14/02/2016

Chữ Cần và Yêu của người đàn bà

 


Nhân ngày mồng 8 tháng Ba đã gần kề nói về Phụ nữ hỉ!

Đã trải qua nhiều rồi, ở tuổi đã sang Đông, không còn có sự lãng mạn của tuổi trẻ nên hiểu được nhiều hơn việc đời qua chữ "Cần - Yêu" ở người đàn bà - phụ nữ. 

Điều này có lẽ động chạm đến nhiều người tôi quen hoặc biết, song tôi không hề động chạm đến bất cứ ai đâu nên xin chớ chạnh lòng.

Với người đàng bà - phụ nữ, Cần thuần túy mang tính vật chất như Tiền, Quyền (Danh) và Dương cụ để thỏa mãn nhu cầu bản thân.

Còn chữ Yêu lại khác, nó mang nghĩa tinh thần - một loại tinh thần bậc cao  vi diệu, không dễ đòi hỏi hay so sánh nhưng nó cũng hàm cả vật chất nguyên chung trong đó, nó là sự yêu thương, trách nghiệm và nghĩa vụ, thậm chí không đòi hỏi đền đáp; nó có thể đơn phương và nhiều khi đa phương lắm chứ (tỷ như tôi yêu ấy, nhưng ấy lại yêu chồng - vợ ấy cơ; nhưng tớ vẫn cứ âm thầm yêu và có trách nhiệm với ấy chả hạn...)

Rất nhiều người lầm hiểu khi yêu ai ta phải cần người đó nhưng thật sự chữ "cần" không đồng nghĩa với chữ "yêu". Người đàn bà - phụ nữ cần cái thuần túy là bản năng hoặc nhu cầu cuộc sống hay sĩ diện bản thân

Chữ "cần" đã làm giảm đi giá trị của chữ "yêu". Vì khi Cần phải thể hiện tình cảm như thật là Yêu để có được những vật chất thuần túy. Người phụ nữ có rất nhiều lý do để "cần" người đàn ông, tỷ như:

...Em cần anh để có nơi nương tựa, để bảo đảm cuộc sống, để làm cha mẹ hài lòng, để nở mặt với bạn bè hoặc những người yêu cũ hay mới hay đương, để về già khỏi cô đơn, vì mấy đứa bạn của em ai cũng có chồng rồi….

Vì em muốn có con mà đồng hồ sinh học của em ngày càng nhanh... thậm chí có khi em cần anh chỉ để thỏa mãn tự ái của em….

Vâng đúng vậy ? Cái cần đó định lượng được bằng vật chất mà.

Nhưng thử nghĩ nếu ta lấy đi tất cả lý do mà người phụ nữ cần người đàn ông thì cái còn lại là gì? Chữ Cần đó đã phủ nhận hết những tình cảm mà người phụ nữ dành cho chồng - cho người bạn đời hoặc người yêu của họ rồi – vậy còn gì đâu ?

Với tôi, câu nói ngọt ngào nhất có thể nói với người yêu của người đàn bà với chồng mình (trong cả suy nghĩ và hành động) bắt đầu bằng: "Em không cần anh nhưng... em vẫn muốn có anh chỉ vì... em yêu anh".

Theo các bạn – Có người đàn ông nào không mong muốn câu trên để rồi phấn đấu, bảo vệ và duy trì gia đình mình ?

Lẽ lan man nhiều sẽ thành nhảm vậy nên dừng ở đây hỷ ?

12/02/2016

Người phụ nữ chính là phong thủy, vận khí của gia đình

   Chữ “安 (an)” bao gồm chữ “女(nữ)” ở dưới và bộ phía trên chữ nữ mang ý nghĩa tượng trưng cho gia đình. Điều đó để nói với phái mày râu rằng: phụ nữ chính là ngôi nhà của họ, như vậy tâm của họ mới có thể an định, mới cảm thấy ấm áp từ trong tâm.
   Cổ ngữ có nói: “Thê hiền phu an” (tạm dịch: có người vợ hiền thì người chồng mới có thể  an tâm lập nghiệp). Câu nói này có vẽ như đã giải thích sâu sắc ý nghĩa của chữ “安 (an)” này.

Người phụ nữ chính là phong thủy của gia đình


   Một gia đình nếu muốn có được hạnh phúc, bình an,  thế hệ tương lai có thể thành tài. Tất cả những thứ này đều có quan hệ mật thiết tới mọi hành vi của người phụ nữ làm chủ trong gia đình. Đối đãi với người chồng và con cái trong gia đình như thế nào, đều liên quan rất lớn.
   Người phụ nữ có tâm và thân ngay thẳng, nhân từ, tốt bụng, sẽ mang lại cho gia đình và thế hệ tương lai phúc đức vô tận, giúp  tránh những điều không tốt hay tai ương cho gia đình.
   Nếu như bà chủ trong gia đình có những tư tưởng xấu trong tâm, hành vi sai trái, không có lòng hiếu kính cha mẹ, gian dâm nghịch lý… sẽ làm cho gia đình mất đi sự an định, không chỉ gây nguy hại cho bản thân mình, mà còn mang lại tai hoạ cho gia đình.
   Vì vậy, người xưa thường nói: “một người phụ nữ tốt sẽ mang tới thịnh vượng cho ba thế hệ, người phụ nữ xấu sẽ làm hại đến ba thế hệ”.
   Người phụ nữ ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề nhà cửa sẽ thường xuyên ngăn nắp, gọn gàng. Ngược lại, người phụ nữ ăn mặc nhếch nhác, cẩu thả thường sẽ biến căn nhà thành  một mớ hỗn độn, bừa bãi, khiến cho tâm trạng cũng không được thoải mái.
   Người phụ nữ hay kì kèo tính toán, bụng dạ hẹp hòi, hay sinh chuyện thì gia đình sẽ không có ngày nào được bình yên. Ngược lại, người phụ nữ mà tâm tính thoải mái, rộng lượng, thông tình đạt lý, tài vận của gia đình chắc chắn sẽ thịnh vượng, già trẻ lớn bé trong nhà đều có được sức khỏe tốt.
   Người phụ nữ tốt, không phải là về sắc đẹp, mà là một trái tim đẹp.
   Một người vợ tốt, không phải là về ngoại hình, mà là về nội tâm.
   Một người phụ nữ đức hạnh, tuổi càng cao thì trông lại càng phúc tướng.
   Người phụ nữ mà không có đức hạnh, càng về già, càng xấu xí hơn.
   Một gia đình cần dựa vào người phụ nữ thấu tình đạt lý thì việc kinh doanh của gia đình mới sớm có ngày thành công!
   Gia đình mà có người phụ nữ mới được gọi là một gia đình đầy đủ.
   Có người phụ nữ, gia đình mới có được tiếng cười và hạnh phúc lâu dài!
   Chồng và con, một người cần bàn tay chăm sóc của người vợ, một người cần sự yêu thương ân cần của người mẹ!
   Có thể nói:

   Người đàn ông như cột trụ của ngôi nhà, là xương sống chính. Còn người phụ nữ, chính là phong thủy, vận khí của gia đình!

