03/03/2022

Chùa Việt (chút ít kiến thức về Phật giáo mong giới thiệu tới mọi người)

(Phần 1)

 Mở đầu

Chủ đề này quá lớn so với tầm hiểu biết của mình nên tôi đã phải sử dụng nhiều tư liệu và hình ảnh từ nhiều nguồn khác để hòng bổ sung cho tròn. 

Cách diễn giải, trình bày cho chủ đề này là như cách của một người đi vãn cảnh nên lớp lang chưa được chuyên nghiệp mong người đọc thông cảm.

Ở đây, tôi không tham vọng bàn về Phật giáo nói chung hay Phật giáo ở Việt Nam nói riêng; mà chỉ muốn cung cấp cho người đọc một phần nhỏ nào đó trong những giá trị văn hóa đã được khẳng định lâu đời của các ngôi chùa Việt - nhất là ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Nhưng qua đó cũng mong giúp bạn đọc có được một số hiểu biết nhất định về Văn hóa Phật giáo Việt Nam ta.

Chủ đề này tôi tạm chia làm nhiều phần để mọi người tiện theo dõi, chứ cũng không phải chương hồi gì, vì nội dung muốn truyền tải quá nhiều mà thôi.

Rất mong sự ủng hộ.

 ——————– ☆☆☆☆☆ ——————–

Trước hết là ta phải phân biệt các khái niệm về các trung tâm tôn giáo tín ngưỡng cơ bản có ở Việt Nam.

1. Chùa (Tự)

Ở Việt Nam có lẽ Chùa là nhiều nhất. Chùa là nơi thờ Phật, có thể ghép thêm các tôn giáo bản địa, tín ngưỡng dân gian, nhưng gian chính phải là thờ Phật. Chùa có thể có tăng, ni trụ trì, sinh sống, mà cũng có thể chỉ có người trông coi. 

Chùa là những di tích cổ nhất còn lại ở Việt Nam, đặc biệt miền Bắc. Ba miền, phong cách chùa cũng rất khác nhau.

2. Đền (Từ)

Đền thờ Thần, Thánh. Có thể là Thiên thần, Nhiên thần, Địa thần, Nhân thần. 

3. Đình

Thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi tụ họp, bàn việc làng, là tinh túy của làng xã.

4. Quán

Nơi thờ và tu của Đạo giáo, thờ Tiên của Đạo giáo. Quán ngày nay còn không nhiều

5. Phủ / Điện

Thờ Mẫu trong đạo Mẫu, là tôn giáo bản địa. Miền trung gọi là Điện.

6. Miếu

Thờ Thánh nhân, Hoàng tộc, cho đến các tiểu thần, tổ nghề, hoặc cả Mẫu nữa

7. Nhà thờ

Của đạo Thiên Chúa, có thể gọi là Giáo đường, Thánh đường, có các cấp bậc hẳn hoi: Vương cung thánh đường, Chính tòa, Tông tòa, nhà thờ xứ, nhà thờ họ.

Nơi thờ tự của Hồi giáo cũng gọi là Giáo đường.

8. Thánh thất

Đạo Cao Đài gọi nơi thờ của đạo mình là Thánh thất.

9. Tháp

Tháp của người Chăm, cũng là nơi thờ tự riêng của họ. Tháp này khác với các tháp chùa.

10. Đàn

Nơi tế Trời, Thiên Địa Nhật Nguyệt, Vũ trụ. Chỉ còn vài nơi.

Ngoài ra còn một số loại hình khác như Lăng (Mộ), Miễu...

Theo các vị Chân Tu - Ngộ Đạo, thì cho rằng nơi nào có Phật thì nơi đó là chùa, đó có thể là Phật trong tâm tưởng, Phật trong suy nghĩ, Phật qua thuyết pháp. Với một hành giả - người tu nhưng đi khắp nơi, thì ngồi đâu cũng có thể là chùa (với chính hành giả đó). Với người khác, khi có một vị tăng thuyết về pháp, thì nơi đó là chùa, dù vị đó ngồi ở giữa ruộng, dưới một tán cây, dưới một dốc đá. Chùa là ở trong lòng người, chứ không phải ở cái nhà, hay pho tượng.

Hiểu theo nghĩa thực tế hơn, thì có lẽ chùa cần phải hiểu là nơi: (1) thờ Phật, (2) có người tu hành theo Phật ở hoặc thường xuyên qua lại, (3) có hoạt động truyền bá Phật pháp dưới hình thức này hay hình thức khác.

