Những cây săng lẻ thân thẳng tắp lớp vỏ mỏng bên ngoài phồng rộp bong loang lổ. Mùa này cây mới trổ lá xanh non, bóng râm che mát rượi. Dưới gốc cây, mặt đất thưa thoáng phủ đầy lớp lá rụng đã mềm ra sau mấy trận mưa.
Ra khỏi rừng săng lẻ, hai chúng tôi lội qua con suối nhỏ rồi leo lên một sườn núi thấp. Ở đây chim nhiều vô kể. Hầu như trên vòm cây nào cũng có lũ chim đang nhảy nhót. Tiếng chim hót hòa lẫn vào nhau thành một bản hợp xướng đủ lọi âm điệu, mọi cung bậc mà ta chỉ được nghe khi ở trong rừng già vào một ngày đẹp trời. Nhiều con chim có màu lông rất đẹp, nhưng tôi chỉ nhận ra các chú vẹt với bộ lông sặc sỡ và cái mỏ khoằm khoằm đang tíu tít trên một vòm cây có những chùm quả vàng vàng lấp ló trong tán lá. Chúng khéo léo dùng mỏ rứt từng quả, măm măm như người không có răng rồi lửa vào họng nuốt chửng không cần nhằn vỏ. Quả chi chít trên cây mà chúng vẫn tranh nhau choe choé, những vệt xanh vệt đỏ rối rít loạn xạ quanh mấy chùm quả chín vàng. 
Tìm ra dây củ mài không khó nhưng đào nó lại chẳng dễ dàng chút nào khi trong tay chỉ có cây dao găm. Gần một giờ hì hục, chúng tôi mới đào được hai đoạn củ to bằng cánh tay. Phần còn lại không biết dài ngắn ra sao bởi nó sâu hút trong đất không moi lên được. Nhưng chỉ cần có vậy! Chẳng qua là để thêm món, khỏi ăn mãi thịt thú, chứ ở đây đâu có lo đói. 
Anh Hùng giục quay về vì đã quá nửa chiều. Hai chúng tôi thong thả đi xuống. Bên dưới, tán rừng săng lẻ xanh nhấp nhô theo triền núi. Phía tây nam có một dãy núi cao vượt lên, chạy dài như bức trường thành. Nắng chiều phủ màu vàng xa vời trên những ngọn núi nối nhau chập chùng. 
Sau khi tắm xong, tôi lấy nửa túi nước, dùng dây buộc nhặt miệng túi vác lên vai đi về chỗ nghỉ. Anh Đằng đang ngồi thái thịt trước lều, những tảng thịt đỏ hỏn xếp trên mấy tàu lá chuối. Anh nói: 
- Mình đi mãi mà chỉ gặp toàn thú lớn. Cuối cùng đành bắn con mang, nhưng chỉ xẻ lấy một đùi vì nặng quá. Rõ phí của! 
Tôi rút dao định giúp anh thái thịt, anh vội xua tay: 
- Thôi để đấy! Cậu đi kiếm thêm củi, nhớ lấy những cành to ấy. Đêm nay phải nướng hết chỗ thịt này sấy khô mang theo. 
Khi tôi vác củi về, thấy anh Hùng đang luộc củ mài. Từ đống lửa một làn khói trắng bay lên cao, nửa chừng đổi thành màu xanh lam rồi quấn quít trong vòm lá. 
Lúc ăn tối, anh Đằng hỏi: 
- Chiều nay đi, các cậu thấy thế nào? 
Biết ý anh muốn hỏi gì, nhưng tôi im lặng chờ anh Hùng nói trước. Anh chưa trả lời ngay mà chầm chậm nhai miếng củ mài, ngẫm nghĩ hồi lâu mới đáp: 
- Trên hướng ta đi, nhìn xa về phía dưới chỉ thấy núi. Theo tôi, phải qua hết rùng săng lẻ rồi mới tính được. 
- Lúc chiều mình đi về hướng đông nhưng cũng chưa qua hết cánh rừng này. - Anh Đằng nói - Ba ngày nay ta đi được chừng mười lăm cây số theo đường thẳng. Như vậy, theo tính toán hôm trước là đã vượt quá khu vực đồng cỏ. Có lẽ bị chệch hướng ở một đoạn nào đó. Theo các cậu thì đoạn nào? 
Tôi nói ngay: 
- Theo em nghĩ chỉ trên đoạn từ bờ vực tới đây. 
- Còn Hùng? 
- Tôi cũng nghĩ thế! Nhưng không sao! Ta vượt hết rừng săng lẻ rồi sẽ quyết. Dù có phải quần nát cả vùng núi này, ta cũng không bỏ cuộc. 
- Thì cũng phải tìm kiếm tí chút, chứ đâu dễ dàng đi thẳng tới đích được. - Anh Đằng cười, nói tiếp - Nhưng từ nay phải đánh dấu đường đi, phòng khi lặp lại nơi đã qua mà không biết. 
Đến tối chúng tôi đốt thêm đống lửa trên chỗ ban chiều thái thịt, phòng thú dữ kéo tới. Rừng thưa là nơi sinh sống của nhiều loài thú lớn, nên thú ăn thịt không thiếu.

