19/05/2023

Hành hương đất Phật chùa Hương (phần 1)

       Trước đây, hồi còn công tác, lại có sức khoẻ nên năm nào đầu Xuân, năm mới cũng hành hương về chùa Hương mồng Hai, Yên Tử mồng Ba. Từ độ covid không có điều kiện nữa, cũng buồn vì đã thực hiện được những hơn 30 năm cơ mà.

Không đến được chùa Hương, nhưng những ấn tượng trên đường hành hương đất Phật còn lưu ấn mãi, không phai.

Khi đi, cũng chả chuẩn bị nhiều. Đồ cúng 3 nơi chính là đền Trình, chùa Thiên Trù và động Hương tích thôi. Tuỳ thời tiết mà chuẩn bị đồ mặc, nhưng gọn, nhẹ để còn có sức leo núi. Thêm chút nước uống, còn đồ ăn thì hưởng lộc đồ cúng.

Lộ trình đi thăm quần thể Hương Sơn, thông thường có 3 tuyến chính mà du khách và khách hành hương đến đất Phật thường lui tới:

      -  Tuyến đường chính đưa tới chùa Hương Tích.

      -  Tuyến đường thứ hai đưa tới chùa Hinh Bồng.

      -  Tuyến đường thứ ba đưa tới chùa Tuyết Sơn.

Trong đó, tuyến đường chính để vào động hay chùa Hương Tích là “trung tâm điểm” thu hút nhiều nhất.

Với ba tuyến trên, ta không thể đi hết trong vòng một ngày, nhanh lắm cũng phải mất hai ngày, thong thả phải mất ba ngày mới tạm nói là ta đã đi gần hết những điểm chính của quần thể này.

 


Cách nhà Hà Nội khoảng 60 cây, qua Hà Đông, rẽ trái ở Ba La đi Vân Đình, theo đê, qua Tế Tiêu là tới Bến Đục (làng Đục Khê). Đây đã là cửa ngõ đất Phật rồi. Đi đoạn nữa là tới bến Yến (làng Yến Vỹ - đuôi chim nhạn).

Đi đã nhiều lần nên chỉ quen thuê 1 nhà đò chở cho thuận tiện. Điện nhắn trước nên chị nhà đò đã đợi sẵn tại bến đưa sang đền Trình.

Đền Trình, tên tự là “Ngũ Nhạc linh từ”, có kiến trúc bề thế như một ngôi đình làng. Trong sân, trước cửa đền có con voi đá đóng yên cương và ghế kiệu trên lưng. Một lư lớn bằng xi măng cũng được đặt ngay giữa sân để đốt vàng hương. Tuy chúng tôi đi chùa Hương sớm trước ngày mở Hội nhưng thấy du khách đã đổ về đây không phải là ít. Trong đền thờ, khói nhang nghi ngút đến nghẹt thở, có con ngựa gỗ to sơn son và trên bệ thờ có tượng tướng quân thời vua Hùng. Chung quanh chùa, vài cây si lâu đời mọc rễ chằng chịt với những hình thể uốn lượn rất đẹp, đẹp không thua gì những cây si ở phủ Tây Hồ ở Hà Nội. Ngay sau đền là tòa nhà hai tầng có tháp vươn lên khỏi hàng cây cao trông rất đẹp.



Khách hành hương thường đều đến đền Trình như một sự “trình diện” hay “cáo kiến” với các vị thánh, thần ở đây trước khi vào chùa Hương để mong khi vào chùa cầu xin, họ tin rằng những điều cầu khẩn những điều tốt lành sẽ được có kết quả hơn.

Bên đền Trình có năm ngọn núi gọi là núi Ngũ Nhạc, cho nên đền này còn được gọi là đền Trình-Ngũ Nhạc. Gọi như thế cũng để phân biệt với đền Trình-Phú Yên nằm trên tuyến đường suối Tuyết. Suối Tuyết sẽ đưa du khách đi thăm khu vực quần thể động Tuyết Sơn và chùa Bảo Đài (trên tuyến đường thứ ba đến chùa Tuyết Sơn).

Trở ra, lên thuyền để ta vào chùa trong - ấy là tôi đi tuyến chính lên động Hương tích.

 Thuyền từ từ lướt nhẹ theo dòng suối Yến. Nước vỗ vào mạn thuyền nghe thật vui tai. Cảnh vật ở đây, đúng là cảnh thiên thai, đẹp như một bức tranh sơn thủy. Trước là núi, hai bên là núi, trên cao là trời xanh, ở giữa là dòng suối lững lờ trôi một cách êm đềm, bình thản.

 Núi có cái đẹp của núi. Núi không cao nhưng trùng trùng điệp điệp, lớp trước lớp sau, lớp tỏ lớp mờ, lớp ẩn lớp hiện. Mầu sắc của núi biến đổi luôn luôn theo ánh sáng mặt trời đang lên.