07/02/2016

Nghèo nhưng biết cách sẽ chả Hèn

Đối mặt với những lúc thăng trầm của cuộc sống, những lúc nghèo khổ bần cùng, rất nhiều người lại rơi vào tuyệt vọng chán nản mà rớt xuống thảm hại hơn. Hãy cùng suy ngẫm về những điều mà người xưa khuyên dạy dưới đây để có cuộc sống lạc quan hơn, tươi sáng hơn nhé!
1. Người nghèo phải ít ở trong nhà, năng ra bên ngoài. Khi giàu có rồi thì phải ở trong nhà nhiều hơn, ít ra bên ngoài. Đây chính là nghệ thuật sống!
2. Khi nghèo, nên tiêu tiền cho người khác. Khi giàu, nên tiêu tiền cho những người thân yêu bên mình. Rất nhiều người đã làm ngược lại!
3. Khi nghèo đừng tính toán ganh đua với người khác, đây gọi là “nghèo nhưng chí không nghèo”. Người giàu phải học được nhường nhịn và buông bỏ. Đây là cách sống rất tinh tường mà không phải ai cũng hiểu được!
4. Nghèo thì nên phải hào phóng, giàu không nên phô trương khoe khoang sự giàu có. Cuộc sống càng đơn giản thì càng tĩnh tại.
5. Tuổi trẻ là tài phú lớn nhất, nhưng phải quý trọng gấp đôi thời gian, đừng sợ nghèo khó. Hiểu được bồi dưỡng bản thân, hiểu được cái gì là đáng quý, hiểu được nên đầu tư cái gì, hiểu được nên tiết kiệm chỗ nào. Đây chính là điểm mấu chốt, là chìa khóa để cải biến.
6. Một khi đã có đủ tiền, niềm hạnh phúc lớn nhất chính là có thể dùng số tiền ấy để hoàn thành ước mơ của mình.
Cuộc đời chính là như vậy, sống ngày hôm nay nhưng không biết được ngày mai sẽ xảy ra điều gì, cũng không hiểu được vận mệnh của mình vì sao lại như thế? Chỉ có trải qua mọi chuyện bạn mới có thêm nhiều kinh nghiệm để đối đãi với cuộc sống, với thế giới này. Đừng tuyệt vọng! Hãy nhìn cuộc sống bằng ánh mắt lạc quan và sống ý nghĩa hơn ngay ngày hôm nay, chắc chắn tương lai của bạn sẽ nhận được trái ngọt.

Để sống tốt hơn, hãy lưu ý những câu nói sau:

1. Học cách tự vui vẻ
Cuộc đời là của bạn, tâm trạng cũng là của bạn. Hoàn cảnh có thể không vui nhưng bạn có thể thay đổi được tâm trạng của mình phải không?
2. Học cách tự chăm sóc chính bản thân mình
Không ai có thể nâng đỡ, chăm sóc được bạn cả cuộc đời. Hãy tự biết chăm sóc bản thân để thấy được giá trị của mình.
3. Học cách từ bỏ nỗi đau
Tình yêu làm cho người ta quên đi thời gian và thời gian làm người ta quên đi tình yêu. Đừng để quá nhiều “ngày hôm qua” chiếm hữu “ngày hôm nay” của bạn.
4. Học cách coi nhẹ được mất
Trên thế giới này, kỳ thực ngoài sinh mệnh của mình ra thì không còn có gì quan trọng, đáng để bạn lạc lối cả.
5. Học thiện lương
Thiện lương là nền tảng, cốt lõi để làm người. Đừng vì danh lợi mà để mất đi bản tính của mình.
6. Học khoan dung
Phụ nữ không phải vì xinh đẹp mới khả ái mà là vì khả ái nên mới xinh đẹp. Một chút khoan dung độ lượng có thể khiến người khác cảm kích cả đời.
7. Học được quý trọng
Đời người nhìn thì tưởng là xa nhưng thực ra lại rất ngắn. Hãy quý trọng tất cả mọi người xung quanh mình, đừng để lưu lại sự hối tiếc khi đã quá muộn.


Tự xét Mình rồi đến xét Người

Tổng hợp qua Net.

1. Cần kiệm không lo nghèo túng, chăm chỉ không lo năng lực kém.
Muốn cải biến sự nghèo khó thì cần chú ý ở hai điểm: Một là chi tiêu, hai là tiết kiệm. Khi muốn thay đổi tình trạng nghèo túng, không có cách nào khác ngoài việc làm bạn với tiết kiệm. Sinh ra đã mang trong mình sự vụng về thì cũng không nên nản lòng, chỉ cần có đức tính cần cù chịu khó thì vẫn có thể đạt được mục tiêu.
2. Trung có giả trung, Hiếu có giả hiếu, nhưng nhìn “trung hiếu” hai chữ này không phải ở bề mặt thể hiện ra. Giả nhân, giả nghĩa cùng tập trung trong một người thì hẳn người đó là người vô cùng gian ác.
Có một loại tâm “Trung” bị coi là “giả trung”, cũng có một loại tâm “Hiếu” bị coi là “giả hiếu”, từ đó có thể nhận biết được hàm nghĩa thật sự của hai chữ “Trung” “Hiếu”. Cũng như thế, hành vi nhân nghĩa cũng có dối trá ở bên trong “giả nhân”, “giả nghĩa”.
3. Giáo dục con nhỏ nên nghiêm khắc đối đãi, thái độ nghiêm khắc có thể dạy bảo đứa trẻ thành những đứa con ngoan. Đối đãi với người xấu cần dùng thái độ khoan dung, thái độ khoan dung có thể cảm hóa nhân tâm của người xấu, cũng có thể giúp bản thân không bị kẻ xấu làm hại.
4. Mỗi ngày đều hành thiện giúp người, không cần phải có gia đình giàu sang, xử lý các việc một cách thấu tình đạt lý, phân biệt rõ tốt xấu mà không cầu lợi cho mình.
Người giỏi nghề là người biết dạy cho con cái giỏi làm việc chứ không phải để lại cho con cái nhiều tiền của. Giỏi giao tiếp là người biết dùng thái độ khách quan để xem xét sự việc rồi mới đưa ra quyết định, chứ không vì một chút tư lợi mà bên nặng bên nhẹ.
5. Người hiền đức mà nhiều tài thì hay vì người mà suy nghĩ, người giả nhân mà nhiều tài thì chỉ tìm lợi cho bản thân.
Đối với người nhiều tài đức sáng suốt, nhưng nếu cha mẹ cho họ quá nhiều tài sản sẽ làm giảm đi chí hướng phấn đấu, dần dần con cái họ sẽ không muốn phát triển. Người giả nhân mà nhận được quá nhiều tài sản thì sẽ khiến cho người này không kiêng nể gì mà phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, và tạo nghiệp ngày một nhiều hơn…
6. Người mà nhân phẩm kém cỏi chỉ vì nhìn không thấu được chữ “lợi”, Người mà học hành không tiến bộ chỉ vì không thoát ra khỏi chữ “lười”.
Người mà nhân phẩm không tốt lên, tất cả là do dục vọng của lợi lộc, học vấn không thăng tiến tất cả là bởi chính mình không thoát ra khỏi được cửa ải tạo nên bởi tính lười.
7. Tâm nhận biết được đúng sai thì có thể xử sự được quyết đoán, người không quên liêm sỉ có thể ngẩng cao đầu.
Tâm có thể làm rõ đúng sai thì có thể xử lý mọi việc nhanh và quyết đoán. Người không quên lễ nghĩa, sẽ làm một người tốt và không cùng một chỗ với người xấu mà làm việc ác.
8. Người xưa viết văn rất giỏi trích dẫn danh ngôn, tuy chỉ có mấy lời, nhưng lại khiến tác phẩm trở nên hoàn mỹ, khiến người càng đọc càng thấy hay, lại càng thêm động lòng người.  
9. Tính tình khác thường, không phải biểu hiện của người tốt, cũng bởi từ lòng dạ hẹp hòi, suốt ngày thấy bất an, suy nhược tinh thần mà chết sớm. Người mà ngôn ngữ chanh chua, bởi vì thiếu tu khẩu nên khiến mọi người xa lánh mà trở nên cô độc, người khác không muốn giúp đỡ khiến cho bản thân phúc phận ngày càng kém.
10. Người không nhìn xa trông rộng, trong cuộc sống rất dễ bị ảnh hưởng và nghe lời của người nhỏ mọn mà thông đồng làm việc xấu, rồi dần dần mất đi tư cách con người. Tư tưởng mà quá cao, dễ sinh ra nói như rồng leo mà làm thì như mèo mửa, không muốn làm việc nhỏ nên khó thành nghiệp lớn.
11. Những sai lầm lớn đều do ngẫu hứng nhất thời tạo thành vì vậy cần phải học tính cẩn thận.
12. Khi xuất hiện vấn đề, cần tìm nguyên nhân ở bản thân, không được oán trách người khác. Đây là đạo lý tự xét mình.
13. Giao lưu bạn bè một cách tùy tiện không bằng đóng cửa lại và đọc sách. Đọc một cuốn sách hay giống như đối thoại với người cùng tư tưởng, hơn nữa sách chính là người bạn tốt và rất giỏi.
14. Gặp nhiều khó khăn càng giúp rèn luyện tính chịu khổ, làm được những việc mà người bình thường không thể làm, tiếng thơm để lại muôn đời, là chỗ mà mọi người có thể trông cậy. Đối với những sự việc phát sinh sai lầm, không đi trách móc, uốn nắn, thì sẽ không vì lời nói mà rước họa vào thân.
15. Khi giao lưu cùng bạn bè, nên học hỏi điều tốt của họ, mới có thể được lợi ích. Đối với lời dạy của bậc Thánh hiền, cần nên chuyên tâm làm theo từng chút một, như thế mới có thể hiểu được mức thâm sâu của những lời dạy ấy.