Chúng tôi dập tắt hai đống lửa rồi ra đi khi trời vừa hửng sáng, mặt trời còn chưa lên khỏi núi. Những giọt sương rơi lộp độp trên lá khô. Anh Hùng đi sau, thỉnh thoảng lại vung dao chém vào thân cây để đánh dấu lối đi. Những nhát dao được quy ước là chém cách quãng năm mươi mét, và chỉ chém ngang tầm nhìn vào những thân cây to dưới vòng tay ôm để dễ tìm khi cần. 

Gần trưa, rừng săng lẻ thưa dần rồi nhường chỗ cho các loài cây khác. Cũng vẫn những cây cổ thụ cao to thân phủ đầy rêu và địa y, còn gần ngọn là lan rừng hoặc các loài tầm gửi đeo bám chi chít. Chốc chốc lại thấy thú rừng thấp thoáng sau các gốc cây hay chạy sột soạt trong bụi rậm, nhưng vội đi nên chả ai để ý. 

Khi ra đến một sườn núi, anh Hùng leo lên cây dùng ống nhòm quan sát. Lát sau anh tụt xuống, lắc đầu: 

- Chỉ thấy núi là núi Cây mọc xanh đều cả, không có khoảng trống nào. 

- Thôi được! Ta nghỉ một lúc, tranh thủ ăn trưa luôn. 