Thực ra phân biệt quá như thế cũng không phải là đúng hẳn. Có những ngôi "chùa giả" rồi sau lại thành "Chùa thật" đấy thôi. Ngược lại, có những ngôi chùa mà thực ra không truyền pháp, mà truyền mê tín dị đoan, thì nên đổi là đền, miếu, phủ,... chứ không nên gọi là chùa. Chùa trên khắp đất nước Việt Nam, chỗ nào cũng có, liệt kê đến hàng tháng cũng chả hết. Thích gì nói nấy thì tiện hơn.

Chùa miền Bắc theo Đại thừa Bắc truyền, chịu ảnh hưởng Trung Quốc, nhưng có những nét riêng rất Việt mà không nơi nào có được, đặc trưng bởi kiến trúc, hệ thống tượng, không gian chùa, từ chùa quốc gia đến chùa làng.

Chùa Bắc phần lớn có lịch sử lâu đời, xa xưa nhất từ thời thế kỉ 2, thế kỉ 5, trong lịch sử thì nhiều nhất đời Lý, đời Trần. Nhưng những gì còn lại hiện nay chủ yếu đời Lê, Nguyễn. 

Một góc chùa Keo (Thái Bình)

Chùa miền Trung kiến trúc hoàn toàn đời Nguyễn, mang dấu ấn triều Nguyễn sâu sắc không thể lẫn. Chùa gỗ ở Huế thực ra cũng không còn nhiều, do chiến tranh tàn phá, mà cũng nhiều chùa xây lại, cũng mất một phần phong vị.

Chùa miền Nam theo Nguyên thủy Nam truyền, thì chùa cổ Khơ Me tập trung nhiều nhất ở Sóc Trăng, với những ngôi chùa rất cổ. Chùa khác ở miền nam thì gần như toàn bộ là xây sau này bằng bêtông, xi măng cốt thép, to lớn, màu sắc, nhưng không cổ kính. Nhiều chùa bị ảnh hưởng của phong cách Hoa - Phúc Kiến nặng, mất hết kiểu Việt.

Đặc trưng của trào lưu Phúc Kiến trong chùa chính là bức tượng Quan Âm đứng giữa giời, cầm cái bình, bắt đầu xuất hiện từ miền Nam, rồi lan dần ra miền Trung và ra Bắc. Thế nên nhiều chùa miền Bắc cả nghìn năm nay không để tượng ấy, thì giờ bỗng xuất hiện, đôi lúc lạc lõng kì dị.

Đền, chùa cổ Việt Nam có 3 kiểu kiến trúc chính :

Chữ tam, Chữ công, và chữ Đinh

Hình chữ Tam gồm 3 tòa ngang, từ cửa vào lần lượt là chùa Hạ, Trung, Thượng. Mỗi tòa có những tượng riêng. Chùa chữ tam hiện nay còn không nhiều. Tiêu biểu là chùa Tây Phương ở Hà Tây, chùa Kim Liên ở Hà Nội.

Hình chữ Công, hình chữ H nằm ngang, gồm hai tòa ngang được nối với nhau bởi một tòa dọc (gọi là ống muống). 

- Tòa ngang ở ngoài là Tiền đường, hay Bái đường, cũng còn gọi là chùa Hộ vì hay để tượng Hộ pháp. 

- Tòa dọc gọi là Thiêu hương (rất nhiều chỗ do không biết nên viết là thiên hương, thiện hương), hay cũng là Chính điện, nơi để bàn thờ chính.

- Tòa ngang cuối là Thượng điện, hay Hậu điện.

Hình chữ Đinh, hình chữ T lộn ngược, thực ra là giản lược của chùa chữ Công. . 

- Tòa ngang vẫn là Bái đường, Tiền đường.

- Tòa dọc gọi là chuôi vồ, là Chính điện. 

Những đền chùa đủ rộng, có các dãy hành lang bao quanh, trông giống chữ Quốc, nên gọi là "Nội công ngoại quốc".

Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự), ngôi chùa chữ tam đẹp nhất, với những mái đầu đao cong vút duyên dáng.

Cũng có trường hợp kiến trúc nửa chữ Công, nửa chữ Tam, đó là khi hai chùa Hạ và Trung của chữ Tam lại được nối với nhau bởi một ống muống, còn chùa Thượng vẫn đứng tách ra. Tiêu biểu là ngôi chùa Thầy (Thiên Phúc Tự) nổi tiếng đất Hà Tây.

Kiến trúc Thủy đình là đặc trưng riêng có của đồng bằng Bắc bộ và cũng là riêng có của Việt Nam, gắn với hình thức sân khấu Múa rối nước.

