26/06/2015

Tây Bắc hùng vỹ

Cùng ngắm nhìn những bức hình ấn tượng về ruộng bậc thang miền Tây Bắc qua ống kính của Intarob. (Click vào hình ảnh để phóng to)
Nhìn lên đỉnh Fansipang cao 3143m (tiêu cự 14mm, 1/50s,  f/8, ISO 125)
Mù Cang Chải(tiêu cự 14mm, 1/200s,  f/11,  ISO 100)
Tiêu cự 14mm, 1/320s,  f/5,  ISO 100
14mm 1/1000s,  f/8,  ISO 125
Sapa ( Tiêu cự 15mm, 1/320s,  f/11,  ISO 100)
18mm, 1/200s,  f/11, ISO 100
Mù Cang Chải (Tiêu cự 23mm, 1/250s,  f/11,  ISO 100)
Tiêu cự 24mm, 1/50s,  f/8,  ISO 100
Tiêu cự 24mm, 1/50s,  f/11,  ISO 100
Tiêu cự 24mm, 1/50s,  f/11,  ISO 100
Chuẩn bị cho vụ mùa mới (tiêu cự 24mm, 1/60s,  f/2.8,  ISO 800)
Tiêu cự 24mm, 1/125s,  f/8, ISO 100
Tiêu cự 24mm, 1/200s,  f/8, ISO 100
Tiêu cự 27mm, 1/80s,  f/6.3, ISO 200
Mù Cang Chải (Tiêu cự 32mm, 1/80s,  f/8, ISO 100)
Tiêu cự 32mm, 1/100s,  f/8, ISO 100
Cảnh đẹp ở La Pán Tẩn (Tiêu cự 35mm, 1/40s,  f/18, ISO 320)
Mù Cang Chải (tiêu cự 36mm, 1/60s,  f/8, ISO 100)
Tiêu cự 36mm, 1/60s,  f/8, ISO 100
Tiêu cự 42mm, 1/100s,  f/8, ISO 100
Tiêu cự 45mm, 1/50s,  f/8 ISO 100
Tiêu cự 48mm, 1/60s,  f/8, ISO 100
Tiêu cự 50mm, 1/160s,  f/8,  ISO 125
Mù Cang Chải (Tiêu cự 55mm, 1/40s,  f/7.1, ISO 200)
Cụ bà 105 tuổi (Tiêu cự 70mm, 1/40s,  f/2.8,  ISO 1250)
Sapa (Tiêu cự 70mm, 1/125s,  f/ 8,  ISO 200)
Tiêu cự 102mm, 1/320s,  f/8,  ISO 100
Mù Cang Chải (tiêu cự 135mm, 1/60s,  f/8,  ISO 100)
Tiêu cự 135mm, tốc độ 15s, f/4.5, ISO 100
Sapa (Tiêu cự 180mm, 1/250s,  f/8,  ISO 100)
Bức ảnh: Hy vọng
Buổi sáng ở Mù Cang Chải
Những hình ảnh trên liệu đã đủ sức cuốn hút bạn? Nếu có tình yêu dành cho nhiếp ảnh, dải đất hình chữ S còn rất nhiều mảnh đất Thiên đường cho bạn khám phá. Chúc bạn thành công!

25/06/2015

TÂM.