Tết Ta ngày xưa

Sưu tầm trên Net. Thấy hay đem về trưng.
Tết Nguyên đán là những ngày vui vẻ nhất trong năm của người Việt Nam. Joseph Tissanier, người Pháp, sống ở Thăng Long từ 1658-1663 đã dự năm cái Tết ở đây, tả rõ rằng, vào dịp này người Việt sửa soạn mọi cái cho long trọng, từ nhà cửa đến đồ ăn, áo mặc. Túng cực đến đâu cũng phải kiếm cho đủ tiền bạc tiêu dùng ba ngày Tết. Có những kẻ nghèo khổ, phải đi ăn cắp vặt hoặc dùng võ lực cướp của người khác, hầu được sống dung dung trong những ngày đầu Xuân [1]. Vì vậy trong những đêm gần Tết, nhiều nhà phải thức đêm canh trộm.
Cuối năm, các chợ Tết hết sức nhộn nhịp, vì mọi người giàu sang, nghèo hèn đều đi mua sắm. Quan cũng như dân đều lo may quần áo mới, dọn dẹp nhà cửa cho khang trang, sửa sang võng cáng, tàn lọng, đắp lại mồ mả, cột nhà tường vách treo đầy câu đối, tranh vẽ, vua chúa cũng cho quét dọn lăng tẩm…[2]
Theo Bento Thiện viết năm 1659: “đến gần ngày bết bua chúa ban lịch cho thiên hạ xem ngài” [3], trong đó những ngày nghỉ Tết được ấn định rõ ràng. Thường bắt đầu nghỉ từ ngày 25, 26 tháng chạp, và có thể kéo dài tới ngày 10 hay 15 tháng giêng. Những ngày đó, nếu có chiến tranh, cũng tạm ngưng để ăn Tết. Từ ngày 25 tháng chạp, ấn dấu của vua chúa, quan quyền đều được lau chùi sạch sẽ, cất vào hộp, không dùng tới; khí giới quân đội cũng lau lọt sáng nhoáng để một nơi.
Chúng ta thử coi, năm 1659 thầy giảng Bento Thiện đã viết về Tết Nguyên đán thế nào: “Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà ông vãi, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy vua chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì vua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ. Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kì. Vua chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bảy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ ăn mừơi ngày. Lại xem ngày nào tốt, mới mở ấy ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội đài, ngoại hiến, phủ huyện, quan đăng nha môn, mới có kiện cáo”. Chính Bento Thiện lại viết chữ quốc ngữ đoạn trên như sau: “Thóy nước Annam, đầu Năm mùỏ một tháng giang gọi là ngài tết. Thien hạ đi lại bua, đoạn lại chúa mớy lại oủ bà oủ bải cha mẹ củ kẻ cả bề tiên, quan quièn thì lại bua chúa, thứ dân thì lại bụt tlưác, ăn tết ba ngài mà một ngài tlưác mà xem ngài mùỏ hay mùỏ ba, ngài nào tốt, thì bua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ blờy hiẹu thien thưạng đế hoàng địa kì. Bua chúa thì lạy mà xin cho thien hạ được mùa củ dân an, đến mùỏ bải mùỏ tám mớy hết củ làm cỗ cho thien hạ ăn mươỳ ngài, lại xem ngài nào tốt, mơý mở ấn ra cho thien hạ đi chầu củ làm vịec quan, củ hỏi kịen mọy vịec, lại làm như tlưác mớy khai cuác, thien hạ bào chầu bua,từ ấy mớy có phien đi chầu, nộy đài ngoặy hién phủ huịen quan đảng (đăng?) nha môn, mớy có kịen cáo”[4]
Mấy ngày cuối năm, một số người già cả không dám ở nhà mình, nhưng phải đi trú trong đền chùa, được coi là chốn nương thân an toàn nhất. Vì họ tin rằng, dịp này có một thứ “quỷ” tên là Thưang (Thương) hay Voutuan (Vũ tuần) [5] chuyên đi bóp cổ sát hại những người già nua, nam cũng như nữ. Do đó nhiều người giả phải lẩn tránh trong đền, chùa cả ngày đêm không dám bước ra ngoài. Mãi đến lúc giao thừa họ mới dám về nhà, vì nghĩ “quỷ” ác ấy đã đi khỏi. Bởi đấy dân chúng gọi ba ngày cuối năm là ba ngày chết. Cuối năm nhiều người còn dùng vôi vẽ trước cổng ngõ, những hình vuông, tròn, hay tam giác, nhất là hình con mèo, trong số các hình, thì hình tam giác và con mèo làm cho ma quỷ sợ nhất. [6]
Tối ba mươi Tết mọi nhà đều dựng cây Nêu trước cửa. Đó là một “cột” thường làm bằng tre, cao hơn nóc nhà một chút (nên biết, ở thủ đô Thăng Long thế kỷ XVII, chỉ có nhà trệt, kể cả đền đài vua chúa). Gần ngọn cây Nêu người ta cột một cái giỏ hay chiếc hộp thông nhiều lỗ, bên trong đựng vàng mã. Vì theo Alexandre de Rhodes, dân chúng tin rằng, dẫu ông bà cha mẹ đã chết, nhưng các ngài cũng cần tiêu xài, và nhất là để trả những món nợ chưa xong khi còn sống. Theo phong tục Việt Nam thời đó, cứ cuối năm mãn chạp, liệu sao tính sổ sách cho xong: ai còn nợ, cố gắng trả cho sạch; nếu có tiền cho vay cũng phải đòi lại hết. Không ai muốn để giây dưa sang năm mới. Mọi thứ nợ cũ phải thanh toán hoàn toàn, trừ trường hợp bất khả kháng. Bởi lẽ, còn nợ sợ rằng, nếu đến ngày ba mươi Tết mà chưa trả, lỡ ra chính ngày mồng Một chủ nợ đến nhà đòi, thì thật là xui xeo suốt cả năm. [7]
Theo tài liệu viết tay bằng chữ Quốc ngữ của Thầy giảng Bentô Thiện năm 16559, mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, thì dân chúng lại dựng cây Nêu vào sáng ngày mồng Một; điểm này có lẽ ông Thiện ghi không đúng. Còn về ý nghĩa cây Nêu, ông Thiện lại trình bày khác. Theo ông, thì tục truyền rằng Đức Phật và quỷ tranh giành đất nhau. Đức Phật nói cho quỷ hay, hễ ngài trải áo cà sa tới đâu thì đất đó thuộc về ngài, còn lại là phần quỷ. Vậy Đức Phật trải áo ngài ra khắp mặt đất, làm cho quỷ không có đất ở, đành phải xuống biển. Nhưng cứ hết năm cũ, ma quỷ lại tranh đất với Đức Phật. Bởi đấy, mọi người phải dựng cây Nêu từ sáng sớm ngày mồng Một, để quỷ biết rằng đó là đất của Đức Phật đã trải áo cà sa tới; còn ai không dựng cây Nêu là đất của quỷ. [8]
Đến nửa đêm giao thừa, trong vương phủ (phủ chúa Trịnh) ba súng đại bác nổ vang báo hiệu bước sang năm mới. Theo Marini, người Ý, sống ở Đàng Ngoài từ 1647-1658, thì chính lúc giao thừa mọi người đều hội họp trong nhà và bó buộc phải mở cửa hầu đón tiếp tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Giường chiếu cũng đã dọn sạch sẽ, để tổ tiên nghỉ ngơi sau nhiều ngày đàng mệt nhọc mới về tới nhà con cháu. Ngoài ra cũng đặt ngoài hiên nhà một chậu nước sạch, một đôi giép hay guốc, và có khi hai cây mía nữa. Làm thế để hồn tổ tiên trước khi vào nhà cũng rửa chân, đi guốc cho sạch, trước khi lên giường; còn hai cây mía được coi như hai chiếc gậy giúp tổ tiên chống bước vào nhà. Mọi người sau giờ giao thừa, đều tưởng tượng là tổ tiên đã vào nhà cách vô hình [9]. Lúc đó gia trưởng nói mấy lời chúc mừng tổ tiên. Trên bàn thờ tổ, khói hương nghi ngút. Gia trưởng cùng mọi người trong nhà làm lễ cùng vái, tạ ơn tổ tiên, mời tổ tiên cùng chung vui với họ, và xin phù hộ cho con cháu năm mới được bằng an, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Liền đó trong gia đình mừng tuổi nhau: con cái lạy cha mẹ, tôi tớ lạy chủ nhà, rồi cha mẹ ban quà mừng tuổi cho con cháu, tôi tớ.