Thủy đình chùa Thầy, chùa Nành là những hình ảnh tuy không hoành tráng, nhưng rất sâu đậm với người Việt. Nếu có đi đâu, bỗng gặp một thủy đình, hãy hình dung đến rối nước...
     Một nơi khác, trên hòn đảo giữa hồ sen, có tòa đình nhỏ cũng rất đẹp. Đó là chùa Hoàng Xá (Hoa Vân Tự), cách Hà Nội không xa - xã Hoàng Ngô, nay thuộc thị trấn Quốc Oai, ngoại thành Hà Nội.

 Tòa thủy đình hoành tráng của đền Đô. Đây là nơi biểu diễn hát quan họ chứ không phải rối nước.

Ở giữa thiên nhiên, non xanh nước biếc...

Cổng chùa

Bước vào chùa, đầu tiên hầu như bao giờ cũng là Tam quan.

Tam quan không phải là đặc thù của chùa, vì đình, đền, miếu, thậm chí là cổng làng, ... thì cổng cũng đều là Tam quan, tức là Cổng gồm 3 cửa cả. Với các công trình đó, Tam quan thường chỉ đơn giản là để phân chia độ trang trọng, tạo tính thẩm mỹ, cân đối...

Nhưng riêng với chùa, thì Tam quan còn mang một ý nghĩa riêng; đó là Tam quan tương ứng với Tam quán : Không quán, Giả quán, Trung quán, đó là những con đường để đạt đến Phật quả. Do đó nếu Cổng có xây thành một tòa, thì cũng chia thành 3 gian cổng, 3 bộ cửa.

Như dưới đây là cổng chùa Láng (Chiêu Thiền Tự), ngôi chùa gắn liền với Từ Đạo Hạnh từ gần nghìn năm trước. Vì chùa có không gian dài rộng, nên có đến 2 Tam quan: Tam quan ngoại gồm 4 cột trụ có bắc mái ở giữa, và Tam quan nội là một tòa 3 gian ở trong.

Tam quan chùa Báo Quốc - Huế. Chùa Báo Quốc tên đầy đủ là Sắc Tứ Báo Quốc Tự (Chùa Báo ơn nước được dựng theo lệnh vua), một ngôi chùa quan trọng triều Nguyễn.

Tất nhiên không phải tất cả mọi cổng chùa đều là Tam quan. Những chùa do những nguyên nhân khác nhau có thể có số cửa khác nhau.

Như chùa Trấn Quốc, vì nằm trên đảo, xưa kia không có cổng. Cho đến khi đắp con đường nhỏ nối với đường đê Cố Ngự (sau bị đọc nhầm thành Cổ Ngư), thì mới có cổng, nhưng cổng cũng chỉ có 1 cửa, vì con đường bé quá, lấy đâu ra mà tam quan.

Hoặc như chùa Bà Đá (Linh Quang Tự), bị dân chiếm hết xung quanh, chỉ còn một lối đi bé tí, nên cũng chỉ có một cửa.

Ngược lại, như chùa Nành (Pháp Vân Tự) ở Ninh Hiệp, thì lại có Ngũ môn quan to hoành tráng.

Có lẽ đây là một trong những cổng chùa cổ to nhất.

Cổng tam quan có cánh cửa gỗ đẹp nhất có lẽ thuộc về chùa Keo ở Thái Bình (Thần Quang Tự). Tam quan chùa dựng bằng gỗ, không cao to, mà chỉ như một ngôi nhà 3 gian thông thường (các cụ tính cứ 4 cột là 1 gian). Cổng chùa nhìn ra một hồ bán nguyệt, hai bên tường chỉ là tượng trưng, ngăn cách không gian, chứ không có vai trò bảo vệ. 

Tam quan chùa Keo chỉ mở trong dịp lễ hội, muốn ra vào, thì theo hai cổng nhỏ hai bên cách xa cổng chính. Do cách xa, nên Tam quan này không trở thành Ngũ quan như chùa Nành.

Hai cánh cửa gỗ của cửa chính Tam quan chùa Keo là một tác phẩm điêu khắc gỗ tuyệt đẹp đời Lê. Trên cổng khắc hình rồng ổ, nghĩa là ngoài rồng to (rồng mẹ), còn có các rồng con quấn quýt. Bên dưới là mây cuộn như sóng nước, ở chính giữa là mặt trăng.

Hoa văn trang trí "hỏa vân" (mây lửa) của rồng cửa chùa Keo rất đẹp. Nếu như thân rồng uốn lượn, bờm theo chiều ngang, thì hỏa vân hình đầu đao chỉ tỏa theo chiều dọc, lên trên và xuống dưới.