.
Ảnh của HÃY NHÌN VÀO BÊN TRONG BẠN.
Chỉ có một cuốn sách đáng đọc nhất, đó là tâm của chính mình.
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ tất cả những gì làm tâm ta đau khổ trong khi hành thiền. Phiền não đau khổ, chứ không phải tâm đau khổ. Chúng ta chẳng biết cái gì là tâm, cái gì là phiền não.
Những gì không làm ta thỏa mãn thì ta không muốn gặp. Cuộc sống của chúng ta chẳng khốn khổ gì ! Cái khốn khổ ở đây là không thỏa mãn, không hài lòng với cuộc sống. Thật vậy, chúng ta chỉ biết có phiền não và khốn khổ mà thôi.
Thế gian đang ngùn ngụt cháy. Trong sự nóng bỏng này, tâm ta thay đổi từ trạng thái yêu thương sang ghen ghét và thù hận. Biết cách làm để cho tâm an tịch, tĩnh lặng sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế gian.
Nếu tâm bạn an lạc hạnh phúc thì ở nơi nào cũng an lạc hạnh phúc. Khi trí tuệ khai mở trong tâm bạn thì bất kỳ nơi nào bạn nhìn đến cũng đều là chân lý. Chân lý ở khắp mọi nơi, chẳng khác chi một khi biết đọc chữ thì ở đâu bạn cũng đọc chữ được.
Nếu bạn cảm thấy không hài lòng ở một nơi, bạn sẽ cảm thấy không hài lòng ở mọi nơi. Chẳng có nơi nào bên ngoài làm bạn khó chịu. Nơi khó chịu chỉ nằm bên trong bạn mà thôi.
Hãy nhìn vào tâm mình. Người mang vật nặng chẳng thấy gì, nhưng người ngoài nhìn vào thấy được cái nặng nề đó. Vứt bỏ mọi vật, buông bỏ tất cả, bạn sẽ nhẹ nhõm.
Tâm vốn an tịnh tĩnh lặng. Khi tâm ra khỏi an tịnh tĩnh lặng thì bất an rối loạn sẽ nhảy vào. Khi nhìn thấy được bất an rối loạn này thì an tịnh tĩnh lặng sẽ trở về.
Phật giáo là đạo của tâm. Thế thôi! Người nào đào luyện tâm, người đó thực hành Phật giáo.
Khi đèn mờ, bạn không thể thấy mạng nhện giăng ở góc phòng, nhưng lúc đèn sáng bạn có thể thấy rõ ràng để quét sạch đi. Cũng tương tự như vậy, khi tâm trong sáng bạn sẽ thấy rõ phiền não để khử trừ.
Huấn luyện tâm không giống như huấn luyện cơ thể. Muốn cơ thể mạnh phải bắt cơ thể vận động, nhưng muốn tâm mạnh phải giữ tâm đứng yên.
Vì không nhìn thấy chính mình nên người ta làm mọi điều sai lầm. Họ không nhìn vào chính tâm mình. Khi sắp làm điều gì sai quấy, họ nhìn trước, ngó sau xem thử có ai nhìn thấy không: Mẹ mình thấy không? Chồng mình thấy không? Vợ mình thấy không? Con mình thấy không? Nếu không ai thấy, họ vội làm ngay. Đó là họ tự nhục mạ chính mình, họ tự đánh mất phẩm giá cao quí của mình. Có một điều họ quên mất là chính họ cũng đang nhìn thấy họ đấy!
Hãy dùng tâm để nghe giáo pháp, đừng dùng tai.
Chiến đấu với phiền não là chiến đấu bên trong. Dùng bom đạn, súng ống để đánh nhau là chiến đấu bên ngoài. Chiến thắng kẻ khác là đường lối của thế gian. Chiến thắng chính mình là đường lối của giáo pháp. Chúng ta không chiến đấu để chống lại ai cả mà chiến đấu để chinh phục chính tâm mình, kiên trì chống lại mọi tình cảm xung động của chính mình.
Nước mưa đến từ đâu? Nó đến từ những nguồn nước dơ bẩn trên mặt đất và bốc hơi mà thành. Thật kỳ lạ làm sao? Đối với phiền não, tâm bạn cũng có thể làm được như vậy, nếu bạn để nó làm.
Đức Phật dạy chúng ta hãy xét đoán chính mình mà đừng xét đoán kẻ khác dầu họ tốt xấu thế nào đi nữa. Đức Phật chỉ cho ta con đường và nói: “ Chân lý là như vậy đó ”. Tâm ta có được như vậy không?
Thiền sư Ajahn Chah.