Anh Đằng nói rồi đặt ba lô xuống. Chúng tôi nhóm lửa nướng lại mấy miếng thịt. Tôi ngồi tựa lưng vào ba lô, vừa xé thịt bỏ vào miệng nhai, vừa nhìn lên ngọn cây. Có mấy con chim đang chuyền tít trên cao không nhìn rõ màu lông, chỉ thấy những chấm đen vụt qua vụt lại trong đám lá, nhưng tiếng hót líu lo của chúng vang xuống nghe rất hay. Cùng với tiếng chim là tiếng vo vo của mấy con ong, tiếng gió lao xao trong lá, tiếng cành khô gãy rơi trong bụi rậm, tiếng gà rừng gáy te te đâu ở cánh rừng trước mặt... Đệm cho khúc nhạc rừng trưa có bài ca mùa hè triền miên của ve. Những con ve kêu ra rả từ lúc hừng đông cho tới tận chiều xuống, người nghe quen tai đến nỗi chỉ nhận ra khi chúng đột ngột dừng tiếng. Trời trưa tròn bóng. Mắt tôi lóa lên khi một tia nắng lọt qua tán lá rọi trúng vào mặt. Những giọt nắng lốm đốm vàng trên nền lá rụng ẩm ướt. 
Anh Hùng bảo: 
- Ta bị chệch hướng, nhưng chắc không xa lắm đâu. Bây giờ là lúc phải sục sạo tìm kiếm. Theo tôi, trước mắt nên đi về hướng đông nam thêm vài chục cây số. Vẫn đi theo kiểu dịch dắc nhưng mở rộng khẩu độ, làm thế nào để rà được dải rừng rộng chừng mười cây số. Đến khi đó nếu không gặp, cũng khẳng định được đồng cỏ không có ở hướng này.
Anh Đằng nhìn sang tôi: 
- Ý Hải thế nào? 
- Em nhất trí! 
- Được rồi? - Anh kết luận - Ta sẽ tìm theo hướng đông nam, khi biết chắc không có mới chuyển sang vùng khác. Điều cần nhất lúc này là không được cuống. Nếu không, cứ chạy nháo nhào giữa rừng đến lúc hoảng loạn là mất phương hướng hoàn toàn đấy! Dù vội nhưng ta chỉ đi vừa sức, lúc mệt là nghỉ, công việc còn dài. Nào, đi thôi! 
Chiều đó, chúng tôi đi về hướng giữa đông và đông nam, được chừng sáu cây số thì ngoặt lại một góc khoảng bốn mươi lăm độ theo hướng giữa tây và tây nam. Cứ như thế, trong bốn ngày liền chúng tôi đan những đường chéo qua lại trong dải rừng rộng mười cây số. 
Đó là những ngày vô cùng vất vả. Để giữ đúng hướng, chúng tôi phải đi theo đường thẳng, không vòng tránh bất kỳ chướng ngại nào. Áo quần mặc trên người rách bươm. Đôi dép cao su cũng lần lượt đứt hết quai này đến quai khác. May mà mỗi người đều mang theo mấy bộ quai dự trữ. Anh Đằng còn có hai cuộn chỉ và mấy cây kim. Lúc nghỉ, chúng tôi tranh thủ vá víu lại những chỗ rách để mặc đi đường. Ngoài hai bộ thay đổi, trong ba lô tôi còn một bộ mới nguyên, nhưng phải để dành cho ngày về. 
Sau bốn lần đổi hướng, chúng tôi rà hết dải rừng như dự kiến và quan sát qua ống nhòm một vùng rộng hơn nhiều, nhưng vẫn không tìm ra đồng cỏ. Đã đến lúc phải dừng lại để chuyển sang hướng khác. 
Chúng tôi dựng lều bên một thác nước nhỏ nhưng khá cao. Nó đổ xuống từ lưng chừng vách núi rồi chảy thành một con suối nhỏ len lách qua những tảng đá. Đứng dưới nhìn lên, thác nước như vọt ra tử vách đá. 
Cũng vẫn những công việc phải làm ở mỗi chặng nghỉ: dựng lều, kiếm củi, chuẩn bị bữa ăn, nhưng hôm nay chúng tôi còn được tắm giặt thỏa thuê. Tôi lội dọc suối, lần theo mấy tảng đá ra đứng dưới thác, đưa người hứng dòng nước từ trên cao dội xuống. Thật thú vị khi toàn thân được đấm bóp bởi dòng nước mát lạnh. Mọi mệt nhọc trôi đi cùng ghét bẩn, bụi bặm. Cả những vết rách xước trên da thịt cũng dịu lại, không rát nữa. 
Ngước nhìn lên, tôi chợt sững sờ khi bắt gặp một dải cầu vồng rực rỡ, đẹp lung linh trong bụi nước. Trên đỉnh vách đá có mấy bóng cây trụi lá đứng trầm tư, in những nét gầy guộc lên nền trời xanh. Mặt trời xuống thấp dần, bóng núi từ từ lan ra che mát khoảnh rừng ven suối.
Thấy đã muộn, tôi giặt vội bộ quần áo rồi bước lên bờ. Ra khỏi thác, tiếng ầm ầm trong tai lắng hẳn đi. Không gian trở nên tĩnh mịch, êm ả.
Về đến chỗ nghỉ, thấy anh Đằng đang lúi húi thái mấy cái hoa chuối chuẩn bị cho bữa tối. Lát sau anh Hùng cũng về tới, tay xách một xâu cá câu được ở khúc suối phía dưới. Thì ra trong khi tôi mải mê dưới thác nước, hai anh đã làm tất cả mọi công việc cần thiết. Tôi ngượng đỏ mặt vì sự vô tâm của mình, mặc dù biết hai anh muốn để tôi được nghỉ ngơi. Từ đầu chuyến đi tới giờ, tôi là người luôn được "cưng chiều” nhất. 
Tôi đổ nước vào hai chiếc gô, treo trên đống lửa. Hoa chuối rừng phải luộc qua một lần rồi mới nấu. Tối đó, chúng tôi ăn thịt nướng cùng món canh hoa chuối nấu với cá. Canh hơi chát nhưng tôi thấy rất ngon, một phần vì mấy ngày qua chỉ ăn độc mỗi món thịt thú.