Một số cửa chùa mới làm về sau có nhiều cánh cũng chi phí tốn kém để khắc rồng, nhưng rất kém, vì hỏa vân tỏa lung tung. Như hai cánh cổng đền Đô, rất tốn kém nhưng trông bố cục hỏng, đường nét lộn xộn, kém quá xa bức cửa này.

(Tuy vậy, đây chỉ là hai cánh cửa phiên bản thôi các bác ợ. Bản gốc nằm trong bảo tàng Mỹ thuật lâu rồi).

Tòa tam quan chùa độc đáo nhất mà tớ từng thấy là tam quan chùa Kim Liên ở Hồ Tây.

Tòa tam quan này độc đáo ở chỗ : Toàn bộ cấu kiện gỗ nặng cả chục tấn được dồn lên 4 chiếc cột gỗ đứng thằng hàng. Những cột gỗ này không chôn xuống đất, mà chỉ được đặt thăng bằng lên 4 phiến đá kê chân. 

Nghĩa là chiếc cổng phải cực kì cân bằng. Tưởng tượng rằng nếu chỉ cần có một sự mất thăng bằng nào đó dù nhỏ, thì cổng cũng đổ từ lâu rồi. Thế nhưng hơn 200 năm trôi qua rồi, cổng vẫn đứng đó, với lớp mái ngói nặng nề nhưng lại thanh thoát như muốn bay lên.

Cổng chùa rất đúng với hình ảnh bông sen vàng bay lên.

Qua Tam quan là vào đến sân chùa. Sân chùa rộng hay hẹp còn tùy vào địa thế. Và cũng tùy vào địa thế mà giữa sân chùa có công trình nào không. Thông thường sân chùa để trống.

Cũng có trường hợp như chùa Láng, giữa sân có đình bát giác, là nơi để kiệu khi làm lễ thánh. Điều này rất đặc biệt, vì chùa Láng thuộc dòng Mật tông, thờ Từ Đạo Hạnh vừa là Sư, vừa là Thánh, nên khi cúng có cả rượu thịt, trong chùa lại làm cả hậu cung kín mít y như các ngôi đền, đình.
     Đình bát giác này là một kiến trúc không chỉ độc đáo, mà còn là duy nhất ở một ngôi chùa cổ. Các chùa khác mà tớ đã biết không làm nhà kiệu ở ngay sân trước của chùa bao giờ.
     À, có chùa Hương, có cả một cái lầu rất lớn trước chùa Thiên Trù, nhưng có vẻ đó là công trình độc lập, không phải cái nhà kiệu của chùa.

Chùa Hà Nội: Có đến 150 chùa được công nhận di tích. Những chùa nổi tiếng còn lại nhiều lắm:

Vòng quanh hồ Tây:

- Chùa Trấn Quốc: cổ nhất, đẹp, ý nghĩa, quá nổi tiếng

- Chùa Ngũ Xã: ở giữa bán đảo Ngũ Xã, có pho tượng Phật đồng lớn nhất nội thành HN, chứa đựng trong nó những điều rất thú vị. (Cạnh đó là chùa Châu Long, không đẹp lắm).

- Chùa Kim Liên: ngôi chùa rất đẹp với tam quan độc đáo nhất VN, nay đang tu sửa. Có những tháp mộ giữa hồ.

- Chùa Hoằng Ân, hay Quảng Bá: đường vào Phủ thì rẽ phải, gần ngay "đường Thái Lan", chùa đẹp, nơi có mộ Đệ nhất Pháp chủ VN, vườn tháp. (Gần đó là chùa Phổ Linh nhìn ra hồ sen cũng đẹp).

- Chùa Tảo Sách: trên đường Lạc Long Quân, đối diện UBND Tây Hồ, rất đẹp và nổi tiếng, đông nghịt.

- Chùa Vạn Niên: ngay cạnh Tảo Sách, cũng đẹp. Gần đó có chùa Thiên Niên, Ức Niên, nhưng bình thường.

- Chùa Vĩnh Khánh (Võng Thị): đi đường dọc bờ hồ Tây sẽ thấy đình Võng Thị và chùa, vừa xây lại, to cao hoành tráng, không còn cổ kính nữa nhưng cũng được.

Ngoài ra quanh Hồ Tây còn hàng loạt chùa nữa. Quá lên đê sông Hồng xa hơn cầu Thăng Long sẽ có đình chùa Vẽ...