22/06/2015

Tác dụng của rượu nếp cho sức khỏe

Vào ngày Tết Đoan Ngọ, nhiều người vẫn thường ăn rượu nếp song không hiểu tác dụng thực sự của món này.

Lương y đa khoa Bùi Hồng Minh, Chủ tịch Hội Đông y Ba Đình, cho hay cơm rượu nếp (hay còn gọi là rượu nếp) có tính ôn ấm, bổ dưỡng, giúp khí huyết lưu thông, tinh thần khoan khoái.
Chính bởi vị cay nồng, cơm rượu trở thành món ăn đặc trưng trong ngày Tết Đoan Ngọ. Theo quan niệm dân gian vào ngày này, con người phải ăn những thứ cay, nóng, chua, đắng để giết “sâu bọ” (giun, sán, ký sinh trùng) trong cơ thể.
Theo lương y Hồng Minh, cơm rượu nếp được làm từ gạo nếp, nấu chín thành cơm, lót lá chuối, rải để nguội.
Sau đó, dùng men làm rượu giã nhỏ, cho cả hai thứ vào âu (bình thủy tính, sứ…) theo nguyên tắc một lớp men, một lớp cơm xen lẫn, mỗi lớp cỡ 3-4 cm. Ủ 3-4 ngày, hỗn hợp này sẽ ra nước, tức là đến lúc chín, có thể ăn.
an-ruou-nep-diet-sau-bo
Rượu nếp được bày bán khắp nơi trong dịp Tết Đoan Ngọ. 
Ảnh: Hoàng Anh.

 “Người xưa thường làm trước ngày Tết Đoan Ngọ để kịp có món ăn vào ngày đặc biệt này.
Tuy nhiên ngày nay, chúng ta có thể làm món ăn này ăn vào các ngày bình thường khác bởi thực chất cơm rượu nếp rất tốt cho cơ thể”, lương y Hồng Minh cho hay.
Vị chuyên gia cho biết có thể làm cơm rượu nếp từ nếp cẩm, nếp cái hoa vàng song muốn ngon và bổ phải được làm từ thóc xay, không giã, chỉ bỏ lớp vỏ trấu, giữ lại lớp vỏ lụa và lớp cám bên ngoài.
Lớp cám này rất giàu chất dinh dưỡng, bao gồm cả gluxit, protit, lipit, các muối khoáng. Trong đó, vitamin nhóm B và chất xơ là có nhiều hơn hết.
Do đó, chúng ta ăn cả nước lẫn cái của cơm rượu nếp không những có tác dụng bồi bổ cơ thể mà còn có thể ngăn ngừa các bệnh đái tháo đường cũng như tim, đột quỵ và cao huyết áp.
Ngoài ra, cơm nếp sau khi được lên men còn giúp kích thích tiêu hóa, rất thích hợp để bồi bổ cơ thể người mới ốm dậy, người chán ăn hoặc mắc các chứng rối loạn tiêu hóa.
Đặc biệt cơm rượu nếp cẩm có tác dụng làm hạ nồng độ cholesterol có hại trong cơ thể, hỗ trợ rất tốt trong việc giảm cân.
Vẫn theo lương y Hồng Minh, lượng sắt trong gạo nếp rất cao, ăn vào sẽ tăng cường hồng cầu, gia tăng lượng máu đến nuôi dưỡng các tế bào da. Nhờ đó, ăn món ăn này, da dẻ thường sẽ hồng hào, sáng hơn.
Theo lương y Hồng Minh, cơm rượu nếp tính lành, chủ yếu bổ dưỡng và giúp khí huyết lưu thông.
Các đối tượng từ người già, phụ nữ mang thai, sau khi sinh, ăn món này đều rất tốt, riêng trẻ em dưới 10 tuổi không nên dùng vì dễ bị say.
Bài thuốc đặc biệt từ rượu nếp:
Dành cho phụ nữ sau khi sinh: Lấy khoảng 3 kg cơm rượu nếp (đã lên men như thông thường) cho vào lọ thủy tinh, cho thêm 5-7 quả trứng gà để nguyên vỏ nhưng lấy kim châm 2 đầu quả trứng.
Hạ thổ lọ thủy tinh khoảng 100 ngày (có thể lâu hơn), sau đó ăn khoảng 50-100 g/ngày. Công dụng: Giúp hồi phục cơ thể, sạch huyết xấu, da dẻ hồng hào, nhiều sữa.
Dành cho người ốm dậy: Cơm rượu đã lên men cho thêm sâm để ăn. Công dụng: Bồi dưỡng cơ thể, lưu thông khí huyết, nhanh hồi phục.

ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA ?

  

Trong thời Phật tại thế, vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật pháp là một vị thuần nhất. Chỉ do đối tượng thuyết pháp không giống nhau cho nên nội dung và cảnh giới thuyết pháp cũng khác nhau mà thôi.
Đối với những người có trình độ thấp, Phật chỉ giảng đạo lý làm người, giảng năm giới, mười điều thiện gọi là nhân thiên thừa. Đối với nhưng người nhàm chán thế gian, Phật giảng phương pháp thoát ly sinh tử, gọi là Thanh văn tiểu thừa. Đối với những người có trình độ cao, có tâm nguyện nhân độ thế, thì Phật giảng giáo lý Đại thừa bồ tát.
Trên sự thực, Phật pháp chia làm năm thừa : Nhân thừa (tức là Phật giáo của nhân gian), Thiên thừa (Phật giáo cho loài Trời), Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Bồ tát thừa.
Tu theo 5 giới và 10 điều thiện ở bậc cao (thượng phẩm) thì sẽ được sinh lên các cõi Trời. Tu theo 5 giới 10 điều thiện ở bậc trung bình (trung phẩm) thì sẽ được sinh làm người. Tổng hợp cả hai lại gọi chung là con đường loài Người và loài Trời. Hàng Thanh văn nhờ nghe pháp tu hành mà được giải thoát khỏi sinh tử. Hàng Độc giác không nghe pháp, không có thầy mà tự mình giác ngộ, được giải thoát khỏi sinh tử. Tổng hợp cả hai lại gọi chung là con đường giải thoát của Nhị thừa.
Con đường Bồ tát là pháp môn vừa cầu giải thoát, vừa không tách rời con đường loài Người và loài Trời, do đó con đường Bồ tát đại thừa là con đường tổng hợp cả hai con đường giải thoát và con đường loài Người và loài Trời.
Tu theo 5 giới và 10 điều thiện trong con đường loài Người và loài Trời thì vẫn còn là phàm phu. Người tu hành, chứng đạo giải thoát không còn luân hồi sinh tử nữa, mới gọi là bậc Thánh. Vì chỉ lo lắng cho bản thân mà cầu Phật pháp để được giải thoát, không có tâm nguyện quay trở lại cứu độ chúng sinh, cho nên gọi là Tiểu thừa. Con đường Bồ tát gọi là Đại thừa, vì rằng vị Bồ tát, trên thì cầu đạo Phật vô thượng để giải thoát khỏi sinh tử, dưới thì phát nguyện độ thoát vô lượng chúng sinh để cùng thoát khỏi biển khổ sinh tử.