Chúng tôi nhằm hướng tây bắc, cắt ngang dải rừng vừa đi qua để tìm về lại chỗ tiếp giáp với cánh rừng săng lẻ. Phải giữ một điểm mốc trước khi mở hướng tìm kiếm mới, nếu không sẽ rối lên trong mê cung của những dãy núi, lúc đó chẳng còn biết là nên đi về phương nào. 

Đi hơn hai ngày thì tìm đến được gốc cây nơi đã nghỉ trưa hôm ra khỏi rừng săng lẻ. Tôi thực sự kinh ngạc trước tài cắt rừng của anh Hùng. Dường như trong anh có thứ linh cảm kỳ lạ để định hướng một cách dễ dàng khi đi giữa rừng rậm mênh mông. 

Không dừng chỗ gốc cây, chúng tôi xuống chân núi cắm lều trên vạt cỏ nhỏ gần bên khe nước. Anh Đằng quyết định nghỉ hết ngày hôm nay. Quả thực tôi đã rất mệt. Hơn nữa, sự lo lắng làm sức người giảm sút nhanh hơn. Nỗi lo cũng hiện rõ trong ánh mắt của anh Đằng. Riêng anh Hùng vẫn bình thản, nhưng trở nên lầm lì ít nói. Tôi rất thương anh vì biết anh vẫn cứ dằn vặt về cái chết của anh Sơn, mặc dù chẳng ai cho đó là lỗi của anh, ngay cả trong ý nghĩ. 

Lần đầu tiên trong cả chuyến đi, tôi được ngủ một giấc thật thoải mái. Lúc tỉnh dậy thấy bóng cây đã nghiêng dài trên bãi cỏ. Anh Hùng đi đâu vắng, chỉ còn một mình anh Đằng đang ngồi lau súng dưới gốc cây. Tôi xuống khe rửa mặt rồi quay lên ngồi cạnh anh. 

- Anh Hùng đi đâu anh? - Tôi hỏi. 