Trong ba ngày tết, nhất là ngày mùng Một, người ta đi chúc tuổi nhau; vào nhà nào cũng được mời ăn, nếu từ chối là bất lịch sự. Ngày mồng Một Tết, khi vừa ra đường mà trước tiên lại gặp phải người đàn bà, thì họ liền về nhà, chờ hai, ba giờ sau mới dám ra đường; trái lại họ sẽ gặp xui. Nhưng nếu bước chân ra đường, trước tiên lại gặp được một người đàn ông, thì thật hên. [10]
Đi Tết ai, thường cũng tết thêm mấy bánh pháo to nhỏ tuỳ theo cấp bậc, địa vị; vừa xướng Tết xong, người ta liền đốt pháo cho ran nhà, cho tà ma bỏ chạy, để hạnh phúc tràn tới. Người dưới phải đem đồ, hoặc cho người đại diện đi tết người trên. Con cháu phải tết ông bà, cha mẹ, chú bác; trò phải tết thầy… Các quan cấp dưới cũng phải gửi đồ tết quan trên. Vì vậy nhà các đại quan tràn ngập đồ tết. Thường thường các vị đó lại đem tặng bạn bè, hoặc cho quân lính, kẻ hầu hạ, để mọi người được hưởng lộc. Tất cả các quan lại không buộc dâng đồ Tết vua chúa.
Đồ tết của người dưới đối với người trên hầu hết là thực phẩm: gạo, heo, gà, vịt, cau, đường, trái cây, bánh, mứt… Nếu là quân lính, sẽ họp nhau cùng tết viên quan chỉ huy trực tiếp. Họ mang đồ Tết đến nhà quan bằng một nghi thức trang trọng: đi đầu là cai đội (chỉ huy từ 2 đến 6 thuyền, mỗi thuyền từ 30 đến 60 lính) rồi đến lính bưng một quả (hộp) gạo), và khênh con heo mới giết đặt trên bàn, để trước mặt quan. Viên quan ngồi giữa nhà thật oai nghiêm. Quân lính lạy quan sát đất ba lần. Quan nhận đồ Tết, rồi bảo người hầu đem cất đi; sau đó ban quà mừng tuổi cho lính tương xứng với đồ Tết. Còn quà mừng tuổi của vua chúa cho các quan là một bộ phẩm phục, đặt trong quả (hộp) áo sơn son vẽ rồng, cùng một mẫu. Vua chúa sai người bưng quả áo đến nhà viên quan, đi theo có lính che lọng quà mừng tuổi. Việc che lọng trên không có ý tránh mưa nắng, nhưng chỉ là tỏ sự cung kính món quà vua chúa ban.
Ba ngày cuối năm, bốn mươi đại quan thuộc triều đình và vương phủ, đi nhận lời tuyên thệ trung tín của các quan văn võ, và có khi cả gia đình họ nữa. Đó là lời thề trung thành với vua chúa; nếu nhận thấy điều gì có thể nguy hại cho vua chúa hoặc cho quốc gia, họ phải đi tố cáo. Đấy là lễ tuyên thệ tại thủ đô Thăng Long. Còn tại các Xứ, thì quan Trấn thủ, Đốc trấn và Lưu thủ [11] đại diện cho vua chúa, nhận lời thề các quan trực thuộc. Trong dịp này bất kể ai tố cáo ra một cuộc mưu phản, thế nào cũng được thưởng. Phần thưởng không những tuỳ theo tính cách quan trọng vụ âm mưu, mà còn theo chức tước người tố cáo. Nếu kẻ tố cáo là một viên quan, thì họ chỉ được hưởng tuỳ theo ý muốn vua chúa, vì nhiệm vụ của họ là phải giữ trật tự an ninh quốc gia; nếu là người dân thì được thuởng cho một phẩm hàm hoặc được thăng quan chức; hơn nữa khi tố cáo được vụ phản loạn lớn, chúa Trịnh còn ban thêm cho họ tới 500 lượng vàng hoặc 5.000 lượng bạc. Tuy nhiên dân chúng không chuộc tiền thưởng bằng được thăng quan. [12]
Ngày ba mươi Tết, Tây định vương Trịnh Tạc cùng quan quân theo hầu, ra khỏi vương phủ để đi tắm ở sông hoặc tại một chiếc nhà gần đó, hầu thanh tẩy cuộc sống dĩ vãng, đón nhận đời sống mới trong năm tới. [13]
Sáng ngày mồng một Tết, cũng như ngày một và rằm mỗi tháng chúa Trịnh cùng các quan đến chầu vua Lê; dĩ nhiên ngày mồng Một Tết buổi chầu được tổ chức long trọng hơn cả [14]. Nhưng khi Trịnh Tạc thế vị cha lên cầm quyền (1657), ông lấn đoạt quyền hành vua Lê nhiều hơn, ông cũng không đi chầu vua vào các ngày mồng một và rằm mỗi tháng. Hơn nữa, dường như từ năm 1658 trở đi, Trịnh Tạc cũng không đích thân đi tết vua, mà chỉ đón vua đi tế Nam giao. Tuy nhiên, ông cử một quan đại diện đến tết vua và chầu vua mỗi tháng hai lần.
Sau khi tết vua, các quan trở lại tết chúa. Theo Tissanier và Tavernier thì khung cảnh tết chúa long trọng hơn tết vua nhiều. Khi các quan đi chầu hoặc tết vua chúa, phải mặc áo tím, đội mũ lục lăng và phải lạy sát đất 4 lần [15]. Riêng nữ giới chỉ buộc lạy một lần theo kiểu lạy của họ (ngồi mà lạy). Dịp này cũng như các dịp khác ai muốn dộng [16] xin ân huệ gì, thì đội của lễ lên đầu, hoặc bưng cao ngang trán, tiến gần tới chúa để nói. Nếu chúa nhận lời, ngài sẽ bảo người hầu cất của lễ đi; bằng không, thì chúa cũng không nhận của lễ.
Đúng mồng ba Tết chúa Trịnh mới tiếp người ngoại quốc đến dâng tuổi. Dịp tết Canh Tý, Vĩnh thọ năm thứ 3 (1660), phái đoàn Trung Hoa chúc tuổi chúa Trịnh Tạc trước hết theo nghi lễ Trung Hoa, rồi lại lạy chúa theo nghi lễ Việt Nam, phái đoàn Hòa Lan chỉ chào chúc chúa theo nghi thức Hòa Lan…. Còn hai linh mục dòng Tên Onuphre Borgès (Thuỵ Sĩ) và Joseph Tissanier (Pháp) lại lạy hoàn toàn theo kiểu Việt Nam. Tissanier thuật rằng, ngày đó trước vương phủ đông nghẹt người không dễ gì chen chân được. Cũng may hai ông vào được tới một sân lớn để lạy chúa. Các ông cũng mặc áo thụng tím, đội mũ lục lăng, lạy chúa Trịnh Tạc bốn lạy sát đất trước mặt 4.000 người. Khi Tây định vương Trịnh Tạc thấy hai linh mục, ông làm hiệu cho hai vị lạy vương thái hậu (mẹ chúa) đang ngồi cạnh ông. Tức thì Borgès và Tissanier cũng lạy vương thái hậu bốn lần. [17]
Chính ba ngày Tết, nhiều người đều kiêng giữ không quét nhà, có nơi kiêng cả nấu ăn [18]. Tết là dịp nghỉ ngơi, xem ca hát tuồng kịch, đánh bài bạc; cũng vì thế mà nhiều người sạt nghiệp vì Tết.
Nhìn lại một số khía cạnh lịch sử tết nguyên đán thế kỷ XVII, chúng ta thấy ngay được những gì đã biến mất, những gì còn lại ngày nay. Thật ra, tinh thần Tết nguyên đán xưa và nay cũng không khác nhau, nó là dịp long trọng nhất để cấp dưới tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với cấp trên: vua đại diện toàn dân “đi đền giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kỳ”, các quan lại tết vua chúa, con cháu tết cha mẹ ông bà, gia đình xum họp lúc giao thừa đón tổ tiên, trò tết thầy v.v… Mối liên hệ chiều ngang trong dịp này bị xẹp xuống, để làm nổi mối liên hệ chiều dọc trong xã hội gia đình, quốc gia, và cả cái “xã hội” nhân thần, hay nói rộng hơn là sự giao hòa giữa người với Trời Đất, tức tam tài Thiên Địa Nhân.
Về hình thức, Tết vẫn là những ngày lễ nghỉ lâu dài, long trọng và vui vẻ nhất trong năm; vì thời đó, ngoài dịp đầu Xuân, thường thường chỉ có lệ nghỉ ngày một và rằm mỗi tháng chứ không nghỉ ngày Chúa nhật như hiện nay. Chúng tôi xin tạm ngừng ở đây mà không muốn đi sâu vào vấn đề ý nghĩa các phong tục rườm rà Tết nguyên đán, hoặc những nguyên nhân xã hội đã thay đổi nhiều hình thức và cơ cấu Tết nguyên đán ngày nay so với giữa thế kỷ XVII.

Chú thích:
[1] “Ceux qui ne trouvent dans leur maison, ni argent, ni habits, en vont chercher ailleurs par des larcins cachez, ou par la force de leurs armes” (J.Tissanier, Relation du voyage… depuis la France jusqu’au Royaume de Tunquin, Paris 1663, tr.265-266).
[2] J.P de Marini, Relation nouvelle et eurieuse des Royaumes de Tunquin et de Lao, Paris 1666, tr.245-246.
[3] Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257v
[4] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Sài gòn 1972, tr.119-120, 145 – Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257r
[5] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.108-109.
[6] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.94.
[7] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.109-110.
[8] Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146.
[9] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.251-252.
[10] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.95
[11] Cai trị Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, An Quảng do quan Trấn thủ; cai trị Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An do quan Đốc trấn; cai trị Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hưng Hóa do quan Lưu thủ.
[12] J.B.Tavernier, sđd, tr.65.
[13] “… đến ngài ba mươy thì đức chúa đi giội gọy là bỏ mọy sự cũ đi mà chịu mọy sự mớy” (coi Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146) – “Le dernier jour de l’an, le Roy (chúa Trịnh Tạc) sort de son Palais auecque son armée, pour s’aller lauer à la riuiere, ou dans quelque maison voisine” (J.Tissanier sđd, tr.266).
[14] A.F.Cardim, Relation… Paris, 1646 tr.59.
[15] J.Tissanier, sđd, tr.260 – J.B.Tavernier, sđd, tr.64.
[16] Dộng là tiếng để nói với chúa Trịnh; cũng như khi nói với vua thì dùng tiếng tâu (tâu vua, dộng chúa); nói với đại quan dùng tiếng bẩm; với quan nhỏ, tiếng trình; với vai trên, thưa. Như vậy trong thuật ngữ xưng hô đẳng cấp xã hội, tiếng dộng ở cấp thứ hai.
[17] J.Tissanier, sđd, tr.270-272.
[18] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.253


03/02/2016

Sự gian lận của anh TQ

Một bài phân tích tổng hợp khá hay, tôi lượm trên Net. 

TQ đã biến tàu (frigate: khu trục hạm) hải quân thành tàu tuần duyên (Coast Guard) nhưng vẫn trang bị súng là vi phạm tiêu chuẩn quốc tế vì tàu tuần duyên chỉ có súng nước (water canon). Khi tàu TQ xâm phạm hải phận của Senkaku thuộc Nhật. Nhật phản đối, TQ nói đó là chủ quyền của TQ?
Khi 5 nhà xuất bản sách tại Hong Kong lên tiếng chỉ trích Tập Cận Bình qua báo chí, vài hôm sau 5 người này mất tích, có tin là bị bắt về lục địa. Nhà cầm quyền TQ im lặng mặc dù dân HK biểu tình hàng ngày đòi trả tự do cho 5 người này. Sau 3 tuần, TQ mới xác nhận việc giam giữ.
Tòa án Phi đồng ý để Phi ký nhận mở các căn cứ quân sự (9 địa điểm) cho Mỹ đóng quân. Nhật vừa giúp Phi phóng vệ tinh viễn thám, nói là dùng cho nông nghiệp, thời tiết, cấp cứu vì có thể nhận diện các vật rất nhỏ nhưng ai cấm vệ tinh này theo dõi tàu, máy bay của TQ??? TQ phản đối cho rằng Phi làm cho tình trạng căn thẳng thêm (TQ không nhắc đến việc đem máy bay ra đảo).
Thị trường chứng khoán Thượng Hải tuy nhỏ (3,500, đến 21-1-2016 chỉ còn 3000) nhưng là bộ mặt “kinh tế tư bản” của TQ. Dân Tàu vốn có máu cờ bạc nhảy vô mua bán. Nhưng tin tức bị bưng bít nên khi nền kinh tế sản xuất chậm lại, thị trường nhà cửa đứng… nhà nước quay ra kêu gọi dân tiêu xài để đẩy guồng máy kinh tế nhưng dân mất việc làm, về quê thì lấy ai tiêu xài? Chứng khoán tuột dốc, nhà nước TQ bắt đóng cửa. Khi mở cửa, lại tuột dốc tiếp. Nhà nước TQ bỏ 500 tỷ Mỹ kim ra để cứu vãn nhưng sự can thiệp của nhà nước đi ngược lại những lời khuyến cáo của các nhà quan sát quốc tế. IMF nói rằng trong năm qua TQ đã mất 500 tỷ chạy ra khỏi nước (TQ cãi rằng đó là tiền nhà nước đầu tư không phải là thất thoát).
Quốc tế tiên đoán khi nhà nước TQ hết ý kiến làm sao cứu vãn kinh tế là lúc TQ rơi vào hỗn loạn. Trong cuộc họp Thượng đỉnh kinh tế tại Davos (Switzerland), TQ nói rằng suy thoái kinh tế của TQ sẽ gây thiệt hại cho Tây Phương nhiều hơn là TQ. Nhưng theo các nhà quan sát thì chỉ có Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ sẽ bị ảnh hưởng vì viện trợ kinh tế của TQ. Đã có những công ty thép, khai thác mỏ, nguyên liệu tại các nước kể trên bị phá sản vì TQ không còn nhận nguyên liệu và dĩ nhiên không trả tiền (cũng như chuyên mua dưa hấu, TQ đặt mua cho nhiều rồi lúc chót không nhận hàng). Tại Ba Tây (Brazil) cả một thành phố và phi trường bỏ hoang vì TQ xây qua chương trình viện trợ nhưng chẳng có ai đến ở. Rõ ràng TQ làm kinh tế như chuyện trẻ con: “tao sập tiệm kinh tế, nếu mày không cứu tao thì mày thiệt hại chứ tao không sao đâu” (ý nói dân Tàu chết chứ đảng CS vẫn cầm quyền).
Ngày 21-1-2016 Tập viếng thăm Saudi, Egypt ký các hiệp ước kinh tế (nguyên liệu, đường xá) trong khi Nhật nhảy vào giúp Iran khai thác dầu hỏa nhưng lại ký hiệp ước mua dầu của Mỹ và Mỹ đưa 12 chiến đấu cơ F-22 cùng hai hàng không mẫu hạm đến đóng tại Nhật. Nhật cũng đã vừa ra mắt chiến đấu cơ tàng hình (stealth jet fighter) Made in Japan. Ngày 22-1-2016, Tập đến Iran để ký các hiệp ước thương mại, không thấy nói trị giá bao nhiêu. Xem ra TQ sẵn sàng buôn bán với bất kỳ nước nào có nguyên liệu để đổi lấy những món hàng rẻ mạt sản xuất từ Trung Quốc. Sự kiện TQ Tậpn đồng Yuan vào IMF như tiêu chuẩn quốc tế, rồi sau đó liên tục phá giá đồng Yuan. Một nước có nền kinh tế mạnh thì đồng tiền phải mạnh. TQ rõ ràng không thuộc vào trường hợp này.
Sau khi Tập gặp Obama, thì chuyện TQ ăn cắp tin tức (hack) vẫn tiếp tục nhưng 5 nhân vật hacker bị Mỹ nhận diện và cơ quan (kể cả tòa nhà nơi các hacker làm việc) đã bị phế bỏ. Theo các chuyên gia an ninh của Mỹ thì Tập đã dẹp tiệm và mở tiệm mới, kín đáo hơn. TQ đã ăp cắp đủ mọi loại tin tức và thiết lập các công ty, cơ quan giống y như vậy nhưng không người đủ khả năng kinh nghiệm để điều khiển nên hiện nay các tai nạn xảy ra hàng loạt tại các công ty, kỷ nghệ, hãng xưởng của TQ. Dĩ nhiên nhà nước bưng bít và chỉ có dân bị thiệt hại. Ngoài chuyện ngăn chận ô nhiễm là Tập được thế giới đón nhận, ngoài ra những Tập mong đợi: Tập nói TQ cũng bị ăn cắp tin tức nhưng chẳng nói ai, nước nào muốn ăn cắp tin và loại tin gì của TQ bi ăn cắp (nói cho có chứ ai thèm ăn cắp tin tức TQ vì TQ có gì bí mật hay đáng để ăn cắp đâu), việc dụ dỗ các công ty kỹ thuật (Microsoft, Google, Amazone, Apple..) làm ăn với TQ thì zero, chẳng được gì. Chuyện đòi các tư bản Trung Hoa trốn sang Mỹ (vì tham nhũng) thì Mỹ trả lời theo luật Mỹ, những người này không làm gì phạm pháp Mỹ nên không có lý do để bắt (chuyện họ tham nhũng tại Trung Hoa, mà TQ để họ trốn thoát là chuyện nội bộ TQ). Tập về tay không.
Khi TQ cho máy bay hạ cánh xuống đảo đang tranh chấp. CSVN phản đối. TQ nói VN cho phép, CSVN nói không. TQ không đưa ra bằng chứng là VN cho phép: Lờ. Sau đó TQ đưa dàn khoan sát bờ biển VN hơn. CSVN phản đối dàn khoan, quên chuyện đảo. Theo TQ thì các đảo giúp bảo vệ chủ quyền TQ chống xâm lăng? Ai xâm lăng, đe dọa chủ quyền TQ? VN hay Phi? Tại sao TQ sợ các nước nhỏ đe dọa chủ quyền TQ hay chính các hòn đảo đó dùng để xâm lăng chủ quyền các nước nhỏ. Đó là chiêu gian lận của TQ.
Khi TQ ký kết song phương với một số nước về việc dùng tiền Yuan trong việc trao đổi kinh tế. Sau đó TQ hạ giá đồng Yuan, hàng hóa TQ trở nên rẻ hơn và tràn ngập các nước này. Đồng thời TQ ép các ngân hàng ngoại quốc tại Trung Hoa phải nhận đồng Yuan (mất giá, không ai thích dùng hay giữ). Đó là trò gian lận của TQ.
Khi TQ thắng Nhật trong việc đầu tư xây đường xe lửa (high speed rail) tại Nam Dương. Chỉ vì Nhật đòi Nam Dương phải chia xẻ vốn (số tiền tuy nhỏ nhưng đòi hỏi Nam Dương có trách nhiệm) trong khi TQ không đòi hỏi tiền đóng góp của ND. Khác biệt là trong tiến trình xây cất, TQ tiếp tục hạ giá đồng Yuan. Lúc ký, TQ cam kết : thí dụ 50 triệu yuan. Vài năm sau 50 triệu yuan chỉ còn giá trị 4/5, rồi 3/5 thì sẽ không đủ trang trải chi phí và rút cục chương trình sẽ dở dang vì hết tiền. Ai sẽ chịu sự khác biệt giá cả? Lúc đó công ty xây cất TQ sẽ đòi tiền ND, trả bằng…dollars nếu không sẽ bỏ dở. ND không theo dõi vì yên chí ngồi chờ công trình hoàn tất. Bỗng dưng nửa chừng bị bỏ rơi ND biết gì mà tiếp tục quản lý? ND bỏ thì hóa ra chương trình xe lửa thành rác. Nếu có tìm công ty thay thế thì chẳng có ai muốn nhận những gì TQ xây dở dang vì giá trị không bền.
Khi viên chức hàng đầu của bộ Thống Kê TQ (statistics) bị điều tra vì ăn hối lộ thì tự hỏi những con số của bộ đưa ra về kinh tế TQ có xác thực không?
Xem bàn cờ TQ bay ra khắp nơi, xuất quân ì xèo nhưng có thực đem lại kết quả thì phải chờ xem. Nhưng thực tế, ngoài việc xây đường xá (infra structure) và khai thác nguyên liệu (dầu, mỏ) thì TQ chẳng còn gì khác. Hàng đắt giá như điện thoại (thì microprocessor mua của nước ngoài), máy bay (động cơ mua nước ngoài), xe hơi (hãng Ford yểm trợ kỹ thuật) thì chẳng có lời bao nhiêu.
Mối nguy của TQ là kinh tế bấp bênh mà nhà nước lại hung hăng gây hấn. Quân đội TQ tuy có vẻ tân trang nhưng thực tế toàn đồ ăn cắp. Hải Quân TQ muốn ra biển lớn nhưng kẹt Nhật, Phi, VN, Đài Loan… Sau kinh nghiệm Tây Tạng và Hong-kong, các nước lân bang không muốn làm mồi cho TQ nữa. Liệu TQ có thoát thế kẹt về kinh tế-quân sự hay không?


02/02/2016

Niệm Phật

Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
 
Chúng ta niệm Phật là vì trước kia, khi còn đang tu hành ở nhân địa, Ðức Phật A-Di-Ðà đã lập 48 lời đại nguyện. Trong các lời nguyện ấy, Ngài nói rằng: "Chúng sinh nào trong mười phương thế giới mà xưng niệm danh hiệu của tôi thì sẽ được thành Phật. Nếu chúng sinh ấy không được thành Phật, tôi sẽ không giữ ngôi Chính Giác--tôi cũng sẽ không thành Phật!"
 Nương theo những thệ nguyện vĩ đại, bao la của Ðức Phật A-Di-Ðà thì cũng như đáp thuyền sang bờ bên kia vậy. Những thệ nguyện của Ðức Phật A-Di-Ðà chính là "bản hợp đồng" mà Ngài đã ký với mười phương chúng sinh--nếu chúng ta niệm Phật mà không được vãng sinh Cực-Lạc Thế-Giới, thì Ðức Phật A-Di-Ðà sẽ không đủ tư cách thành Phật. Do quan hệ liên đới này, mỗi chúng ta đều nên thực hành Pháp-môn Niệm Phật với niềm tin tưởng thâm sâu và thệ nguyện chân thành, tha thiết.
 Niệm Phật là pháp-môn đơn giản nhất, viên dung nhất và hữu hiệu nhất. Pháp-môn này không chiếm nhiều thời giờ và cũng không làm tốn kém tiền bạc. Dù là người già cả, thanh niên hay tráng niên, người có bệnh hay kẻ khỏe mạnh, ai ai cũng đều có thể niệm Phật được cả.
 Pháp-môn Niệm Phật này là "tam căn phổ bị, lợi độn kiêm thâu" (bao gồm ba căn cơ, thâu nạp cả kẻ lanh lợi lẫn người kém cỏi). "Tam căn" là thượng căn, trung căn và hạ căn--tức là hạng người có trí huệ, hạng người tầm thường và hạng người ngu si. "Lợi độn kiêm thâu" có nghĩa là tất cả chúng sinh--từ kẻ ngu si nhất cho tới kẻ thông minh nhất, bao gồm luôn cả súc sinh--đều có thể niệm Phật để được vãng sinh về Thế-giới Cực-Lạc ở phương Tây; cho nên nói: "Dùng sức ít mà thành công nhiều"--Pháp-môn Niệm Phật rất dể thực hành và cũng rất thuận tiện.
 Có bốn cách niệm Phật là Trì Danh Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm Phật, và Thực Tướng Niệm Phật.

1. Trì Danh Niệm Phật: Cách này là luôn luôn trì niệm sáu chữ hồng danh "Nam mô A-Di-Ðà Phật."
 Có một phương pháp gọi là kim Cang Niệm--tức là niệm bằng tâm, chính mình nghe rõ mồn một tiếng niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật" từ trong tâm, miệng niệm một cách rõ ràng, tai cũng nghe thấy một cách rõ ràng.
Ngoài ra còn có một phương pháp niệm hết sức đơn giản. gọi là "triêu mộ thập niệm" (sáng, tối mười niệm)--sáng sớm thức dậy, sau khi đi vệ sinh, súc miệng rửa mặt rồi, quý vị hãy chắp tay, day mặt về hướng tây và niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật..."Cứ một hơi thở là một lần niệm--được bao nhiêu ln thì cứ niệm bấy nhiêu--và cứ thế mà niệm trong mười hơi thở.
Sáng sớm cũng như chiều tối đều có thể thực hành phép Thập Niệm này.

2. Quán Tượng Niệm Phật. "quán tượng" nghĩa là thỉnh một bức tượng Phật A-Di-Ðà, rồi vừa niệm danh hiệu vừa quán tưởng tướng hão trang nghiêm của Ðức Phật A-Di-Ðà, với tướng "bạch hào" (lông trắng) giữa hai chân mày của Ngài. Thường xuyên quán sát tôn tượng trong lúc  niệm Phật thì sẽ dễ đạt được Niệm Phật Tam muội với trạng thái "nhất tâm bất loạn."
 Ðiểm then chốt của việc niệm Phật là đạt được Niệm Phật Tam-muôi với sự chuyên nhất, tâm không tán loạn. Nếu quý vị đạt được Niệm Phật Tam-muội, thì bấy giờ, "mưa xuyên không lọt, gió thổi không thấu" --quý vị đi, đứng, nằm, ngồi đều ở trong Tam-muội, trong Ðịnh cả. Quý vị đi cũng "Di-Ðà" mà ngồi cũng "Di-Ðà," đi cũng "Phật" mà ngồi cũng "Phật."
Khi ở trong Ðịnh, quý vị sẽ được thấm nhuần "nước" Trí-huệ. Một khi quý vị đạt được Niệm Phật Tam-muội với sự chuyên nhất, không tán loạn, thì chắc chắn quý vị sẽ được vãng sinh Tịnh-độ.

3. Quán Tưởng Niệm Phật. Ðây là phương pháp tưởng thuần túy. không cần tượng Phật. Hãy quán tưởng rằng:
"A-Di-Ðà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân.
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-Tát chúng diệc vô biên.
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh.
Cửu phẩm hàm linh đang bỉ ngạn."
 Hãy quán tưởng rằng tướng "bạch hào" của Ðức Phật A-Di-Ðà tỏa ánh sáng soi tỏ khắp một khu vực rộng lớn bằng năm ngọn núi Tu-Di. Ðôi mắt xanh biếc của Ngài thì trong ngần và lớn bằng bốn biển lớn. Trong vô lượng ánh hào quang của Ðức Phật A-Di-Ðà hiện ra vô số hóa thân của chư Phật và vô biên hóa thân của chư Bồ-Tát. Ðó là quán tưởng Pháp-thân của Ðức Phật A-Di-Ðà. Quán tưởng bài kệ xưng tán Phật này cũng có thể đạt được Niệm Phật Tam-Muội.

4. Thực Tướng Niệm Phật. Thực Tướng Niệm Phật chính là Tham Thiền. Khi tham Thiền, chúng ta tham cứu "Ai niệm Phật?" tức là chúng ta đang tìm kiếm thực-tướng. Thực-tướng chíng là vô-tướng, song le, chẳng có cái gì mà không có "tướng" cả.
 Theo phương pháp Thực Tướng Niệm Phật, khi chúng ta niệm danh hiệu của một đức Phật tức là niệm danh hiệu của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, và khi niệm danh hiệu của tất cả chư phật trong mười phương ba đời tức là chúng ta quy nạp về cõi Tịnh-độ và chúng ta niệm "nam mô A-Di-Ðà Phật" mà vẫn không rời một đức Phật nào cả. Ðó là Thực Tướng Niệm Phật--là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm. Bấy giờ, đó chính là Tham Thiền vậy.

Vì thế, người thật sự hiểu rõ về Niệm Phật sẽ không phản đối Tham Thiền; và người thật sự hiểu rõ về Tham Thiền cũng sẽ không phản đối Niệm Phật, mà còn không phản đối cả Giáo-tông, Mật-tông và Luật-tông nữa!


Một số cách thay đổi số mệnh của một người


Người xưa thường khuyên bảo chúng ta “sửa tật xấu, bỏ tính nóng nảy,” nếu có thể thực hành được điều này thì một thời gian sau số mệnh nhất định sẽ chuyển thành tốt.

Làm việc thiện tạo phúc

Thiện nghiệp nhiều thì phúc báo lớn, phúc báo lớn thì mọi việc sẽ thuận lợi, gặp nhiều may mắn và việc hung sẽ tự đi. Nếu như hành ác nhiều thì phúc báo ít, phúc báo mà không đủ thì mọi việc cũng sẽ không thuận, gặp nhiều tai ương. Số mệnh tốt hay xấu là do hành vi của mình tạo ra, là do tay mình nắm giữ không phải là do người khác “bói” ra, mà là do bản thân hành thiện tạo phúc, tích lũy thiện nghiệp. Đây là dùng phúc chuyển nghiệp, khiến “nghiệp nặng” sẽ thành “nghiệp nhẹ,” “nghiệp nhẹ” hóa thành không, từ đó mà sống một cuộc đời suôn sẻ.

Tâm niệm quyết định số mệnh

Số mệnh của một người tốt hay xấu ngoài việc có quan hệ với phúc báo ra còn có quan hệ với tâm niệm của người đó. Tâm niệm của một người thường thường sẽ trong lúc vô tình mà quyết định số mệnh cả đời của mình. Hạnh phúc vui vẻ hay không, không phải nằm ở việc chúng ta có bao nhiêu hay có cái gì, mà phụ thuộc vào nội tâm chúng ta nghĩ cái gì, tức là “tâm niệm” và “tâm thái.” Tướng do tâm sinh là nói ý như vậy, mọi việc đều do tâm mình diễn hóa ra.
Ví dụ, một người hay phàn nàn là vì thường ở trong cảnh tâm thái oán trách, than phiền, dần dà “phàn nàn” sẽ trở thành ngôn ngữ thường dùng trong đời sống hàng ngày của người này. Thuận theo năm tháng tích lũy, nó sẽ trở thành “sở trường” của người này, mà “sở trường” này trong lúc vô hình sẽ khiến anh ta luôn thốt lên những tiếng than trách buồn bã, oán trời trách đất và sẽ khiến anh ta gặp nhiều hơn nữa những sự tình không may mắn, tinh thần sa sút.
Một người thường xuyên chê trách người khác, bởi vì tâm thái của người này luôn tồn tại sẵn sự chê trách nên lâu ngày sẽ trở thành thói quen “nhìn ai cũng không vừa mắt.” Từ đó hình thành nên cách nói tiêu cực, lời nào cũng nói đến mặt trái, làm việc thường hay bắt bẻ, tạo thành cá tính hay nhìn khuyết điểm của người khác. Như thế sẽ khiến người này sống một cuộc đời buồn khổ, không hiểu được bao dung và thiện giải.
Hay một người hay nói lời thị phi, lâu ngày “nói lời thị phi” sẽ trở thành sở trường của người này. Một thời gian sau, “bàn lộng thị phi” sẽ vô tình mà trở thành một thói quen trong cuộc sống sinh hoạt của người này. Người này luôn đi tìm kiếm  những “tin vỉa hè” và “chuyện giật gân” để đưa đẩy chuyện. Như thế, cuộc sống của người này sẽ không nhẹ nhàng và bình an. Không bình an cũng là một nỗi khổ.

Cải biến tâm trạng

Cá tính, thói quen, tâm thái của một người đều là có mối quan hệ mật thiết với “tâm niệm” của người đó. “Tâm niệm” nếu như không cải sửa thì cho dù người đó có cải sửa phong thủy, nghề nghiệp, tên họ đi nữa cũng sẽ không thay đổi vận mệnh được. Điều này cũng có nghĩa giống như cách nói: “Hoàn cảnh có thể không thay đổi được nhưng tâm trạng thì có thể thay đổi được.”
Cũng đồng nghĩa với câu: “Nhân sinh không thể cải sửa nhưng nhân sinh quan là có thể cải sửa được.” Vì vậy, một quan niệm có thể cải biến một cách nghĩ, cách nghĩ có thể cải biến thì tâm thái sẽ cải biến, tâm thái cải biến thì thái độ tất sẽ cải biến, thái độ cải biến thì thói quen sẽ cải biến, thói quen cải biến sẽ dẫn đến biểu hiện (cách căn ở, ứng xử…) cũng cải biến. Một khi những biểu hiện của người đó được cải biến thì cuộc đời sẽ cải biến và cuộc đời cải biến thì chính là số mệnh đã được cải biến.
Cho nên nói, trong cuộc đời mỗi người, “tâm niệm” sẽ thời thời khắc khắc ảnh hưởng đến chúng ta. Tâm niệm tốt sẽ giống như một hạt giống tốt, sẽ nở ra một bông hoa xinh đẹp hương thơm ngào ngạt khiến chúng ta có cuộc đời hạnh phúc. Tâm niệm không tốt sẽ giống như một hạt giống xấu làm nở ra một trái cây “tai ương” khiến bạn có  một cuộc sống buồn thảm và chua xót. Kỳ thực, “quý nhân” có thể giúp chúng ta thay đổi số phận không phải đang ở một nơi xa mà thực ra “chính niệm” chính là “quý nhân” lớn nhất trong cuộc đời chúng ta. (Chính niệm được hiểu là những suy nghĩ đúng đắn, ngay chính).