Về mặt phân bố địa lý mà nói, thông thường gọi Phật giáo Bắc truyền theo văn hệ Sanskrit, lấy Trung Hoa làm trung tâm, bao gồm các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam thì gọi là Phật giáo Đại thừa. Còn Phật giáoNam truyền dùng kinh điển thuộc văn hệ Pali, lấy nước Tích Lan làm trung tâm và bao gồm các nước như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, thường được gọi là Phật giáo Tiểu thừa.
Thực ra, đó chỉ là sự phân biệt của riêng Phật giáo Bắc truyền, còn Phật giáo Nam truyền thì không công nhận sự phân biệt đó. Đấy là do, trong Luật tạng của Hữu Bộ, quyển 45 và Tạp A Hàm quyển 28 trang 69 đều có ghi danh từ Đại thừa để chỉ những người tu theo Bát chính đạo và Tạp A Hàm quyển 26 trang 204 dùng danh từ đại sĩ chỉ cho những người tu hạnh Bốn nghiếp pháp. Tăng nhất A Hàm cuốn 19 cũng nói rõ sáu độ thuộc về Đại thừa. 
Phật giáo Bắc truyền, trong lĩnh vực lý luận, có phần phát huy hơn Phật giáo Nam truyền, thế nhưng về mặt thực tiễn sinh hoạt thì Phật giáo Bắc truyền không phải tất cả theo Đại thừa và Phật giáo Nam truyền cũng không phải tất cả đều theo Tiểu thừa. Phật giáo Trung Quốc, ngoài việc ăn trường trai ra, cũng không có gì xuất sắc hơn Phật giáo Nam truyền
Phật giáo Trung Quốc do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang và lối học nói suông chuyện thanh cao (huyền học tham đàm) cho nên cũng bị lớp sĩ phu đời Ngụy Tấn đối đãi như là một thứ huyền học để tiêu khiển. Lý luận của các tông phái ở Trung Quốc như Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông đều có chịu một phần ảnh hưởng của học phong này. 
Chính vì vậy, có một học giả Nhật Bản cận đại, ông Mộc Thôn Thái Hiền phê bình Phật giáo Trung Quốc là loại Phật giáo học vấn, không phải là Phật giáo thực tiễn. Phê bình như vậy, không phải là không có lý do. Trên sự thực, cấu trúc tư tưởng của Hoa Nghiêm Tông và Thiên Thai Tông đều xuất phát từ cảnh giới chứng ngộ của các cao tăng Trung Hoa, chứ không có y cứ đầy đủ trong tư tưởng lý luận của Phật giáo Ấn Độ. Do đó, có thể nói tinh thần Đại thừa chân chính của Phật giáo Trung Quốc, cho đến nay vẫn chưa phổ cập đến dân gian Trung Quốc, chứ còn nói gì làm nơi quy tụ của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc ! Vì vậy mà có người nói, Phật giáo Trung Quốc về tư tưởng là Đại thừa, về hành vi là Tiểu thừa.