- Hùng vào rừng. 
- Sao cậu không ngủ nữa đi? 
- Ngủ vừa rồi anh ạ! Suốt mấy giờ liền rồi còn gì! - Tôi cười trả lời. 
Anh lắp băng đạn vào súng, nhỏm dậy: 
- Hải ngồi đây nhé! Mình vào rừng kiếm cái gì ăn. 
Anh vừa đi, tôi cũng rút dao đứng dậy đi lấy củi. Ngay mấy gốc cây quanh bãi cỏ, cành khô không thiếu. Chỉ lát sau, tôi đã kéo về một đống to tướng, đủ đốt suốt đêm. 
Chẳng còn việc gì làm, tôi lại ngồi xuống gốc cây, lơ đãng nhìn cánh rừng đang mơ màng trong nắng chiều. Xung quanh im ắng quá! Gió lùa nhè nhẹ làm ngọn cỏ lao xao lay động. Bên dưới những lá cỏ vươn cao khô cháy có mấy đám màu xanh non mới nhú, chắc nhờ đợt mưa vừa rồi. 
Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, nhanh đến nỗi tôi chưa kịp hiểu là điều gì... Đầu tôi căng lên, cố nắm bắt lại ý nghĩ đó. "Mình vừa nghĩ về ngọn cỏ, những giọt mưa... Đúng rồi?" Dòng suy nghĩ lại lóe lên, lần này rõ nét hơn. Tôi sắp xếp những ý nghĩ thành sự suy luận và lướt nhanh trong đầu về chặng đường đã đi hơn nửa tháng nay: chỉ lúc vượt qua những đỉnh núi cao cháy nắng ở biên giới mới có vùng cỏ tranh, còn sau đó, cây rừng luôn phủ kín núi. Đôi lúc có gặp tráng cỏ như ở đây, nhưng thường rất nhỏ, chỉ nhinh hơn mảnh sân nhà là cùng. Vậy cánh đồng cỏ dài rộng như thế phải nằm ở đâu? 
Tôi nhớ lại vài kiến thức địa lý đã học. Như vậy ở vùng này, đồng cỏ, hoặc đồi cỏ như anh Hùng nói, chỉ có ở nơi khí hậu khô nóng khắc nghiệt. ”Hình như mình đã có sự liên tưởng về một dãy núi như bức trường thành... nhưng khi nào? Ở đâu? - Tôi cố nhớ lại - Phải rồi, hôm đi đào củ mài? Bên kia rừng săng lẻ..." 
Tôi chạy vào lều lấy ống nhòm, leo lên cây nhìn về hướng tây. Trong ống kính hiện ra rõ nét một dãy núi cao vượt lên trên những ngọn núi khác và chạy dài xuống phía nam. Còn ở phía đông núi lô nhô xếp lớp lớp theo hình vòng cung và thấp dần về hướng biển. "Nhất định đồng cỏ phải nằm trên dãy núi cao đó. Dưới này mưa nhiều, cây cối tươi tốt thế kia..." Tôi bỗng thấy hăm hở, muốn có cách gì lên ngay trên ấy để nhìn cho biết. 
Tụt xuống đến đất, tôi gặp anh Hùng vừa về tới, trên vai vác túi phao bồi căng phồng. 
- Gì thế anh? - Tôi hỏi. 
- Cậu đoán thử xem! - Anh đặt nhẹ túi xuống cỏ, đưa tay gạt mồ hôi.
Tôi chăm chú nhìn, nhưng mãi chẳng đoán ra. Không phải thú rừng! Nếu săn được thú thì cứ thế vác về, cần gì cho vào túi. Mà cái túi này có vẻ nhẹ, không phải đựng một thứ củ quả nào đó... 
- Em chịu thôi! Anh nói đi? 
- Mật ong đấy! Mình vớ được tổ ong, nhưng chỉ lấy non nửa vì không mang hết. 
Tôi tháo dây buộc miệng túi, bên trong là những tầng sáp ong vàng óng, mùi mật thơm ngát. 
Chúng tôi đang vắt mật vào bi đông thì anh Đằng về, tay ôm mớ củ mài. 
- Mình đào bở hơi tai mà lấy được có mấy khúc. - Anh nói.
- Anh không bắn được con thú nào à? - Sợ các cậu ăn mãi thịt phát ngán nên hôm nay đổi món. Còn thú thì thiếu gì, lúc nào ăn hẵng bắn.
Vừa chuẩn bị bữa tối, tôi vừa kể lại những điều mình suy nghĩ về dãy núi phía tây. Nghe xong, anh Đằng liền lấy ống nhòm leo lên cây quan sát. Lúc trở xuống anh chưa nói gì chỉ bảo anh Hùng: 
- Cậu nhìn đi! Rồi ta sẽ bàn. Anh Hùng chọn một cây cao nhất, leo tít lên đến ngọn, đưa ống nhòm nhìn khắp cả bốn phía. Lúc anh tụt xuống đất anh Đằng hỏi ngay: 
- Thế nào? 
- Phải lên tới nơi mới biết được, anh ạ! Ở đây chưa thể nói trước điều gì. Nhưng tôi tin là Hải đã nghĩ đúng. 
Anh Đằng suy nghĩ một lúc rồi nói: 
- Từ đây tới chân núi không xa mấy, ta gắng đi trong một ngày. Còn leo lên núi thì đến nơi hẵng hay. Đằng nào cũng phải mở hướng mà tìm. Nhưng phải nhanh nhanh lên, các cậu ạ! Kéo dài đến lúc mưa dầm là gay đấy? 
- Anh đừng lo, tôi tin mình sắp đến nơi rồi. - Anh Hùng đáp một cách tự tin và quay sang tôi - Hải này, cậu ăn chè mật ong khi nào chưa? - Thấy tôi lắc đầu, anh nói luôn - Thế thì cậu thái củ mài đi! Cạo sạch vỏ rồi thái kiểu quân cờ ấy! Mình sẽ cho cậu biết chè mật ong nấu với củ mài ngon như thế nào! 
Tôi rất mừng vì trong nhiều ngày qua, giờ mới thấy anh thực sự vui vẻ như vậy. Và món chè nấu bằng mật ong, củ mài với ong non hôm ấy quả là tuyệt vời. Sau này tôi có bắt chước nấu mấy lần, nhưng không hiểu sao không được ngon như hôm ấy.




< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13

14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối