27/09/2016

Hoài cổ về Hà Nội qua tranh 3D


Kiến trúc sư Đinh Việt Phương cùng hai người sáng lập ra nhóm 3D Hà Nội từ năm 2004 với mục đích dùng công nghệ 3D phục dựng lại những khung cảnh của phố cổ Hà Nội nhằm quảng bá các giá trị về lịch sử, văn hóa. Nhóm tiếp tục được mở rộng với hàng loạt thành viên mới. Năm 2007, nhóm cho ra triển lãm “Hà Nội những góc nhìn thời gian” và được trao giải thưởng Bùi Xuân Phái cho ý tưởng xuất sắc...
Dưới đây là một số hình ảnh từ “Hà Nội những góc nhìn thời gian”
Chợ Đồng Xuân nằm trong khu phố cổ, phía tây là phố Đồng Xuân, phía bắc là phố Hàng Khoai, phía nam là phố Cầu Đông, phía đông là ngõ chợ Đồng Xuân.
Cổng chợ nhìn sang phía tây, phía trước là một khoảng trống nhỏ. Phía Bắc có quán Huyền Thiên- sau đổi thành chùa Huyền Thiên. Ngay sát sau chợ là chợ Bắc Qua. Vì vậy nhiều người gọi cả hai là chợ Đồng Xuân - Bắc Qua.
Ở góc tây bắc của chợ có đài Cảm tử, kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến.
Trong thời gian xây dựng lại Thành Thăng Long vào mùa hạ năm Giáp Tí, 1804, Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành dưới triều đại Nguyễn đã cho đặt ngôi chợ lớn ở cửa chính đông, hay còn gọi là chợ Đồng Xuân ngày nay.
Chợ Đồng Xuân tuy nằm trong khu phố cổ nhưng có tuổi đời trẻ hơn rất nhiều so với các phố xung quanh. Trước kia đây là khu đất trống thuộc phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương nằm trước quán Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên). Người dân họp chợ trên hai khu đất ở cạnh chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường và cạnh đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm vì hai khu đất đó gần bến sông, tiện cho thuyền đi lại.
Năm 1889, khi những dấu tích cuối của sông Tô Lịch và hồ Thái Cực bị lấp hoàn toàn, người Pháp quy hoạch lại đã giải tỏa hai chợ trên và dồn tất cả các hàng quán vào khu đất trống của phường Đồng Xuân, tạo thành chợ Đồng Xuân. Trong năm đầu tiên chợ họp ngoài trời, hoặc có che mái lá giống như hai chợ cũ.
Năm 1890 chính quyền Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân, tạo thành năm vòm cửa và năm nhà cầu dài 52m, cao 19m. Mặt tiền theo kiến trúc Pháp, gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn.
Tại đây đã diễn ra các trận chiến ác liệt giữa Vệ quốc quân chống lại lính Lê dương của Pháp, rất nhiều Vệ quốc quân đã hi sinh tại đây trước khi rút khỏi Hà Nội.
Sau ngày giải phóng thủ đô, chợ Đồng Xuân là chợ lớn nhất Hà Nội.
Vào khoảng năm 1990, chợ được xây dựng lại, phá bỏ hai dãy hai bên, ba dãy giữa xây lên ba tầng. Hai tấm cửa hai bên cũng bị dỡ, nhưng vẫn còn giữ hai cột ngoài cùng.
Ngày 14, tháng Bẩy, năm 1994, chợ Đồng Xuân đã bị hỏa hoạn, lửa thiêu trụi gần như toàn bộ các gian hàng trong chợ. Đây là vụ cháy chợ lớn nhất tại Hà Nội cho đến nay.
*****
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây dựng (1899-1902), đặt tên là cầu Doumer, theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Dân gian còn gọi là cầu sông Cái hay cầu Bồ Đề (vì nó được bắt qua bến Bồ Đề thuộc huyện Gia Lâm). Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ 1899-1902 - Daydé & Pillé- Paris.
Cây cầu được thiết kế với kiểu dáng độc đáo do hãng Eiffel thiết kế, giống với kiểu dáng của cầu Tolbiac ở quận 13, Pari trên tuyến đường sắt Paris- Orléans, Pháp. Nha công chính Đông Dương xây dựng phần cầu dẫn. Ngày 12.9.1898 diễn ra lễ khởi công xây dựng và sau hơn 3 năm thì hoàn thành, dù kế hoạch dự trù phải mất 5 năm. Tổng số tiền thực chi lên tới 6.200.000 franc Pháp, không vượt quá dự trù là bao.
Cầu dài 1.682m qua sông và 896m cầu dẫn, gồm 19 nhịp dầm thép đặt trên 20 trụ cao hơn 40m (kể cả móng) và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe là 2,6m và luồng đi bộ là 0,4m. Luồng giao thông của cầu theo hướng đi xuôi ở phía trái cầu chứ không phải ở bên phải như các cầu thông thường khác.
*****
Ga Hàng Cỏ ngày mới xây dựng
Ga Hàng Cỏ (nay là ga Hà Nội) năm 1902 đưa vào hoạt động, được coi là đầu mối giao thông quan trọng với 5 nhánh đường sắt đến các vùng trong nước. Khu ga kéo dài gần hết đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn), từ đầu phố Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) đến Khâm Thiên.
Thời Pháp phố Lê Duẩn gọi là Hàng Lọng, sau năm 1954 đổi thành đường Nam Bộ, sau này mang tên như bây giờ. Khi mới xây khu vực ga, Hàng Lọng qua các thôn Vĩnh Xương, Nam Môn, Hoa Ngư và Tứ Mỹ, tiếp nối các đường từ thành Hà Nội ra Cửa Nam - Cửa đông nam gọi là Đại Hưng. Qua Hàng Cỏ có lối rẽ qua Làng Lương Sử để đến Văn Miếu, mà đi thẳng thì ra hồ Bảy Mẫu xuống Lý Nhân, Nam Định để vào đàng trong, tức Quan Lộ. Sau năm 1946, người Pháp đổi đây thành đường Đờ Lát, nhưng người dân vẫn quen gọi Hàng Lọng.
Tàu điện Hà Nội
Các tuyến tàu điện ở Hà Nội có khoảng thời gian tồn tại gần một thế kỷ, từ khi chạy thử nghiệm vào tháng 9/1900 cho đến khi ngừng hoạt động vào đầu thập niên 1990.
Đóng vai trò quan trọng trong đời sống thế kỷ trước, hình ảnh chiếc tàu điện đã đi vào tâm thức của nhiều người dân Hà Nội như biểu tượng rất đặc trưng của cả một thời kỳ.
Phố cổ ngày Tết
*****
Nhà hát lớn Hà Nội là một công trình lớn do người Pháp xây dựng trong những năm đầu thế kỷ XX. Nó được bắt đầu khởi công xây dựng vào ngày 7 tháng 6 năm 1901 và hoàn thành vào năm 1911.
Xưa kia là một vùng đầm lầy thuộc đất của hai làng Thạch Tần và Tây Luông thuộc Tổng Phúc Lân Huyện Thọ Xương. Vào năm 1899 hội đồng thành phố nhóm họp dưới quyền chủ tọa của Richard – là Công sứ Hà Nội đề nghị lên tòan quyền Fourer cho xây Nhà Hát.
Tác giả đồ án thiết kế là hai kiến trúc sư Harlay và Broyer. Người phụ trách thi công là hai ông Travary và Savelon. Công trình chiếm diện tích 2600m2, chiều dài 87m, chiều rộng 30m, điểm cao nhất so với mặt đường là 34m. Những người thiết kế công trình đã tìm tòi tham khảo kiểu kiến trúc cổ Hy Lạp Coranhtơ kết hợp với kiểu lâu đài Tuylory và nhà hát Opera Paris để tạo nên một khối kiến trúc riêng biệt.
Bên trong nhà hát trước đây có sân khấu rộng và một phòng khán giả chính có diện tích 24x24m, ngày đó chứa được 870 chỗ ngồi, ghế ngồi bọc da, một số chỗ bọc bằng nhung. Tầng giữa có nhiều phòng nhỏ dành cho khán giả có vé riêng. Cầu thang giữa lên tầng hai là một sảnh chính rộng. Cầu thang phụ và hành lang ở hai bên. Phía sau nhà hát là một phòng quản trị, có 18 buồng cho diễn viên hoá trang, 2 phòng tập hát, 1 thư viện và phòng họp. Phía mặt trước trên tầng II là phòng gương rất lộng lẫy. Kinh phí xây dựng Nhà hát được duyệt vào lúc đó là 2.000.000 Frăng Pháp.
Nhà hát lúc đó được sử dụng là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cố điển như Opera, nhạc thính phòng, kịch nói... phục vụ cho tầng lớp quan lại thượng lưu người Pháp và một số ít người Việt giàu có. Lịch biểu diễn thời đó một tuần có 4 lần vào thứ ba, thứ năm, thứ bảy và chủ nhật.
Nhà hát Lớn hà Nội có một giá trị rất lớn về mặt lịc sử, kiến trúc và giá trị dử dụng. Nó là bằng chứng lịch sử của sự phát triển văn hóa và xã hội của Hà Nội và Việt nam thời kỳ Pháp thuộc, là một di tích của một giai đoạn phát triển kiến trúc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhà hát Lớn Hà Nội và Quảng trường Nhà hát là nơi diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại gắn liền với cuộc Cách mạng tháng 8 và những năm đầu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
*****
Rạp Công Nhân (Rạp chớp bóng PALACE)
Chớp bóng đến nước ta vào thời điểm thế chiến I đang diến ra ở châu Âu, nhằm tuyên truyền cho nước Pháp ở thuộc địa. Ban đầu các buổi chiếu ở ngoài trời. Buổi chiếu trong nhà đầu tiên ở Grand Café của khách sạn Metropole, sau chuyển sang bên đường, nay là phố Nguyễn Xí, ở đó có cái cổng nhỏ đi vào rạp lấy tên là Palace.
Sau đó xây dựng khá lớn và có mặt tiền tuyệt đẹp tựa cái vỏ sò cách điệu ngay trên đường Paul Bert sầm uất. Thời tạm chiếm Hà Nội (1947-1954), rạp đổi tên Eden (Thiên đường), sau này là rạp Công Nhân.
*****
Nhà hàng Godard
Nhà hàng Godard do Liên hiệp Thương mại Đông Dương và châu Phi (viết tắt là LUCIA) xây dựng vào những năm đầu thế kỷ XX. Năm 1958, 49 quầy hàng trong Godard được dọn hết, dù trước đó, đầu thập niên 50 họ mua lại của chủ Godard. Tháng 9-1959, Godard được đổi tên thành Bách hóa Tổng hợp. Cũng có người gọi là Bách hóa Tràng Tiền vì nó nằm trên phố Tràng Tiền.
Godard là tòa nhà hai tầng, tầng dưới cao 6m. Tầng trên 5m. Diện tích mặt bằng xấp xỉ 4.500 mét vuông. Sàn tầng một lát đá thấm thủy khổ lớn để hạn chế nước vào ngày nồm. Trần trát vôi rơm, sàn tầng hai bằng gỗ lim. Mái bằng khung thép uốn thành vòm, dưới vòm cũng trát vôi rơm, trên lợp bằng miếng tôn nhỏ hình chữ nhật. Xung quanh là cửa kính để lấy ánh sáng. Từ tầng một lên tầng hai có bốn cầu thang bậc gỗ, lan can bằng thép có hoa văn và trụ cầu thang bằng đồng đúc.
Godard có ba mặt phố, phía bắc là Tràng Tiền, phía nam là Hai Bà Trưng và phía tây là Hàng Bài. Ba cửa chính ra vào Bách hóa có dòng chữ tiếng Pháp “Không dựng xe ở đây” bằng đá trắng gắn chìm trên vỉa hè. Vỉa hè rất cao so với mặt đường để phòng ôtô có lao lên sẽ bị chặn lại, đảm bảo an toàn tính mạng cho người đi lại. Vỉa hè bo bằng đá đen chôn sâu dưới đất hơn một mét để nếu ôtô đâm vào sẽ không đổ gẫy. Vì sao Godard không xây cao? Giản đơn vì chính quyền thời đó không cho phép các công trình quanh hồ Gươm xây quá cao, họ sợ hồ Gươm sẽ lọt thỏm trong các khối nhà như thế làm mất vẻ đẹp thơ mộng của khu vực này. Nhưng tại sao dân số Hà Nội đầu thế kỷ XX chỉ hơn 10 vạn người ta lại xây Godard lớn như vậy?
Việc xây dựng nhà Godard là bước ngoặt cho thương mại Hà Nội vốn trước đó chỉ có các chợ truyền thống. Nếu trước kia chợ họp theo phiên và chỉ bán nông sản, đồ thủ công, lương thực... sản xuất tại Hà Nội hay các vùng lân cận hoặc bán một số mặt hàng từ các tỉnh phía nam Trung Quốc mang qua thì Godard bán đủ thứ nhập từ Pháp, Ấn Độ, Hồng Kông hay các nước thuộc địa của Pháp.
Chùa Một Cột (Chùa Diên Hựu)
Chùa thường được gọi là chùa Một Cột. Chùa được Vua Lý Thái Tông (1028-1054) cho xây dựng vào năm 1049. Ngôi chùa được xây lại vào thời Trần (năm 1249) và đã trùng tu nhiều lần. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam.
Khuê Văn Các và mùa thu giả tưởng
Khuê văn các có nghĩa "gác vẻ đẹp của sao Khuê" là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8m. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao.
Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ reast-language: EN-US; mso-fareast-theme-font: minor-latin; mso-hansi-font-family: Arial; mso-th>奎文閣 (Khuê văn các). Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng.
Tháp Hòa Phong
Tháp Hòa Phong nằm ở bờ Đông Nam Hồ Hoàn Kiếm, đường Đinh Tiên Hoàng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. là một di tích cổ còn sót lại của Chùa Báo Ân, một ngôi chùa lớn từng tồn tại ở Hà Nội
Năm 1888, Pháp đã phá hủy Chùa Báo Ân để xây bưu điện Hà Nội. Chỉ còn Tháp Hòa Phong phía sau chùa còn giữ lại, là dấu tích duy nhất của Chùa Báo Ân còn sót lại tới nay.
Tháp cao 3 tầng, tầng 1 có 4 cửa nên còn gọi là tứ môn tháp, một kiến trúc thường thấy trong các công trình của Phật giáo. Tầng một có 4 cửa vòm, tầng 2 có hình bát quái, dưới bát quái trên 4 vòm là tên từng cửa: Báo Ân môn, Báo Nghĩa môn, Báo Đức môn và Báo Phúc môn. Tầng 3, trên mặt đông- tây có ghi tên tháp là Hòa Phong nhưng 2 mặt bắc- nam lại ghi Báo Thiên tháp.
Phở gánh, một món ăn nổi tiếng của người Hà Nội.
Cửa Đại Hưng - cửa Nam thời Lý Trần.Ngay khi vừa định đô, vua Lý đã cho đắp thành Thăng Long. Thành có hình vuông theo bốn phương đông, tây, bắc, nam. Cửa phía Nam được mang tên Đại Hưng (大興). Trong bốn cửa Hoàng thành, quan trọng nhất là cửa Đại Hưng… Các quan từ ngoài vào Hoàng thành chầu vua đều do cửa này. Trước cửa Đại Hưng có dựng đình Quảng Văn, các vua nhà Lý đôi khi làm lễ nghinh xuân ở đây. Cửa Đại Hưng còn là nơi các quan làm lễ tuyên thệ với nhà vua…
Thời nhà Lê, cửa Đại Hưng được dùng làm lối ra vào chính của vua chúa, quan lại, các vị tân khoa, nho sĩ, sứ giả và tất cả những ai có việc phải đến Hoàng thành.
Hiện nay còn những tên phố để lại dấu tích xưa: Đình Ngang, mơi dừng lại để xét giấy tờ, thẻ bài trước khi vào Hoàng Thành; Cấm Chỉ: dừng nơi khu cấm và một góc vườn hoa thời Pháp dựng tượng "Bà Đầm Xòe".
Vào năm 1782, Hải Thượng Lãn Ông nhận xét: Người qua kẻ lại như mắc cửi, xe ngựa ồn ào.
“Áo mũ hào hoa phường phố đẹp
Đình đài lầu quán nối trời xa…”
Phố Hàng Tre
Phố Hàng Tre cuối thế kỷ 19 có tên là phố Hàng Cau vì nơi đây tập trung buôn bán cau tươi, cau khô chở bằng thuyền từ các nơi về, sau có những công trình xây dựng lớn bên Bờ Sông, những người buôn bán cau chuyển hoạt động về Hàng Bè.
Phố Hàng Tre nguyên đất bờ sông khi chưa có con đê ngoài, đó là chỗ chứa gỗ cây và nơi dựng xưởng xẻ gỗ, nơi nhốt bò và ngựa kéo xe gỗ. Đến đầu thế kỷ 20, thành phố mở mang và xây dựng thêm thì tre gỗ cũng không còn bán ở đây nữa. Hàng Tre không phải là một phố buôn bán, không có cửa hàng, nhà xây chủ yếu để ở nên không có nhà dãy nhiều gian cốt để cho thuê.
Cảnh chơi đu ngày tết, trước Văn Miếu
Đền Quán Thánh
Đền Quán Thánh, tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Bốn ngôi đền đó là: Đền Bạch Mã (trấn giữ phía Đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía Tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Quán Thánh (trấn giữ phía Bắc kinh thành). Đền Quán Thánh nằm bên cạnh Hồ Tây, cùng với chùa Kim Liên và chùa Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và trong văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của Hà Nội.
Cầu Thê Húc
Cầu Thê Húc là cây cầu ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.
Nối từ Bờ Hồ ra hòn đảo nhỏ nơi có đền Ngọc Sơn, cây cầu này màu đỏ son, làm bằng gỗ, có nhiều trụ liên tiếp. Cầu được Thần Siêu Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm" (棲旭).

25/09/2016

Uy quyền không đồng nghĩa là Vĩ nhân và càng không phải là Thánh nhân

st trên Net.



Thật là ngớ ngẩn. Tôi có là trí thức ngang hàng với Mises không?
Tất nhiên là không. Tôi sẽ là một thằng ngốc nếu nghĩ như thế.
Tuy nhiên, sự kém cỏi về mặt trí tuệ của tôi không có nghĩa là khi tôi không đồng ý với Misies về một vấn đề cụ thể nào đó, thì bao giờ tôi cũng sai.
Tôi có là người trí thức ngang hàng với Einstein không?
Câu hỏi thật là lố bịch.
Tuy nhiên, về những vấn đề cụ thể nhất định, khi Einstein và tôi có ý kiến khác nhau, ông rõ ràng là người đã sai. Tôi có thể giải thích, tôi tin khá chắc chắn như thế, vì sao chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội không thể nào đạt được những mục tiêu mà những người xã hội chủ nghĩa đầy thiện ý như Einstein tin là sẽ đạt được. Đơn giản là Einstein không biết nhiều về kinh tế học, dù ông có là nhà vật lý học vĩ đại đến mức nào.
Bất cứ người nào cũng có thể có sự khác biệt tương tự như thế. Chắc chắn là có hàng triệu người - có thể là hàng trăm triệu – nói chung, là giỏi hơn tôi về mặt trí tuệ. Nhưng, như thế không có nghĩa là khi tôi có ý kiến khác với một trong những người đó, thì tôi là người sai.
Viện dẫn uy quyền là ngụy biện, chắc chắn là thế, nhưng khi người ta xem xét một vấn đề mà người có uy quyền – do những đóng góp về trí tuệ của họ - đã đặt niềm của của mình vào, thì viện dẫn là hầu như không thể tránh khỏi trong một số cuộc thảo luận – những người nghiệp dư ít có cơ hội trở lại bàn vẽ, trên đó, những người có uy tín đã trình bày luận cứ và trưng ra bằng chứng.
Nhưng khi những người có uy quyền nói về những vấn đề nằm ngoài kiến thức chuyên môn thật sự của họ, thì họ cũng thường nói ngu như ai và người nghe phải luôn luôn nhớ trong đầu như thế.
Tôi nhớ rằng sau khi George Stigler (1911-1991, Nobel kinh tế năm 1982 – ND) được tuyên bố là sẽ được trao giải Nobel về kinh tế, rất nhiều nhà báo gọi điện tới. Họ hỏi ông về những vấn đề như điều gì sẽ xảy ra với chu kỳ kinh doanh, thị trường chứng khoán và lãi suất.
George đã làm các phóng viên bối rối bằng cách trả lời rằng ông không biết gì. Mặc dù ông là một nhà kinh tế học xuất sắc, nhưng ông không làm trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô hay tài chính, và do đó ông không có kiến thức chuyên môn để trả lời những câu hỏi như vậy (thực ra, trong trường hợp này, ngay cả các nhà kinh tế làm việc trong những lĩnh vực đó cũng khó có thể đưa ra câu trả lời có giá trị, vì như tất cả những người khác, họ không biết tương lai).
Người thông thái (dịch thoát ý từ Renaissance men – tức những người thông thái như những người thời kì Phục hưng – ND) bao giờ cũng hiếm, ngay cả trong thời Phục hưng. Vì vậy, khi một học giả nào đó trình bày quan điểm về nhiều chủ đề khác nhau thì khả năng sai trong một hay nhiều phát biểu là khá lớn. Các học giả đi ra ngoài lĩnh vực của mình có thể bị một người nhẹ đồng cân hơn hẳn, nhưng chuyên tâm vào lĩnh vực đang bàn, sửa gáy là chuyện bình thường.
Không có Thánh nhân khi cậy nhờ đến Uy quyền
Hơn nữa, ai cũng có thể sai, dù nhà tư tưởng nào đó có thông thái đến đâu thì cũng thế. Người bạn cũ của tôi, Murray Rothbard, thường tuyên bố rằng trong lĩnh vực kinh tế, các nhà tư tưởng được đánh giá cao nhất, trên thực tế, lại có nhiều khả năng sai ngay trong lĩnh vực mà họ được coi là chuyên gia có uy tín nhất (Milton Friedman, trong lý thuyết tiền tệ, là một trong những ví dụ mà ông hay nhắc tới).
Mặc dù tôi có khuynh hướng cho rằng, trong trường hợp này, Murray đã quá cường điệu, nhưng có một phần sự thật trong những lời nói của ông. Ai cũng có thể mắc sai lầm, và những nhà tư tưởng lớn cũng không thoát được khiếm khuyết này, ngay cả trong những lĩnh vực chuyên môn của họ.
Khi thấy các đồ đệ của một tư tưởng gia nào đó coi mỗi lời nói của ông ta như Chân lý được Hiển lộ, chứ không phải là kết luận sai lầm, thì chúng ta biết rằng họ đã biến tư tưởng gia đó từ một học giả hay người trí thức chân chính thành biểu tượng của giáo phái.
Đáng tiếc là một số bậc thầy đáng kính nhất của tôi, những người như Mises, đã phải chịu số phận như thế, như Rothbard và ở một mức độ thấp hơn, là F. A. Hayek. Quá trình phát triển như thế một phần là do ý thức hệ hay ngụ ý từ những trước tác của các tác giả và một phần từ ý nghĩ cho rằng những tổ chức có thẩm quyền về trí tuệ đã không tôn trọng họ như họ đáng được hưởng và do đó đã coi họ là người anh hùng, cả với tư cách cá nhân lẫn trí tuệ, đến mức không thể sai lầm.
Tôi tin rằng cả Mises lẫn Hayek đều không đồng ý để người ta biến mình thành biểu tượng tôn giáo. Học hỏi và tôn trọng những nhà tư tưởng vĩ đại là việc tốt, nhưng dù họ có vĩ đại đến mức nào thì tự nhiên cũng không ban cho họ khả năng không thể sai lầm, vì thực tế là, tự nhiên không ban cho ai khả năng như thế.

Vì vậy, đôi khi, tư tưởng của ngay cả một nhà tư tưởng lớn cũng có thể bị một nhà tư tưởng kém hơn hẳn về mọi phương diện chứng minh là sai.

Cấp cứu xử lý các tai nạn dễ gặp

Nguồn VN Express
Cẩm nang xử trí cấp cứu các tai nạn thường gặp

23/09/2016

Độ dài tiêu cự trong nhiếp ảnh

Tiêu cự là thông số cho biết góc nhìn của máy ảnh, số lượng nội dung thu vào hình ảnh được quyết định bởi độ dài tiêu cự, do đó, thông số này càng nhỏ, nội dung lọt vào ống kính càng nhiều và ngược lại.
  •  Độ dài tiêu cự trong nhiếp ảnh

21/09/2016

Làm lò nung




Làm dao 1.







Người Nhật làm dao - kiếm








Sơ lược về rèn


   Rèn là một phương pháp gia công được dùng từ lâu. Rèn là nung nóng phôi thép tới nhiệt độ trên 900oC để cho kim loại chuyển sang trạng thái dẻo rồi đặt lên đe và dùng búa đập để có được hình dáng cần thiết của sản phẩm.



Dụng cụ nghề rèn



a. Chồn: là nguyên công rèn làm cho tiết diện của phôi tăng lên, do chiều cao giảm xuống. Có ba kiểu chồn: chồn toàn phần, chồn đầu và chồn giữa. Khi chồn đầu hay chồn giữa, chỉ cần nung nóng một phần của phôi (ở đầu hay giữa), phần đó sau khi chồn sẽ có tiết diện lớn hơn.
b. Vuốt: là một nguyên công rèn để kéo dài phôi và làm cho diện tích mặt cắt ngang của nó nhỏ xuống. Những kiểu vuốt khác nhau là:
+ Vuốt phẳng (dàn phẳng): là đập dẹp phôi bằng một dụng cụ dát phẳng làm cho chiều rộng của phôi lớn lên và chiều cao giảm xuống.
+ Vuốt rộng lỗ: là nguyên công dùng trục gá để giảm chiều dày và tăng đường kính của ống.
+ Vuốt dài ống: là nguyên công dùng trục tâm làm tăng chiều dài của ống và làm giảm đường kính ngoài cùng chiều dày của ống.
c. Đột: là một nguyên công rèn làm cho phôi có lỗ hoặc có chỗ lõm sâu xuống. Dụng cụ để tạo lỗ gọi là mũi đột.
d. Chặt: là một nguyên công của rèn dùng để cắt phôi liệu thành từng phần. Có thể tiến hành ở trạng thái nguội hoặc trạng thái nóng.
e. Uốn: là một nguyên công rèn ở trạng thái nguội hay nóng để đổi hướng thớ của phôi.

Tôi thép
- Tôi thép là phương pháp nung nóng thép lên cao quá nhiệt độ tới hạn để làm xuất hiện tổ chức Austenit giữ nhiệt rồi làm nguội nhanh thích hợp để austenit chuyển thành mactenxit hay các tổ chức không ổn định khác với độ cứng cao.
- Mục đích của tôi thép là: Nâng cao độ cứng và tính chống mài mòn của thép.
- Có hai hình thức tôi là: tôi xuyên tâm và tôi mặt ngoài.
+ Tôi xuyên tâm
Chọn nhiệt độ để tôi thép theo thành phần cacbon trên giản đồ:
Thép trước cùng tích: 
Thép sau cùng tích:   
Giữ nhiệt và làm nguội nhanh hợp lý (làm nguội trong nhiều môi trường khác nhau). Chi tiết cứng cả trong lẫn ngoài. Để đánh giá hiệu quả của các phương pháp tôi người ta đưa vào chỉ tiêu độ thấm tôi.
+ Tôi mặt ngoài
Tôi mặt ngoài thực hiện bằng cách nung nhanh và làm nguội lớp mặt ngoài của chi tiết. Bề mặt chi tiết sau khi tôi có độ cứng cao còn phần lõi vẫn mềm và dẻo. Tôi mặt ngoài thường dùng để tôi bánh răng, các trục truyền động xoắn. Các phương pháp tôi mặt ngoài thường được sử dụng:
·   Tôi cao tần: là sử dụng dòng điện xoay chiều có tần số cao để nung nhanh bề mặt ngoài của chi tiết.
·     Tôi bằng ngọn lửa ôxy - axêtylen:
Nung nhanh chi tiết bằng ngọn lửa ôxy - axêtylen để bề mặt đạt đến nhiệt độ tới hạn A3 và làm nguội nhanh trong nước hay dung dịch hóa chất.
 Ram thép
Ram là phương pháp nhiệt luyện nung nóng thép đã tôi dưới các nhiệt độ nhiệt độ tới hạn (AC1), giữ nhiệt độ ở một thời gian và làm nguội. Nhằm để mactenxit và austenit dư phân hóa thành các tổ chức thách hợp phù hợp với điều kiện làm việc quy định.
     Mục đích của ram thép là làm giảm hoặc làm mất các ứng suất dư sau khi tôi đến mức cần thiết để đáp ứng điều kiện làm việc lâu dài của sản phẩm cơ khí mà vẫn duy trì cơ tính sau khi tôi.
- Có 3 cách ram:
+ Ram thấp là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 150 - 2500C tổ chức đạt được là mactenxit ram.
+ Ram trung bình là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 300 - 4500C tổ chức đạt được là troxit ram.
+ Ram cao là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 500 - 6500C, tổ chức đạt được là xoocbit ram.

19/09/2016

Trung thu xưa


Chùm ảnh này nằm trong một bộ sưu tập do Viện Viễn Đông Bác cổ của Pháp (École Francaise d’ Extrême - Orient) hiện lưu tại Thư viên Khoa học Xã hội. Đó là những tấm ảnh chụp về những sinh hoạt trong ngày Tết Trung thu cách đây chừng 70, 80 năm, những hình ảnh ở đầu thế kỷ XX khi đời sống đô thị đã hình thành tạo ra những nét sinh hoạt thời cận đại.
Tết Trung Thu đối với trẻ nhỏ trước hết là những bánh trái đặc trưng bởi hai món chính là bành dẻo và bánh nướng mà tập trung nhất là trên các cửa hàng ở phố Hàng Đường (của người Việt) và Hàng Buồm (của Hoa kiều). Điều hấp dẫn đối với lũ trẻ là đứng nhìn những người thợ đóng bánh ngoài quầy tạo nên những âm thanh rộn ràng khi khuôn bánh gõ mạnh trên mặt bàn theo những nhịp điệu khoan nhặt rất đặc trưng trên đường phố.
Trẻ con tò mò nhìn những người thợ làm bánh Trung thu.
Sau bánh trái là những đồ chơi mà tiêu biểu nhất là các loại đèn được thắp sáng trong đêm Trung Thu khi đợi trăng lên hay rước rong ngoài phố. Những cửa hàng bán các loại đèn làm bằng nan lợp giấy bóng kính hình các con vật mà nhiều nhất là thỏ và cá.
Ngoài ra còn các loại đèn lồng xếp bằng các loại giấy màu và cầu kỳ nhưng cũng gây hấp dẫn nhất là đèn kéo quân với rất nhiều tích truyện được thể hiện bằng những bóng hình xoay tròn nhờ sức nóng của những ngọn nến tạo ra những luồng khí đẩy những cái vòng quay tròn theo trục đèn. Các loại đèn này tập trung nhiều trên phố Hàng Mã những còn được bày bán ở Hàng Gai...
Đèn lồng xếp bằng nhiều loại giấy màu sắc cầu kỳ.
Đèn kéo quân cũng thu hút trẻ con.
Ngắm nghía những cái đèn (hình con cua) được người lớn mua cho là cái thú âm ỉ đối với lũ trẻ trong những ngày chờ Trung Thu đến.
Lại thêm “ông tiến sĩ giấy” gửi gắm lòng cầu mong của đấng sinh thành đối với con cái của mình lấy danh vị “tiến sĩ’ làm mơ ước. Có người bảo rằng cái ông tiến sĩ bằng giấy có bộ mặt non choẹt nhưng đáng yêu ấy chính là hình ảnh ông Trạng trẻ Nguyễn Hiền có thật trong lịch sử (!?).
Chắc từ thời Tây sang mới có một loại đồ chơi mới vì nó làm bằng một thứ vật liệu được gọi là “sắt Tây”. Nó có thể cắt ra từ những tấm kim loại hoặc tận dụng các loại bao bì bằng sắt Tây như hộp sữa bò, thùng dầu hoả...
Cái khéo léo của người thợ trên phố Hàng Thiếc với cái kéo cắt săt và những mỏ hàn bằng thiếc tạo ra những con giống đặt trên các bánh xe và nhờ những liên kết khéo léo của các tay đòn bằng giây thép cứng mà nó cử động được như con thỏ đánh trống hay con bướm đập cánh.
Rồi hợp với thời thượng là những chiếc ôtô, tàu bay bên cạnh cái xe kéo cũng mới có từ khi Tây sang. Xem kỹ ảnh thấy rất nhiều đồ chơi loại này, nào là Hai bà cưỡi voi, vinh quy bái tổ, con lân, con phượng , Tôn Ngộ Không và rất nhiều nhân vật làm hình nhân.
Đồ chơi bằng thiếc từ ô tô xe kéo...
Đến con lân, con phượng, Tôn Ngộ Không, Hai Bà cưỡi voi...
Nhưng có thể nói cái gây hứng thú nhất cho lũ trẻ là những chiếc tàu thuỷ làm bằng sắt Tây bên trong có cái phao dầu khi đốt cháy đẩy khí nóng thổi mạnh vào nước kêu “pành- pạch” đẩy con tàu về phía trước và trong những cái chậu tôn được lũ trẻ hình dung là biển cả. Hẳn là món đồ này có muộn hơn thời điểm chụp những tấm ảnh này (?).
Còn những lũ trẻ năng động nhất thì thích ở ngoài đường với cái đầu sư tử bồi bằng giấy. Chúng hợp thành những đoàn có trống, xèng xèng và thế nào cũng có một chú phỗng múa may làm vui. Chúng múa chơi đôi khi đòi những cửa hàng nơi chúng đến múa phải treo giải...
Múa lân vẫn là hoạt động được lũ trẻ yêu thích.
Cuối cùng là cái phút chờ đợi nhất, trong sự ấm cúng của gia đình xoay quanh nơi bày cỗ. Những món đồ ăn và đồ chơi được bày biện trong nhà hay ngoài trời phô bày sự chăm sóc của gia đình với con trẻ trong ngày Tết được chờ đợi nhất trong năm, lại vào lúc tiết trời đẹp nhất: gió mát trăng trong.
Bàn cỗ Trung thu với nhiều bánh trái, hoa quả.
Chưa thật đầy đủ, nhưng những tấm ảnh này giúp bạn trẻ biết được cảnh xưa và người già có dịp hồi nhớ quá khứ và so sánh với Trung thu hôm nay.

14/09/2016

10 điều không nên làm quá

Bài viết này có tính tham khảo


Danh sách "10 điều không nên làm quá" dưới đây chính là một số những nguyên tắc dưỡng sinh tiêu biểu của Đạo gia.

Đạo gia cho rằng “đạo” là nguồn gốc của vũ trụ, điều khiển mọi sự vận động của vạn vật. Do đó, chủ trương dưỡng sinh của các đạo sĩ hướng về những điều tự nhiên, “vô vi”, không màng danh lợi…

Dựa vào thể chất, tinh thần và sinh hoạt hằng ngày, Đạo gia đã đặt ra 10 nguyên tắc “không nên làm quá” để dưỡng sinh – dưỡng thần hiệu quả.

Mặc không cần quá ấm

Đạo gia chủ trương ăn vận đơn giản, thoải mái. Trang phục tùy vào thời gian, thời tiết và địa điểm, công việc mà thay đổi sao cho phù hợp.

Vào những ngày đông, nếu mặc trang phục vừa đủ, thoải mái, khí huyết trong kinh mạch của cơ thể sẽ được thông suốt, ắt không sinh ra cảm giác lạnh.

Ngược lại, khi “mặc quá ấm”, khả năng giữ ấm trở nên ỷ lại vào trang phục, khiến cho sức chịu lạnh của cơ thể cũng theo đó mà bị suy giảm.

Vì thế, Đạo gia khuyên chúng ta “mặc không cần quá ấm” để đề cao sức sống và cải thiện sức đề kháng tự nhiên của cơ thể. Đạo lý “mặc ấm bảy phần, tinh thần minh mẫn, tâm cũng thấy an” là từ đó mà ra.

Ăn không nên quá no

Người tu hành theo môn phái Đạo gia không bao giờ “ăn chán chê” hay “ăn không ngồi rồi". “Ăn không nên quá no” khuyên chúng ta ăn uống một cách điều độ, có chừng mực.

Ăn quá no sẽ gây ra bất lợi đối với sức khỏe và quá trình dưỡng sinh. Bởi vậy, Trung Y mới có quan niệm: “thường ngày đói ba phần, bách bệnh không tìm đến.”

Ở không cần quá xa hoa

Trong quá trình dưỡng sinh, Đạo gia từng đưa ra quan niệm “cửu thủ”. Trong “Cửu thủ” có “thủ giản” – cần kiệm, không tham lam; “thủ dịch” – không cần quá coi trọng ngoại cảnh; “thủ thanh” – thuận theo tự nhiên.

Ba yếu tố này đề xuất cách sống giản dị, thanh liêm, khuyến khích con người ta sống hòa thuận với thiên nhiên, sống đúng với bản thân, tránh việc xa hoa, lãng phí.

Sống trong môi trường giản đơn sẽ khiến tinh thần được thư giãn, cơ thể thoải mái, sức khỏe cũng nhờ vậy mà tốt lên đáng kể.

Tiền không cần quá nhiều

Quan điểm này của Đạo gia không mang ý nghĩa bài xích tiền bạc hay những người giàu có. “Tiền không cần quá nhiều” khuyên chúng ta không nên truy đuổi theo tiền tài, danh vọng, cũng không vì tiền bạc mà u sầu.

Theo phiên âm Hán Việt, “tiền không quá nhiều” là “hành bất quá phú”. Chữ “hành” có nghĩa là đi, bên cạnh đó còn chỉ hành vi, hành sự.

Quan niệm trên của Đạo gia đề cập đến tiền bạc trong hành vi và cách hành sự của con người. Cụ thể là không nên có hành vi vung tiền như rác, trong lúc hành sự không vì coi trọng tiền bạc mà xem nhẹ đạo đức.

Chưa dừng lại ở đó, Đạo gia còn chỉ ra rằng “tài có thể phá khí". Theo đó, truy đuổi danh lợi, phú quý một cách thái quá sẽ ảnh hưởng đến việc dưỡng sinh, thậm chí khiến cho “tinh khí phân tán”.

Làm việc không nên quá lao lực

Trong quá trình dưỡng sinh, Đạo gia chủ trương “làm việc có độ, không để thương thần”. Việc tổn thương do lao lực quá độ là điều tối kỵ đối với việc tu hành của môn phái này.

Làm việc quá cật lực sẽ gây ra “ngũ lao, thất thương”. Trong đó, "ngũ lao" chỉ sự thương tổn của ngũ tạng gồm tim, gan, tì, phổi, thận.

"Thất thương" chỉ sự thương tổn của ngũ tạng nói trên về hình (thân thể) và chí (ý chí).

Đó là quá no thương tì, giận dữ thương can, vác nặng ngồi lâu thương thận, mình rét uống lạnh thương phế, lo buồn suy nghĩ thương tâm, mưa gió nóng rét thương hình, lo sợ không điều độ thương chí.

Bởi vậy, để tránh cho khí huyết, ngũ tạng, kinh mạch và gân cốt bị tổn thương, ta cần làm việc điều độ, tránh lao lực, mệt mỏi.

Không sống quá an nhàn

Tục ngữ Trung Hoa có câu: “Sinh vu ưu hoan, tử vu an nhạc”. Nghĩa là người có thể sinh tồn vì cuộc sống có gian nan, khổ cực; nếu chỉ biết chìm đắm trong yên vui ắt sẽ nhanh chóng suy vong.

Do đó, Đạo gia cho rằng con người sống ở trên đời nếu quá nhàn hạ, rảnh rỗi ắt nội tâm sẽ trống rỗng.

Ngược lại, nếu ta có ta có thể vượt qua hiện thực, chiến thắng bản thân, thể chất và tinh thần sẽ như được thanh lọc, khiến cho trí tuệ và sức khỏe càng thêm vượt bậc.

Không nên vui quá đà

“Vui” là một trạng thái cảm xúc thuộc về “thất tình” của con người. “Thất tình” gồm mừng, giận, thương, ghét, buồn, sợ và ham muốn.

Thành ngữ Trung Hoa lại có câu “vật cực tất phản” (cái gì quá cũng không tốt). Bởi vậy, vui quá có thể hóa thành buồn. Do đó mới có trạng thái “mừng chảy nước mắt”.

“Không nên vui quá đà” nhắc nhở chúng ta cần kiềm chế cảm xúc ở mức độ vừa phải, ngay cả khi đó là cảm xúc tích cực. Việc cảm xúc vượt quá giới hạn của tâm lý và tinh thần sẽ gây nên một phản ứng tiêu cực đối với sức khỏe con người.

Không cần giận dữ quá độ

Lịch sử Trung Hoa từng ghi nhận không ít bi kịch của cá nhân, quốc gia bắt nguồn từ những cơn giận không đáng có. Tức giận nếu ở mức nhẹ sẽ hại mình, hại người, nặng thì hại dân, hại nước. Đây là trạng thái cảm xúc “lợi bất cập hại” đối với cơ thể.


Sài Gòn những năm 1860

Những hình ảnh do nhiếp ảnh gia Anh John Thomson thực hiện trong thập niên 1860 cho thấy một diện mạo còn rất hoang sơ của Sài Gòn...
Hình ảnh được đăng tải trên website của Thư viện Wellcome, London, Anh quốc.
Khu vực thương cảng ở Sài Gòn, với Nhà Rồng (ngày nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh) đang được xây dựng.
Khu phố mới hình thành gần thương cảng Sài Gòn.
Kênh Bến Nghé, nơi tập trung người Hoa sinh sống ở vùng Chợ Lớn.
Lăng Cha Cả ở Sài Gòn.
Đường đến Lăng Cha Cả, nay là đường Hoàng Văn Thụ.
Mồ mả trên một cánh đồng.
Một ngôi mộ của người có vai vế.
Ngoại ô Sài Gòn.
Nhà lá bên sông ở Nam Kỳ.
Bên một đường làng ở Nam Kỳ.
Vườn tược ở Nam Kỳ.
Một con đường đất ở xóm làng ngoại vi Sài Gòn.
Những gian nhà bên hồ.
Những đóa hoa bìm bìm.
Cây cối um tùm.