THIỀN ĐỊNH – Sự chuyển đổi năng lượng thân tâm.


 

Trong Vũ trụ bao la và đầy bí ẩn, mỗi chúng ta là một sinh vật rất nhỏ bé, sống trên một hành tinh nhỏ bé, trong một Thiên hà có kích thước rất khiêm tốn so với các Thiên hà khác. Tuy vậy, ở bất cứ thời gian nào và hoàn cảnh nào, mỗi chúng ta cũng đều được trao ban một năng lượng vô hình, kỳ bí và vô tận.

Sống trong cuộc đời này, ai cũng mong muốn tìm cho mình một sức khoẻ tốt, một sự thịnh vượng, một sự hoà ái, một trí tuệ minh mẫn và trên hết là sự an lạc. Muốn thế, mỗi chúng ta đều cố gắng nỗ lực để đạt được những thứ này bằng cách này hay cách khác. Nhưng liệu trong chúng ta có mấy ai được toại nguyện? Nếu chúng ta hiểu rõ và tìm ra được sự liên đới rất chặt chẽ của bản thân mình với Vũ trụ, chúng ta có thể vượt qua được những trở ngại này.

Năng lượng Vũ trụ là nguồn năng lượng hằng hữu, có mặt khắp mọi nơi trong Vũ trụ, nó gắn kết các Thiên Hà, các Ngôi sao, các Hành tinh, Con người và các Nguyên tử khác. Năng lượng Vũ trụ cũng là khoảng không giữa mỗi vật và bên trong của mọi vật. Sự gắn kết này giúp cho Vũ trụ hoạt động tuân theo các quỹ đạo một cách trật tự. Năng lượng Vũ trụ là nguồn năng lượng của sự sống, nó cung cấp năng lượng cho các chức năng để cơ thể sống có thể hoạt động, nó cũng là động năng thiết yếu duy trì trật tự sự sống và giúp nâng cao trí tuệ của mỗi Linh hồn.

Khi tâm thức chúng ta hoàn toàn yên tĩnh như khi chìm trong những giấc ngủ thật sâu, chúng ta có thể nhận được một ít năng lượng này từ Vũ trụ , qua đó mà cơ thể của chúng ta có thể sử dụng nguồn năng lượng này cho các hoạt động hằng ngày của trí não như nhìn, nói, nghe, suy nghĩ và các hoạt động khác của cơ thể. Nguồn năng lượng được hấp thu rất ít ỏi trong giấc ngủ ngon này không đủ để trang trãi cho toàn bộ các hoạt động nói trên. Đó là lý do tại sao chúng ta cảm thấy mệt mỏi, uể ỏi, căng thẳng, chán nản và sau cùng là kiệt sức khi làm việc. Điều này đã có thể dẫn đến các bệnh tật về tinh thần và thể xác. Tuy thế, từ xa xưa con người đã biết tiếp thu nguồn năng lượng quý báu này một cách chủ động, và ngày nay Khoa học cũng đã biết ứng dụng kỹ thuật này để hỗ trợ cho con người vượt qua những khó khăn, khổ ải vì bênh tật, ngoài các phương tiện y học hiện đại.

Cách duy nhất để dung nạp Năng lượng Vũ trụ một cách tích cực là Thiền định. Ngủ là một trạng thái thiền vô thức nên năng lượng thu nạp không nhiều, trong khi Thiền là một trạng thái chủ động nên năng lượng thu nạp lớn hơn nhiều. Nguồn năng lượng này giúp tăng cường thể chất, tinh thần và trí tuệ, giúp khai mở giác quan thứ sáu và còn nhiều hơn thế nữa… Do được hấp thu liên tục do thiền định, nên năng lượng tích tụ ngày càng nhiều,Thiền giả sẽ có sức khoẻ mạnh mẽ hơn và tâm sẽ thanh tịnh hơn.


Thiền định không phải là một cái gì cao siêu mà chỉ là thực hiện một chuyến du hành của tâm thức tìm về với chính mình. Trong chuyến du hành này, thiền giả sẽ tìm hiểu chính mình từ thể xác đến ký ức, từ ký ức đến trí tuệ và từ trí tuệ đến chân tâm và còn cao hơn thế nữa...

Để hành thiền, trước tiên chúng ta phải ngưng tất cả các hoạt động thân xác lẫn tinh thần. Khi bản thể được thả lỏng, tâm thức sẽ bước qua một cảnh giới kế tiếp, tâm đã trở về với ký ức. Ký ức là những ý nghĩ miên man, vọng niệm, liên tục đến và đi trên bề mặt trí não. Khi vọng niệm đến, thiền giả sẽ bắt gặp rất nhiều điều đã biết hoặc chưa hề hay biết. Để vượt qua được nghiệp tâm, thiền giả phải biết tập trung quán sát hơi thở. Theo dõi hơi thở là một khả năng tự nhiên của mỗi bản thân. Đừng hít thở một cách chủ động, mà hãy để hơi thở tự nhiên ra vào và chỉ cần theo dõi hơi thở của mình một cách bình thường mà thôi. Đừng bị cuốn theo những ý nghĩ miên man và những vọng động. Hãy bình tâm lấy lại quyền chủ động, trở về với hơi thở, theo dõi hơi thở một cách bình thường và chỉ có hơi thở mà thôi. Sau đó mật độ của nghiệp tâm sẽ giảm xuống, hơi thở sẽ trở nên nhẹ nhàng, dịu hơn và ngắn hơn.

Cuối cùng, hơi thở sẽ trở nên nhẹ nhất, tụ lại như tia sáng và loé lên ở điểm giữa hai chân mày. Trong trạng thái này, thiền giả sẽ cảm giác không còn thở và không còn vọng niệm, trạng thái tâm không. Đây được gọi là trạng thái tĩnh tâm hay nhập định. Trong trạng thái này, chúng ta sẽ tắm mình trong năng lượng vũ trụ. Hành thiền càng nhiều, thiền giả càng được tiếp nhận nhiều năng lượng Vũ trụ. Nguồn năng lượng này tuôn chảy khắp bản thể được bao quanh bởi từ trường. Đây được gọi là thể Dĩ Thái hay Thể Phách- Etheric Body.

Thể Phách là sự gom tụ hình thành từ hơn 72 nghìn ống dẫn năng lượng chạy khắp thể xác của cơ thể. Tất cả các ống dẫn năng lượng xuất phát từ đỉnh đầu. Vùng này được gọi là Luân Xa 7. Các ống dẫn năng lượng lan toả khắp cơ thể giống như cành cây và rễ cây. Thể phách được xem là cầu nối giữa phần siêu hình và thể chất, đóng vai trò trung gian nên nó rất quan trọng.

Thể Phách là căn nguyên hoạch định kiếp sống của chúng ta, là nguồn gốc quyết định nghiệp quả sinh tồn của mỗi chúng ta. Sự vận hành của tất cả cơ quan chức năng trên hoàn toàn phụ thuộc từ nguồn Năng lượng Vũ trụ vào. Đường vào của luồng Năng lượng Vũ trụ phụ thuộc vào ý niệm của chúng ta. Khi tâm niệm mê chấp, đường vào này sẽ bị tắt nghẽn. Nói cách khác, vọng niệm như là một chướng ngại vật làm bịt kín đường vào của Năng lượng Vũ trụ. Khi năng lượng bị yếu đi thì năng lượng trong các ống dẫn năng lượng bị hút ra hết. Sự thiếu hụt năng lượng này sẽ tạo nên các mảnh vá từ trường trong thể phách. Những mảnh vá này sẽ dần dần ảnh hưởng lên thân xác của vật chất. Nói cách khác các bệnh tật xảy ra do sự thiếu hụt năng lượng.

Vì thế, khi Thiền định được thực hiện thường xuyên, thì các mảnh vá sẽ được xoá sạch, cơ thể có thể tự chữa lành bệnh tật mà không cần dùng thuốc, và ta sẽ có một đời sống khỏe mạnh, bền bỉ. Thiền định càng nhiều, giúp tâm thức thanh tịnh, năng lực trí nhớ tăng lên, trí tuệ thêm sáng suốt. Những điều đó giúp chúng ta có mối quan hệ hoà ái với mọi người. Thiền định sẽ làm tăng hạnh phúc cuộc sống gia đình, tâm thức sẽ thanh bình. Thiền định sẽ làm chúng ta vui khoẻ, giúp chúng ta giải quyết được các vấn nạn. Thiền định thực sự là sự hấp thu năng lượng Vũ trụ một cách chủ động để chuyển hoá thân tâm.

Thiền định có thể được thực hành ở bất cứ nơi nào, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu. Để hành thiền bạn không cần rời xa gia đình. Mọi người đều có thể hành thiền. Để thiền định, bạn không cần có người thầy uy tín nào. Người thầy uy tín nhất chính là Minh sư ở trong bạn. Hơi thở của bạn chính là thầy của bạn, là minh sư của bạn.