Khu phố cổ- Hoàn Kiếm

- Chùa Hòe Nhai: phố Hàng Than, chùa rất đẹp, tượng gỗ cổ đẹp, đặc biệt là bộ tượng Vua đội Phật độc đáo nhất VN. Tổ đình Tào Động.

- Chùa Huyền Thiên: ngay bên cạnh chợ Đồng Xuân: vốn là đạo quán của đạo sĩ biến thành chùa, nên còn tượng Trấn Vũ to đùng ở giữa.

- Chùa Cầu Đông: trên phố Hàng Đường, chùa nhỏ, có tượng Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung (tượng xấu nhưng duy nhất).

- Chùa Lý Quốc Sư: phố Lý Quốc Sư, với tượng đá Quốc sư đặc biệt, và một cây cột đá cổ rất đẹp cạnh cổng

- Chùa Bà Đá: cổng nhỏ trên phố Nhà thờ, nhưng chùa bên trong rất đẹp, tượng lớn, cổ, và đẹp, rất nên đến.

- Chùa Quán Sứ: khỏi nói.

- Chùa Hàm Long (gần nhà mình)

- Bên kia cầu Chương Dương có chùa Bồ Đề, cạnh sông Hồng, tĩnh, đẹp, có tháp mộ Đệ nhị Pháp chủ PGVN. Nơi nuôi dưỡng trẻ mồ côi. Chùa Kim Quan, ngôi chùa cổ đã bị quên lãng nhiều.

Quận Ba Đình - Cầu Giấy

- Chùa Một Cột: khỏi nói

- Chùa Kim Sơn: góc phố Kim Mã - Giang Văn Minh, vườn rộng đẹp, tượng cổ, ít mở cửa.

- Chùa Bát Tháp: mặt phố Đội Cấn gần Liễu Giai, cổng chùa lớn, vườn rộng, yên tĩnh.

- Chùa Hà: phố Chùa Hà, nổi tiếng cầu Duyên.

- Chùa Thánh Chúa: nằm giữa trường ĐH Sư phạm.
Ở phía Tây có cụm ba chùa có liên quan với nhau khá hay:

- Chùa Láng: rất cổ kính, khuôn viên đẹp, chùa đẹp, độc đáo của dòng Mật Tông, nhiều tháp mộ, do Từ Đạo Hạnh xây.

- Chùa Nền: nhỏ, bình thường, nhưng là nền nhà của Từ Đạo Hạnh.

- Chùa Duệ: thờ pháp sư Đại Điên, là người đã giết cha Từ Đạo Hạnh, rồi bị Từ Đạo Hạnh giết (trước khi đi tu).

Quận Đống Đa

- Chùa Phúc Khánh: chân cầu Vượt Ngã tư Sở, phố Sơn Tây, là Tổ đình, cực kỳ nổi tiếng và linh thiêng. 

- Chùa Bộc: mặt đường Chùa Bộc, có pho tượng Quang Trung đặc biệt.

- Chùa Xã Đàn: trong ngõ Xã Đàn: chùa rộng, có một số di vật cổ.

- Chùa Nam Đồng: trong ngõ Nam Đồng phố Nguyễn Lương Bằng, có đàn thờ vọng Xã Tắc, chùa đẹp.

Quận Hai Bà - Hoàng Mai

- Cạnh hồ Thiền Quang: là một cụm 3 chùa nhỏ: Thiền Quang, Quang Hoa, Pháp Hoa, vốn là chùa 3 làng bị dồn lại đây.

- Chùa Chân Tiên: trên phố Bà Triệu phía bên trái, gần Tuệ Tĩnh. Chùa rất đẹp.

- Chùa Tào Sách: góc Lê Đại Hành - Bà Triệu, chùa đẹp nhưng đang tu sửa.

- Chùa Liên Phái: ngõ Chùa Liên Phái phố Bạch Mai, chùa rất đẹp, sâu rộng, có ngôi tháp đẹp, phía sau có vườn tháp mộ (phải đi xuyên qua buồng ở của sư).

- Chùa Quỳnh: ngõ Quỳnh, đẹp, rộng rãi.

- Chùa Hưng Ký: ngõ Chùa Hưng Ký, phố Minh Khai, chùa độc đáo với những mảnh ghép sứ, tượng A Di Đà gỗ to nhất Hà Nội.

Ngoài ra còn chùa cạnh đền Hai Bà cũng đẹp, chùa Đức Viên, Hộ Quốc, Hương Thể...

Quận Hoàng Mai còn chùa Hoàng Mai, Tứ Kỳ,....
........................

 (12/3/2014)

  

02/03/2022

Bài thuốc hay cho thời Covid (st)

 


Bài thuốc hay – Gia truyền, do một lương y người miền Nam phổ biến và áp dụng, đã chữa khỏi một cách hiệu quả cho một số người bị covid dù có bệnh nền.

Đó là, lấy 1 c tỏi lột sạch vỏ đâm nhiễn (chỉ đập nát, đâm, giã nhuyễn, không dùng cách khác như băm hoặc xay) trong tô (bát) sau đó để yên 05 phút cho chất Allicin được tạo ra đầy đủ trong tỏi.

Sau đó dùng 1 lít nước sôi đổ vào và xông (gọi là xông tỏi).

Ta chỉ xông mặt. Hít thật mạnh bằng mũi và miệng cho hỗn hợp hơi nước và Allicin vào phổi.

Chất Allicin này có tác dụng diệt virus rất mạnh. Ngoài ra, Allicin này còn là chất chống đông máu và làm tan các cục máu đông. Một trong những nguyên nhân gây đông đặc phổi, gây khó thở và tử vong của virus.

Phổi sẽ thông thoáng và thở tốt không cần các biện pháp trợ thở. Nếu các bn đã nhiễm bệnh thì 1 ngày xông 3 lần sau bữa ăn. Nhẹ thì 3 ngày. Nặng 5 ngày.

Phương pháp này đặc biệt giúp những người bệnh nền cao vẫn thoát được dịch bệnh.

Các dịch chất của tỏi khi được hấp thu qua xông sẽ ức chế và tiêu diệt virus  Ngoài ra còn kịch hoạt hệ miễn dịch của cơ thể sản suất tế bào T (Tế bào lympho T  một loại bạch cầu thuộc dòng tế bào lympho, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch đáp ứng của cơ thể.) của hệ miễn dịch.

Nếu để phòng lây nhiễm thì chỉ xông 1 lần vào buổi chiều.

Đây là phương pháp cổ truyền của Lương y đã 30 năm nay để điều trị cảm cúm và các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp. Nhưng giờ đây khi áp dụng vào corona lại vô cùng hiệu quả.

Mong các bạn và mọi người ghi lại để dùng cho mình và phố biến cho mọi người để toàn dân vượt qua đại dịch. Trân trọng .

Chú giải:

Tỏi rất giàu chất dinh dưỡng. Theo nghiên cứu, trong 100g tỏi có chứa 6,36g protein, 33g carbohydrates, 150g calo và các dưỡng chất như vitamin nhóm B (B1, B2, B3, B6), sắt, canxi, kali, mangan, magie, photpho,...

Thành phần công hiệu chính trong tỏi là hợp chất hữu cơ sulfur và glycosides. Ngoài ra, trong tỏi còn có hàm lượng cao germanium và selen. Đặc biệt, hàm lượng germanium trong tỏi cao hơn so với các dược liệu như nhân sâm, trà xanh, trà đỏ,...

Tác dụng cơ bản của tỏi chủ yếu đến từ allicin. Trong tỏi tươi không có allicin tự do, chỉ có tiền chất của nó là alliin. Khi tỏi được băm nhuyễn, enzyme trong tỏi bị kích hoạt sẽ kích thích alliin hình thành allicin.

 

Khoai Sọ

 Tập hợp từ net.

Xấu xí, tương đối rẻ nhưng khoai sọ được ví với nhân sâm về sự bổ dưỡng

Các chuyên gia về sức khỏe đều khuyên mọi người nên thường xuyên dùng khoai sọ bởi chúng có công dụng được ví như nhân sâm lại rất rẻ.

Đông y  tin rằng nếu sử dụng khoai sọ như một món khai vị, các món chính sau đó sẽ dễ dàng được tiêu hóa hơn, cách ăn uống này đặc biệt thích hợp cho những người có sức khỏe kém, viêm dạ dày.

Giống khoai này chứa rất nhiều chất dinh dưỡng như hợp chất hữu cơ, khoáng chất và vitamin cần thiết cho sức khỏe. Đây là nguồn thực phẩm cung cấp rất nhiều chất xơ và carbohydrate, các loại vitamin như vitamin A, vitamin C, vitamin E, vitamin B6, folate, magiê, sắt, kẽm, phốt pho, kali, mangan và đồng.

Có nhiều chất tốt như vậy khiến khoai sọ trở thành thực phẩm có nhiều lợi ích

Thậm chí nhiều chuyên gia còn ví khoai sọ như một loại nhân sâm giá rẻ với những lợi ích vàng:

1. Có lợi cho đường tiêu hóa

Khoai sọ chứa khoảng 27% lượng chất xơ bạn cần hấp thụ mỗi ngày từ khẩu phần ăn. Vì vậy, loại thực phẩm này rất có ích trong việc hỗ trợ hệ tiêu hóa khỏe mạnh. Ngoài ra khoai sọ còn giúp ngăn ngừa một số vấn đề như xì hơi, đầy bụng, chuột rút, táo bón và thậm chí bệnh tiêu chảy.

2. Nhuận tràng

Giàu chất saponin, có thể tạo thành một màng bảo vệ trên thành dạ dày, bôi trơn đường ruột giúp nhuận tràng và bảo vệ hệ tiêu hóa khỏe mạnh.

3. Ngăn ngừa bệnh tiểu đường

Chất xơ trong khoai sọ có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường vì chúng có thể điều chỉnh quá trình phóng thích insulin và glucose.

4. Có lợi cho huyết áp và giúp tim khỏe mạnh

Khoai sọ có hàm lượng kali đáng kể, kali không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển chất lỏng giữa các màng và các mô trong cơ thể mà còn giúp giảm căng thẳng, áp lực lên các mạch máu, động mạch.

Khoai sọ còn tốt hơn cả các loại thực phẩm khác mà lâu nay vẫn được ca ngợi như bông cải, nhóm cải mầm, bột yến mạch

5. Làm sạch răng

Trong khoai sọ có nhiều khoáng chất tốt cho sức khỏe trong đó có flo và nó có chức năng làm sạch và bảo vệ răng tự nhiên, an toàn.

6. Ngăn ngừa các loại bệnh ung thư

Trong khoai sọ hàm có lượng cao vitamin A, vitamin C và các chất chống oxy hóa phenol khác giúp tăng cường hệ miễn dịch và loại bỏ các gốc tự do nguy hiểm ra khỏi cơ thể. Các gốc tự do là sản phẩm phụ nguy hiểm sinh ra từ quá trình tế bào trao đổi chất và có thể “biến” các tế bào khỏe mạnh thành các tế bào ung thư.

Bằng cách loại bỏ các gốc tự do này, khoai sọ gần như bảo vệ chúng ta hoàn toàn khỏi bệnh ung thư nguy hiểm. Hơn thế nữa, trong khoai sọ còn có chất cryptoxanthin với khả năng ngăn ngừa ung thư vòm họng và ung thư phổi.

Lưu ý:

- Nên ăn số lượng ít đối với những người bị đờm, cơ địa nhạy cảm (dễ nổi mề đay, eczema, hen suyễn, viêm mũi dị ứng), chán ăn.

- Bên cạnh đó, khoai sọ cũng có tác dụng khử trùng, giảm sưng, làm tan máu bầm. Nếu bị ong đốt, cách phổ biến nhất là sử dụng cuống khoai sọ để xoa lên vùng bị đốt.

 

01/03/2022

Bạn - Bè

 


BẠN - BÈ thường thấy đi chung

Nhưng BÈ và BẠN chẳng cùng bên nhau

 

BẠN thì trước cũng như sau

Sang hèn không đổi, nghèo giàu chẳng thay

BẠN, khi ta gặp không may

Góp lòng xoay trở, chung tay đỡ đần

BẠN, khi ta xuống tinh thần

Tận tâm an ủi, ân cần xẻ chia

BẠN, không mốt nọ mai kia

Nghe lời xiểm nịnh mà lìa tình thân

BẠN, trong suốt quãng đường trần

Không lừa phản, chẳng tính phần thiệt hơn

BẠN thì trong mọi nguồn cơn

Buồn vui chung với vui buồn của ta

 

BÈ, thường cùng nhịp hoan ca

Hân hoan vui vẻ với ta tiệc tùng 

Khi ta gặp chuyện khốn cùng

BÈ, nhìn ta lạ như từng chưa quen

BÈ, luôn biến trắng thành đen

BÈ, hay đố kỵ, ghét ghen, nghi ngờ

Khi ta lỡ vận sa cơ

BÈ, không nâng lại phất cờ, đá thêm

BÈ, nào ngần ngại đi đêm

Bán ta bằng cái lưỡi mềm không xương

BÈ, luôn miệng chữ mến thương

Nhưng dao găm lại lụi sườn, đâm lưng

BÈ, tay ảo thuật vô chừng

Và vì chút lợi chẳng ngừng hại ta

BÈ, tâm đầy những quỉ ma

Làm chi còn chỗ Quốc gia, Đồng bào

 

*

BẠN, ôi nghĩa ấy ngọt ngào

Là DUYÊN là HẠNH chớ nào bỗng nhiên

BẠN ơi, hỡi các BẠN HIỀN !

BẠN là hoa HẠNH hoa DUYÊN, hoa ĐỜI

 

*

CẢM ƠN TÌNH BẠN TUYỆT VỜI

SÓNG XÔ TÔI XUỐNG, BẠN NGƯỜI NÂNG LÊN

 

Ngô Minh Hằng

 

Trộm áo nhà vua - Kinh Bách dụ

                                                     Ví dụ thứ tám trong kinh Bách dụ - Lời Phật dạy.

Thuở xưa, có người nhà quê, lẻn vào kho áo của vua lấy trộm một bộ y phục, rồi lén chạy đến một phương xa.

Sau khi vụ mất trộm bị phát giác, nhà vua bèn phái nhiều binh lính đến các nơi tra tìm, cuối cùng bắt được tên ăn trộm đưa về tòa án. Khi bị thẩm vấn, y không thừa nhận y phục nầy là đã lấy trộm của vua, còn nói là di sản của tổ phụ lưu truyền lại. Vua mới bảo y lấy y phục ấy mặc thử.

 Y không biết cách mặc, đem món đang mặc trên cánh tay mà mặc dưới chân, đem món đang mặc ngang lưng bụng mà mặc lên trên đầu.

Vua thấy thế phán rằng:

– Ngươi mặc lộn như vậy, chứng tỏ y phục đấy chẳng phải của tổ phụ ngươi lưu truyền. Huống nữa y phục nầy là của vua và các quan mặc, tổ phụ ngươi làm gì có thứ nầy?

Tên ăn trộm cứng họng, không thể trả lời được, đành phải cúi đầu thừa nhận.

** Chuyện nầy tỷ dụ: Ngoại đạo ăn trộm giáo nghĩa của Phật pháp làm của mình; nhưng vì không hiểu rõ chính nghĩa Phật pháp; ăn trộm rồi để đó chứ không dùng được chuyện gì, chỉ được cái điên đảo tạp nhạp không thứ tự, lớp lang. Kết quả không khỏi bộc lộ bản chất của bọn họ.

Đừng tưởng

 

Tác giả: nhà thơ Bùi Giáng

Đừng tưởng cứ núi là cao.. Cứ sông là chảy, cứ ao là tù.

Đừng tưởng cứ dưới là ngu.. Cứ trên là sáng cứ tu là hiền.

Đừng tưởng cứ đẹp là tiên.. Cứ nhiều là được cứ tiền là xong, 

Đừng tưởng không nói là câm.. Không nghe là điếc không trông là mù.

Đừng tưởng cứ trọc là sư.. Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan

Đừng tưởng có của đã sang.. Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

Đừng tưởng cứ uống là say.. Cứ chân là bước cứ tay là sờ.

Đừng tưởng cứ đợi là chờ.. Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần.

Đừng tưởng cứ mới là tân.. Cứ hứa là chắc cứ ân là tình

Đừng tưởng cứ thấp là khinh.. Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to

Đừng tưởng cứ quyết là nên.. Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua

Đừng tưởng cứ lớn là khôn… Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng.

Đừng tưởng giàu hết cô đơn.. Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo.

Đừng tưởng cứ gió là mưa.. Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè.

Đừng tưởng cứ hạ là ve.. Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…

Đừng tưởng thu lá sẽ tuôn.. Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.

Đừng tưởng cứ thích là yêu.. Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay.

Đừng tưởng vua là anh minh.. Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.

Đừng tưởng đời mãi êm đềm.. Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.

Đừng tưởng cười nói ân cần.. Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.

Đừng tưởng trong lưỡi có đường.. Nói lời ngon ngọt mười phương chết người

Đừng tưởng cứ chọc là cười.. Nhiều khi nói móc biết cười làm sao.

Đừng tưởng khó nhọc gian lao.. Vượt qua thử thách tự hào lắm thay.

Đừng tưởng cứ giỏi là hay.. Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần

Đừng tưởng nắng gió êm đềm.. Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng.

Đừng tưởng góp sức là chung.. Chỉ là lợi dụng lòng tin của người.

Đừng tưởng cứ tiến là lên.. Cứ lui là xuống, cứ yên là nằm.

Đừng tưởng rằm sẽ có trăng.. Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu

Đừng tưởng cứ khóc là sầu.. Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng.

Đừng tưởng cứ nghèo là hèn.. Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.

Đừng tưởng quan chức là rồng.

Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.


——————– ☆☆☆☆☆ ——————–

Đời người lúc thịnh, lúc suy.

Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.

Bên nhau chua ngọt đã từng

Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu

Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.

Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!