Tập
hợp từ vi.wikipedia.org
Phật
giáo (zh. 佛教, sa. buddhaśāsana, pi.
buddhasāsāna, bo. sangs rgyas bstan pa སངས་རྒྱས་བསྟན་པ་) là một tôn giáo vô thần bao gồm một loạt các truyền thống, tín
ngưỡng và phương pháp tu tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử là
Tất-đạt-đa Cồ-đàm (zh. 悉達多瞿曇, sa. siddhārtha
gautama, pi. siddhattha gotama). Tất-đạt-đa Cồ-đàm thường được gọi là Phật-đà,
Bụt-đà (sa., pi. buddha), gọi tắt là Phật, hay Bụt, có nghĩa là "người
tỉnh thức", "người giác ngộ". Theo sách vở Phật giáo cũng như
các tài liệu khảo cổ đã chứng minh, Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã sống và giảng đạo ở
vùng đông Ấn Độ từ khoảng thế kỉ thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ 4 TCN.
Bánh
xe Pháp Dharmacakra, biểu tượng của Phật giáo, tượng trưng cho giáo pháp, gồm
Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Trung đạo
Sau khi Tất-đạt-đa Cồ-đàm qua đời thì Phật giáo bắt đầu phân hóa
ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng, với nhiều sự khác biệt so với ban
đầu:
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), còn gọi là Phật giáo Nam
Tông, Phật giáo Tiểu thừa, Phật giáo Thượng tọa
Phật giáo Phát triển (Mahayana), còn gọi là Phật giáo Bắc
tông, Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Đại chúng
Phật giáo Chân ngôn (Vajrayana), còn gọi là Phật giáo Tây
Tạng, Phật giáo Kim cương thừa, Phật giáo Mật tông
Phật giáo Nguyên thủy phát triển mạnh ở Sri
Lanka và Đông Nam Á (Thái
Lan, Lào, Campuchia, Myanmar.)
Phật giáo Đại chúng phát triển ở Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt
Nam, Singapore) và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ
tông, Thiền tông, Thiên thai tông. Còn Phật giáo Kim cương thừa phát
triển ở Tây Tạng, Mông Cổ và Bhutan.
Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Đạo Phật được
tìm thấy ở khắp thế giới. Ước tính số người theo đạo Phật vào khoảng 350 triệu
đến 1,6 tỷ người.
Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của
con đường đưa đến giải thoát, tính chính thống của các bài giảng đạo và kinh
điển, đặc biệt là ở phương thức tu tập.
GIÁO LÝ CỐT LÕI
Tứ Thánh (diệu) đế
Cơ sở tư tưởng và cốt lõi của Phật pháp là tứ thánh
đế. Bốn chân lý giải thích bản chất của sự khổ trong luân
hồi (zh. 輪回, sa., pi. saṃsāra),
nguyên nhân của sự khổ, và làm thế nào để giải trừ đau khổ. Nếu như có một ngọn
lửa tự cháy giữa hư không, vô nhân, vô duyên, vậy thì khi muốn dập tắt ngọn lửa
ấy là điều không thể nào, thế nhưng ngược lại, trong thực tế ngọn lửa nào cháy
lên cũng có nhân, có duyên của: chất đốt, không khí, v.v.. Khi chúng ta loại bỏ
các điều kiện đó thì ngọn lửa cũng tắt, tương tự như vậy, Đức Phật dạy Ở đời
thực có khổ đau (Khổ đế), khổ đau cũng có nguyên nhân (Tập đế), khổ đau có thể
dập tắt (Diệt đế), và Bát chánh đạo - Trung đạo là con đường đưa đến khổ diệt
(Đạo đế)
1. Khổ đế (zh. 苦諦, sa. duḥkhāryasatya, bo. sdug bsngal bden pa སྡུག་བསྔལ་བདེན་པ་), chân lý về sự Khổ:
đau trên thân gồm: sinh, già, bệnh, chết; khổ tâm gồm: sống chung với người
mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn mà không được, chấp vào thân
ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên phớt lờ, cũng
không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải thừa nhận nó.
2. Tập đế (zh. 集諦, sa. samudayāryasatya, bo. kun `byung bden pa ཀུན་འབྱུང་བདེན་པ་), chân lý về sự phát
sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân thường thấy do tham ái, sân hận, si
mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa sinh
ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên quan
nằm trong 12 nhân duyên.
3. Diệt đế (zh. 滅諦, sa. duḥkhanirodhāryasatya,
bo. `gog pa`i bden pa འགོག་པའི་བདེན་པ་), chân lý về diệt khổ: là trạng trạng thái không có đau khổ, là
một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt
lòng ham muốn, và có sự hiểu biết của trí tuệ chấm dứt vô minh.
4. Đạo đế (zh. 道諦, sa. duḥkhanirodhagāminī pratipad, mārgāryasatya,
bo. lam gyi bden pa ལམ་གྱི་བདེན་པ་), chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đi đến sự
diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Phương tiện hay
pháp môn để thành tựu con đường bát chánh đạo là 37 phẩm trợ
đạo.
Bát chính đạo
- Nhóm trí tuệ:
Chính kiến (zh. 正見, pi. sammā-diṭṭhi, sa. samyag-dṛṣṭi,
bo. yang dag pa`i lta ba ཡང་དག་པའི་ལྟ་བ་): hiểu biết chân chính: hiểu biết về nhân quả, duyên khởi, hiểu
biết về sự vật hiện tượng chân thực, như chúng đang là, không kèm theo cảm xúc,
cảm tính, hiểu biết 4 chân lý về khổ và cách thoát khổ, từ đó biểu hiện thái độ
sống không làm khổ mình, khổ người.
Chính tư duy (zh. 正思唯, pi. sammā-saṅkappa, sa. samyak-saṃkalpa,
bo. yang dag pa`i rtog pa ཡང་དག་པའི་རྟོག་པ་): suy nghĩ hướng đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,
thắng trí và giác ngộ.
- Nhóm đạo đức:
Chính ngữ (zh. 正語, pi. sammā-vācā, sa. samyag-vāk,
bo. yang dag pa`i ngag ཡང་དག་པའི་ངག་): lời nói chân chính: lời nói sự thật, lời nói hòa hợp, đoàn kết,
mang tính xây dựng, mang lại an vui hạnh phúc cho người khác.
Chính nghiệp (zh. 正業, pi. sammā-kammanta, sa. samyak-karmānta,
bo. yang dag pa`i las kyi mtha` ཡང་དག་པའི་ལས་ཀྱི་མཐའ་): hành vi chân chính:
không sát sanh, không trộm cắp, không ngoại tình, không sử dụng rượu bia ma
túy. Các hành vi được khuyến khích: trồng cây bảo vệ môi trường, chia sẻ sở hữu
hợp pháp với những người kém may mắn hơn, sống chung thủy một vợ một chồng, giữ
sức khỏe để chăm sóc bảo vệ người thân.
Chính mạng (zh. 正命, pi. sammā-ājīva, sa. samyag-ājīva,
bo. yang dag pa`i `tsho ba ཡང་དག་པའི་འཚོ་བ་): nghề nghiệp chân chính để nuôi sống thân mạng: không làm nghề
đồ tể vì giết động vật hàng loạt; không làm nghề buôn bán vũ khí vì tạo ra giết
người hàng loạt; không làm nghề buôn bán ma túy vì tiếp tay cho con nghiện, hủy
hoại đời sống cá nhân và mất ổn định xã hội; không làm nghề buôn bán độc dược
vì tổn hại sức khỏe, sinh mạng nhiều người; không làm nghề mại dâm vì phá hoại
hạnh phúc nhiều gia đình.
Chính tinh tấn (zh. 正精進, pi. sammā-vāyāma, sa. samyag-vyāyāma,
bo. yang dag pa`i rtsal ba ཡང་དག་པའི་རྩལ་བ་): nỗ lực kiên trì chân chính: tiếp tục làm những việc thiện đang
làm, hiện thực hóa những việc thiện có ý định làm, từ bỏ những việc bất thiện
đang làm, loại bỏ ý định về những việc bất thiện sẽ làm.
- Nhóm thiền định:
Chính niệm (zh. 正念, pi. sammā-sati, sa. samyag-smṛti,
bo. yang dag pa`i dran pa ཡང་དག་པའི་དྲན་པ་): sự làm chủ các giác quan trong các tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi,
nói, nín, động, tịnh, thức và ngủ, làm chủ cảm xúc và thái độ sống.
Chính định (zh. 正定, pi. sammā-samādhi, sa. samyak-samādhi,
bo. yang dag pa`i ting nge `dzin ཡང་དག་པའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་): 4 tầng thiền: sơ
thiền (ly dục ly ác pháp sinh hỷ lạc, có tầm, có tứ), nhị thiền (diệt tầm, diệt
tứ, định sinh hỷ lạc, nội tĩnh, nhất tâm), tam thiền (ly hỷ, trú xả), tứ thiền
(xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh) cùng với những phương pháp hỗ trợ như tứ
niệm xứ, định niệm hơi thở, định sáng suốt,v.v... được đề cập trong kinh tạng
Pali. Sau khi đã đạt tứ thiền, hành giả dẫn tâm về Tam minh gồm: Túc mạng minh,
Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng tam minh xong, hành giả giải thoát hoàn
toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán tuyên bố "Tái sinh đã
tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm, không còn trở lại sinh tử này
nữa".
Những tư tưởng cơ bản của Phật-đà đều được nhắc lại trong các kinh
sách, nhưng có khi chúng được luận giải nhiều cách khác nhau và vì vậy ngày nay
có nhiều trường phái khác nhau, hình thành một hệ thống triết lý hết sức phức
tạp.
Giáo pháp đạo Phật được tập hợp trong Tam
tạng (zh. 三藏, sa. tripiṭaka,
pi. tipiṭaka), bao gồm:
1. Kinh tạng (zh. 經藏, sa. sūtra-piṭaka, pi. sutta-piṭaka,
bo. mdo sde`i sde snod མདོ་སྡེའི་སྡེ་སྣོད་) bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc
các đại đệ tử. Kinh tạng tiêu biểu văn hệ Pali được chia làm năm bộ:
1. Trường bộ kinh (pi. dīgha-nikāya), 2. Trung bộ
kinh (pi. majjhima-nikāya), 3. Tương ưng bộ
kinh (pi. saṃyutta-nikāya), 4. Tăng chi bộ
kinh (pi. aṅguttara-nikāya) và 5. Tiểu bộ
kinh (pi. khuddaka-nikāya).
2. Luật tạng (zh. 律藏; sa., pi. vinaya-piṭaka, bo. `dul
ba`i sde snod འདུལ་བའི་སྡེ་སྣོད་), chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già (sa.,
pi. saṅgha) cũng như các giới luật của người xuất gia, được xem là
tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Phật nhập Niết-bàn.
3. Luận tạng (zh. 論藏, sa. abhidharma-piṭaka, pi. abhidhamma-piṭaka,
bo. mngon pa`i sde snod མངོན་པའི་སྡེ་སྣོད་)—cũng được gọi là A-tì-đạt-ma—chứa đựng các quan niệm đạo
Phật về triết học và tâm lý học. Luận tạng được hình thành tương
đối trễ, có lẽ là sau khi các trường phái đạo Phật tách nhau mà vì vậy, nó
không còn giữ tính chất thống nhất.
Tăng-già (zh. 僧伽; s, pi. saṅgha) của đạo Phật gồm có Tỳ
Kheo (zh. 比丘, sa. bhikṣu,
pi. bhikkhu), Tỳ Kheo Ni (zh. 比丘尼, sa. bhikṣuṇī, pi. bhikkhunī)
và giới Cư sĩ.
LỊCH TRÌNH TU HỌC
Theo giáo lý nguyên thủy thì một hành giả
đạt bồ-đề, giác ngộ khi người đó đạt được một cái nhìn
vạn vật như chúng đích thật là (Như thật tri kiến sa. yathābhūtadarśana),
với một tâm thức thoát khỏi phiền não (sa. kleśa) và si
mê (sa. moha). Trong các loại phiền não thì tham ái (sa. tṛṣṇā)
và vô minh (sa. avidyā), cũng được gọi là si (sa. moha),
là những loại nặng nhất. Tham (sa. rāga), sân (sa. dveṣa)
và si được gọi chung là ba chất độc (tam độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến
tâm thức. Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng,
và để tiêu diệt được thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính
bằng cách thực hành bát chính đạo.
Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo tam
học (sa. tisraḥ śikṣāḥ), cụ thể là tu học về giới (tăng
thượng giới học, sa. adhiśīlaśikṣā), định (tăng thượng định học,
sa. adhicittaśikṣā) và huệ (tăng thượng huệ học, sa. adhiprajñāśikṣā).
Trước hết hành giả phát lòng tin (tín, sa. śraddhā) vào tam
bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, sa-di hoặc
tỉ-khâu). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là thiền định.
Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ thiền, sa. caturdhyāna).
Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó
là tứ niệm xứ (sa. catvāri smṛtyupasthānāni), Tứ vô
lượng tâm, tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (sa. catvāry
apramāṇāni, cũng được gọi là Tứ Phạm trú, sa. brahmavihāra).
Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại:
1. Chỉ (sa. śamatha) là phương pháp lắng đọng tâm
2. Quán (sa. vipaśyanā, vidarśanā) là cách
thiền quán lập cơ sở trên chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành
tựu công phu Quán. Phần thứ ba của tam học là huệ học, lập cơ sở trên thiền
quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là tứ diệu đế,
nguyên lý duyên khởi (sa. pratītyasamutpāda)
hoặc ngũ uẩn.
Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát
(sa. vimuktijñāna), biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của
hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu, sa. anāsrava)
và hành giả ấy đạt tứ thánh quả A-la-hán.
Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy
phương cách theo 37 Bồ-đề phần.
PHẬT GIÁO TẠI VIỆT NAM
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ
đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy
Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở
của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các
truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật
Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra)
trong khoảng các năm 168-189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha
(bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt", từ
"Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam
lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần tiên
chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do
ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và
được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được
phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành
"Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà
Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh
hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu
Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai
đoạn suy thoái.
Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn
hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều
kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo
Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng
góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai
đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
Thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Phật giáo Bắc Tông có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là
Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông.
NỀN TẢNG VÀ KHÁC BIỆT SO VỚI CÁC TÔN GIÁO
KHÁC
1. Nền tảng Đạo Phật: là tứ thánh đế. Đạo Phật là đạo
giải quyết khổ đau với 2 khái niệm quan trọng là Nhân Quả và Luân hồi.
Nhân Quả:
Đạo Phật giải thích là mọi sự việc đều có lý do từ Nhân Quả. Nghĩa
là mọi sự việc đều là kết quả từ nguyên nhân trước đó. Và sự việc đó chính nó
lại sẽ là một nguyên nhân của kết quả sau này. Các sự việc tương tác Nhân Quả
phức tạp lẫn nhau gọi là trùng trùng duyên khởi. Nhân có khi còn gọi là Duyên
hay Nghiệp, và một khi đã gieo Duyên hay Nghiệp thì ắt sẽ gặt Quả (để phân biệt
tích cực với tiêu cực một cách tương đối thì có khái niệm "thuận
duyên", "nghịch duyên" hoặc "Thiện nghiệp", "Ác
nghiệp"). Từ Nhân đến Quả có yếu tố Duyên. Duyên là điều kiện thuận lợi
cho phép Quả tới nhanh hơn dự kiến (thuận duyên) hoặc điều kiện cản trở trì
hoãn Quả tới chậm hơn, đôi khi triệt tiêu Quả (nghịch duyên).
Nhân quả tương tác theo luật hạt giống: hạt táo không thể sinh ra
quả bưởi, hạt xoài không thể sinh ra quả đào. Nhân quả đạo đức là một ứng dụng
của duyên khởi (nguyên lý duyên khởi là quy luật vận hành của vạn vật). Các
nhân cùng loại nhưng trái chiều sẽ tương tác, bù trừ nhau, cái nào mạnh hơn sẽ
trổ quả sau khi bù trừ xong, ví dụ: về nghiệp tuổi thọ của một người, thiện
nghiệp (trồng cây, phóng sanh, cứu mạng người khác) và ác nghiệp (sát sanh,
giết người) đã gieo sẽ bù trừ nhau, nếu ác nghiệp nhiều hơn thì người đó sẽ
nhận phần ác nghiệp sau khi đã được trừ với thiện nghiệp, bị bệnh tật hoặc tai
nạn làm giảm tuổi thọ. Học thuyết nhân quả dựa trên kinh tạng nguyên thủy lý
giải rằng nghiệp đã gieo có thể chuyển được do gieo nhân mới đối lập với nhân
cũ.
Dù con người dù không thể thấy được toàn bộ, không thể lý giải
được hoàn toàn nhân quả này thì mối quan hệ Nhân Quả vẫn là một quy luật tự
nhiên khách quan. Con người dù không thể hiểu hết, thấy hết, thậm chí có thể họ
không tin Nhân Quả, nhưng quy luật này vẫn vận hành và chi phối vạn vật. Thời
gian giữa Nhân và Quả là xuyên suốt thời gian vũ trụ chứ không chỉ trong một
kiếp sống. Việc này dẫn đến 1 khái niệm là Luân hồi.
Luân hồi:
Luân hồi chỉ cho việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống. Chết là
hết 1 kiếp, tâm thức mang theo nghiệp đi tái sinh kiếp mới. Hình thức của 1
kiếp sống là khác nhau, có thể chuyển đổi giữa các loài, các thế giới (cõi súc
sinh, cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la…). Quan hệ Nhân Quả quyết
định cách thức Luân hồi, hay nói cách khác tùy theo Duyên hay Nghiệp đã tạo mà
sẽ Luân hồi tương ứng để nhận Quả.
Chết là hết một kiếp, nhưng lại là khởi đầu của một kiếp khác, nối
tiếp vô cùng tận. Dù có hết 1 kiếp sống thì vẫn sẽ tiếp tục Luân hồi sang kiếp
khác để nhận Quả. Còn Luân hồi là còn khổ và Đạo Phật chỉ rằng Luân hồi chỉ có
thể bị phá vỡ nếu đạt Giác ngộ. Nghĩa là có thể thoát khỏi Luân hồi sinh
tử nếu biết cách "đoạn diệt" các nguyên nhân dẫn dắt Luân hồi. Đạo
Phật gọi đó là giải thoát và toàn bộ Phật pháp đều nhằm chỉ ra con đường giải
thoát, như Phật đã nói "Như mặn là vị của nước biển, còn vị của
đạo ta là giải thoát".
Khác biệt của Đạo Phật với hầu hết các tôn giáo:
Bình đẳng:
Trong hầu hết các tôn giáo, không ai có thể sánh bằng hoặc ngang
hàng với một đấng tối thượng là giáo chủ. Tất cả tín đồ đều phải suy tôn, coi
vị này là số một và không bao giờ có cơ hội được như đấng đó. Điều này làm tôn
giáo thường bị nhiều kẻ xấu lợi dụng để phục vụ cho lợi ích của riêng mình bằng
cách làm cho người khác tin rằng mình là giáo chủ hoặc là người đại diện cho
giáo chủ. Đạo Phật thì chỉ coi một bậc là tối thượng chứ không phải cá biệt duy
nhất một ai là tối thượng. Bậc Vô thượng bồ đề hay gọi đơn giản
là Phật chính là một bậc mà mọi chúng sanh đều có thể đạt được nếu
kiên trì tu tập và đạt tới giác ngộ.
Phật là danh từ chung để gọi một người đã giác ngộ, đạt tới cảnh
giới giải thoát, ra khỏi Luân hồi, hoàn toàn trong sạch và hơn nữa phải là
người có lòng từ bi thương yêu, cứu giúp tất cả chúng sinh không phân biệt dù
hy sinh cả bản thân mình. Sự suy tôn trong Đạo Phật là do tự cảm phục trước
lòng từ bi, đức độ và công hạnh của người đã đạt đến bậc Vô thượng bồ đề. Là sự
tự nguyện noi theo đức độ và giải thoát chứ không hề có sự ép buộc phải phục
tùng, cầu lợi. Chính Phật cũng đã khẳng định: "Ta là Phật đã
thành, chúng sanh là Phật sẽ thành"
Tính vô thường của vạn vật: Đạo Phật cho rằng mọi sự vật hiện
tượng (trừ cõi Niết Bàn) đều là vô thường, không thể tồn tại vĩnh hằng, có sinh
thì phải có diệt, Duyên khởi thì sinh - Duyên tận thì diệt. Ngay cả không gian,
thời gian và vũ trụ cũng vậy, cũng có khởi đầu, biến đổi và cuối cùng là kết
thúc (2.500 năm sau khi Đức Phật thuyết pháp, thuyết Big
Bang và Vũ trụ giãn nở mà khoa học tìm ra cũng có nội dung tương
tự). Trong khi đó, hầu hết các tôn giáo khác đều cho rằng bậc Thượng đế của họ
là vĩnh hằng bất biến và sáng tạo ra vạn vật, cho rằng bậc Thượng đế đó không
sinh ra từ đâu mà tự đã có khi vạn vật chưa tồn tại.
Tính vô lượng của thế giới: đa số các tôn giáo khác coi Trái Đất
là trung tâm vũ trụ, loài người là sinh vật tối thượng do Thượng đế tạo ra. Đạo
Phật thì cho rằng thế giới này chỉ là một trong muôn vàn các thế giới cùng hiện
hữu, loài người (Nhân giới) cũng chỉ là một kiếp sống như các loài vật khác
(súc sinh giới), có kiếp sống còn cao cấp hơn loài người (Thiên giới), và tất
cả đều phải chịu luân hồi vô tận từ kiếp này sang kiếp khác. Phật tổ từng
nói: "Trên vũ trụ này còn vô số những thế giới khác, trong một ly
nước cũng có vô số những con trùng trong đó". Vào thời đó, những gì
Đức Phật nói là mơ hồ và không ai có thể chứng minh, nhưng ngày nay thì nhiều
điều đã được khoa học hiện đại chứng minh là đúng.
Tôn thờ:
Chính vì sự bình đẳng nên Đạo Phật không ép buộc hay khuyến khích
thờ cúng cho bất kỳ ai. Nên phân biệt rõ sự ép buộc thờ cúng để hưởng thụ với
sự thành tâm cúng dàng, hỷ xả của một tín đồ. Một vị Phật hay một vị tăng chân
chính không coi trọng bản thân mình, sẵn sàng hy sinh vì chúng sinh và thực tế
đã có rất nhiều bằng chứng trong lịch sử. Vì vậy việc chúng sinh dâng cúng và
họ thụ nhận, hoặc một số trường hợp họ khuyên dâng cúng chính là vì muốn chúng
sinh tạo công đức, gieo một nhân lành, gieo một duyên tốt để từ đó diệt trừ
tham lam, đi vào tu tập, xả bỏ vướng bận và giải thoát.
Sự cúng dàng và bái lạy, hầu cận Phật là một sự ngưỡng mộ, noi
theo đối với đấng Thế tôn đã giải thoát và từ bi vô lượng. Khi một người đạt
đến quả vị Vô thượng bồ đề thì cả vũ trụ đều rúng động và suy tôn vì đức độ vĩ
đại của vị Phật đó chứ vị Phật đó không còn mong muốn ai suy tôn, thờ cúng cho
mình. Quả vị đó là một sự thật chứ không phải tự phong. Phật đã đạt tới và Phật
nhận tất cả tấm lòng của chúng sinh hướng về chính đạo để hướng dẫn cách giải
thoát cho chúng sinh. Hơn hết tất cả, quả vị Vô thượng bồ đề là bậc mà mọi
chúng sinh đều có thể tự tu tập và đạt được theo sự chỉ bảo của Phật.
Tóm lại, Đạo Phật là con đường giải thoát dành cho tất cả chúng
sinh, không phân biệt ai. Đạo Phật nói lên sự thật, là một con đường khách quan
để đi tới chân lý. Giáo lý của Đạo Phật không phải do Phật
sáng tạo ra mà là chân lý khách quan. Phật chỉ là người phát hiện,
dấn thân và chứng đắc để rồi truyền dạy lại cho chúng sinh cách giải thoát với
lòng từ bi vô lượng. Sự cao quý của Phật ở chỗ xem tất cả chúng sinh là bình
đẳng và hoàn toàn có thể thành Phật.
NHẬN XÉT
Nhà bác học Vật lý Albert Einstein có nhắc qua về Đạo
Phật trên tờ New York Times số ra 09.11 năm 1930 như sau:
"một người được giác
ngộ bởi tôn giáo, đối với tôi có vẻ như là người cố gắng đến khả năng cực đại
của bản thân, giải thoát mình khỏi những xiềng xích của những ham muốn ích kỷ
của mình và đi sâu, chìm đắm trong những suy nghĩ, cảm xúc và nguyện vọng,
những cái mà người đó luôn giữ chặt, vì giá trị của siêu-cái tôi cá nhân (gọi
tắt là X). Tôi thấy rằng, dường như cái quan trọng là sức mạnh của những thứ
(nội dung) nằm trong X... chứ không cần quan tâm đến bất kỳ một nỗ lực nào được
thực hiện để thống nhất những điều này với một đấng Thiên chúa, nếu không thì
nó có thể không khả thi khi tính Phật và Spinoza là như loại hình tôn giáo
(nhân cách). Theo đó, người mộ đạo theo cảm giác (có ý thức) rằng, họ không hề
nghi ngờ gì về tầm quan trọng của các đối tượng nằm trong X này và về các mục
tiêu, cái mà không cần và cũng không có đủ khả năng xây dựng nên dựa trên một
nền tảng khoa học hợp lý... Theo cách hiểu này, tôn giáo là nỗ lực lâu đời của
nhân loại để trở nên rõ ràng và được nhận thức hoàn toàn đầy đủ về những giá
trị và mục tiêu, và không ngừng củng cố cũng như mở rộng ảnh hưởng của nó. Nếu
mọi người quan niệm về tôn giáo và khoa học theo những định nghĩa này, thì một
cuộc xung đột giữa tôn giáo và khoa học dường như là không thể. Vì đối với khoa
học chỉ có thể xác định nó "là gì", chứ không phải nó "nên là
gì"..."
Friedrich Nietzsche chỉ trích Đạo Phật làm thúc đẩy những thứ
mà ông gọi là thuyết hư vô (nihilism). Ông cho rằng, đạo Phật có thể
được mô tả như một nỗ lực, thông qua sự kiềm chế từ hành động, để thoát khỏi
đau khổ và đi vào trạng thái không tồn tại một cách tuyệt đối, cái mà ông phê
phán và cho rằng đó là sự trốn chạy hèn nhát trước thực tại.
Nhà bác học Vật lý Albert Einstein đã nghiên cứu Đạo
Phật qua các sách báo của các học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là
triết gia người Đức Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người
Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily
Vasaliyey (1818-1900)... Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau:
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên
trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương
diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ
kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa.
Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó... Nếu có một tôn giáo nào đương đầu
với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo
không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của
khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình theo xu hướng khoa
học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học... Tôi là một
người không tôn giáo. Nhưng nếu có Tôn giáo thì Tôi phải là một Phật tử. Vì
những gì Tôi hiểu biết bây giờ thì mấy ngàn năm qua Kinh Phật đã nói hết
rồi".