Nước có cái đẹp của nước. Suối Yến không sâu nhưng mở rộng ra như thể không bờ. Nếu có bờ, cũng chỉ là bờ của những thửa ruộng đồng ngập nước. Từ lòng suối ngoi lên những mảng cỏ xanh. Thêm vào đó, những đám rong rêu lay động, lập lờ trong lòng suối như tóc tiên buông xõa cuốn nhẹ lấy mái chèo.

Trong làn nước nhẹ mọc rêu xanh,

Như gấm mơ hồ dưới thủy tinh.

Chèo khỏa, chèo lên, chèo lại khỏa,

Thuyền đi trên vạn sắc màu xinh.

          (Trích bài “Thăm Cảnh Chùa Hương” của Xuân Diệu)

Hình bóng phản chiếu trên nước của núi và mây như quyện lại với nhau một cách hài hòa và cùng trôi chẩy theo chiếc đò.

Qua mỗi khúc ngoặt hay quanh co của suối, cảnh vật lại đột ngột thay đổi. Quang cảnh thật hùng vĩ nhưng vẫn dung dị êm đềm như thơ, vẫn mang cái tinh khiết thoát tục của nơi đất Phật. Ai đặt chân đến đây cũng thấy lòng mình thanh thản, xa hẳn cõi bụi trần. Người ta đến đây, với cảnh trí này, không phải chỉ để ngắm cái cảnh đẹp của thiên nhiên mà còn tự muốn bỏ đi những vướng mắc, trần trượt của bản thân mình trong đời sống hàng ngày.

Như khi ta thấy những mỏm núi chìa hẳn ra ngoài suối với hình thù ngộ nghĩnh. Hay ngay trên đỉnh của ngọn núi nhỏ nằm sát bên bờ suối có một chiếc miếu nhỏ nằm chênh vênh trên đó nhưng lại tuyệt đẹp, thanh thoát, in bóng vươn lên trên nền trời cao. Hay bất chợt, cùng bắt gặp những hang động hiện ra với những mảng dây leo buông tỏa xuống như mành. 

Khung cảnh nên thơ này không phải chỉ là cái đẹp của núi, của suối và của mây không thôi, mà nó còn được tô điểm bởi những rặng cây thẳng tắp mọc trên triền núi cùng với cái dáng vươn cao của những cây gạo. Người ta nói, những cây gạo nàyhoa sẽ đỏ rực như những đốm lửa đỏ in trên nền trời xanh vào mùa hè.

Vài con trâu hững hờ ăn cỏ trên đồng, cùng hình ảnh vài ngư phủ đang bì bõm đánh dậm trên cánh đồng chiêm, hay hình ảnh của người tiều phu đang lom khom vác củi rừng trên triền núi, tất cả đều là những nét chấm phá khá đặc biệt của vùng Hương Sơn. Những nét chấm phá ấy còn hòa trong tiếng chuông trầm buồn ngân lên từ những ngôi cổ tự hay những tiếng ríu rít của đàn chim sáo trên cành cây cổ thụ.

Thuyền càng vào sâu, cảnh vật càng đẹp và nên thơ. Có những áng mây trắng vương trên đỉnh núi. Bóng núi và mây in trên mặt nước, đôi khi làm ta cứ lầm tưởng như trên mặt suối đương phủ một lớp sương mù bay bay. Tiếng nước vỗ mạn thuyền nghe thật êm ả làm sao. 

Chẳng mấy chốc chúng tôi thấy một chiếc cầu bắc ngang qua suối Yến. Cô lái đò chỉ:

      - Đó là cầu Hội.



Cầu Hội có dáng “hình thang” thật đơn giản, cao và thông thoáng. Chỉ là chiếc cầu gỗ mảnh khảnh nên nó lại phù hợp, hài hòa với sự êm đềm lắng đọng của cảnh vật chung quanh. Vì cầu Hội cao và thông thoáng nên thuyền qua lại ngược xuôi dưới gầm cầu được dễ dàng. Dưới gầm cầu, bóng núi và mây vẫn lung linh, trôi chảy theo dòng suối mà không bị vướng mắt, hay bị cắt ngang hoặc che lấp.

Mây luồn đáy nước qua cầu

Thuyền đi tưởng núi quay đầu trông theo.

          (Trích bài “Trên Đò Suối” của Hằng Phương)

Khu cầu Hội có những cây gạo rất to và đẹpChim chóc từng đàn bay về ríu rít trên cành những cây hoa gạo này.

Từ phía chân cầu bên trái của cầu Hội có con đường dẫn đến chùa Thanh Sơn.

Từ phía chân cầu bên phải của cầu Hội có hang Sơn Thủy Hữu Tình và còn có con đường đi vào làng Hội Xá.

 Hỏi cô lái đò:

 - Hàng ngày cô lái thuyền trên suối, với cảnh đẹp như thế này chắc cô thích lắm nhỉ?

- Vâng, có những hôm mây xuống thật thấp, mây trắng là là trên sườn núi. Trên mặt suối cũng có mây. Những hôm như thế thì đẹp lắm. Em cứ tưởng như em đang ở trên trời hay trên tiên cảnh. Có hôm sương mù, mọi cảnh vật như ẩn như hiện. Tuy lúc đó trời đất âm u, ảm đạm nhưng lòng mình cứ lâng lâng thanh tịnh thoát tục. Có những hôm trăng sáng, nước và ánh trăng như quyện vào nhau. Cảnh đêm yên tĩnh, em chỉ còn nghe thấy tiếng mái chèo khua nước, thỉnh thoảng lại nghe tiếng chuông chùa thánh thót vang ra. Nhìn lên trời thì sao sáng đầy trời....

Thế cô chèo đò trên suối có thường gặp những chuyện vui buồn gì không?

Chuyện buồn thì ít thôi. Em chỉ chèo thuyền cho khách hành hương thưởng ngoạn cảnh đẹp của Hương Sơn. Với lòng người lúc đó mở rộng theo đức Phật nên cũng chẳng ai muốn làm buồn lòng ai. Chỉ có những hôm nào, em không được khoẻ người thì chèo thuyền cũng thấy uể oải lắm.

Rồi nói tiếp:

Chúng em chỉ được làm công việc chèo thuyền nhàn hạ này trong mấy tháng mùa xuân thôi. Khi hội chùa Hương chấm dứt, số đông chúng em lại trở về nghề làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm hay lên rừng kiếm củi, hái mơ. Cũng vất vả lắm. Chiều tối, có khi em phải làm thuê, nhận “kén” về, luộc, rồi “đánh kén” thành “chỉ tơ” (chỉ tơ dệt vải) tới khuya mới được đi ngủ.

Chúng tôi đi thuyền trên suối Yến, vừa được ngắm cảnh đẹp vừa được trò truyện với cô lái đò dễ mến một cách chân tình. Một kỷ niệm thật khó quên.

Chẳng bao lâu, bến đò Trò đã hiện ra với đông đảo đám thuyền chở khách, cái đi vào cái trở ra. Được biết, vào ngày hội chùa Hương nơi bến đò này đông nghẹt những thuyền và người vào ra tấp nập. Hội chùa Hương kéo dài từ mùng 6 tháng Giêng tới cuối tháng Ba âm lịch.

Thuyền ghé khua bờ đá

Chim mừng, rừng véo von

Suối đến đây dừng lại

Tiễn khách trèo lên non.

          (Trích bài Đi Chùa Hương của Phạm Hổ)

Cô lái đò tắp vào bến, tìm nơi tốt để chúng tôi có thể dễ xuống thuyền. 



Bến đò Trò hay còn gọi là bến đò Thiên Trù. Dẫy thuyền nằm san sát im lìm chờ khách ngay dưới chân núi Mâm Xôi, có cây cổ thụ. Không xa đó, dãy quán ăn và quán bán đèn nhang, với nhiều hàng bán quà kỷ niệm cho khách thập phương đi lễ chùa.

Chùa Thiên Trù, tức “chùa Ngoài” gần ngay đó. Đi hết thêm một dốc nhỏ, chúng ta tới cổng ngoài của chùa. Cổng chùa là một kiến trúc cổ thuần túy Việt Nam, rất đẹp. Cổng được xây theo kiểu năm cửa, vòm cửa uốn cong hình bán nguyệt. Cổng hai tầng và có nhiều mái. Phía trên cửa giữa có hàng đại tự “Nam Thiên Môn” (Cửa Trời Nam).

Từ ngoài xa nhìn vào chùa, ta thấy chùa được xây trên một khoảng đất rộng, phẳng, có núi vây chung quanhTrước mặt là núi, hai bên là núi, phía sau cũng là núi. Những quả núi gần chùa không cao lắm, lại cao đều nhau, không xa nhau, cũng không chen nhau nên trông rất hài hoà. Chùa có kiến trúc thông thoáng không bị gò bó bởi hình ảnh nặng nề của núi.

Hai quả núi có tên là Phụ Mã ở hai bên trái và phải của chùa, núi Sau Chùa ở phía sau của chùa. Ba quả núi này được ví như ba ông “đầu rau” của bếp Thiên Trù. Nhìn rộng ra xa thêm, những núi đứng sau hai quả núi Phụ Mã, bên phải mang tên Tiên Sơn, bên trái mang tên Thung Mang. Bên cạnh núi Sau Chùa là núi Ông Chây. Nếu ta nhìn về chùa Hinh Bồng (cô vừa nói vừa chỉ tay về phía núi Hinh Bồng xa xa) là núi Lão. Sau núi Lão là núi Cỏ Bồng.

Núi bắc “đầu rau” mấy vạn niên

Mà màn biếc thẫm đẹp thiên nhiên?

Thiên Trù một khoảng êm phơi phới,

Núi ngắm nhau xanh một sắc hiền.

     (Trích bài “Thăm Cảnh Chùa Hương” của Xuân Diệu)

Các cụ gọi chùa Thiên Trù này là “Bếp Trời” vì các cụ tin rằng khu đất chùa này, theo phong thủy, tương ứng với chùm sao Thiên Trù ở trên trời. Chùm sao Thiên Trù lại tượng trưng cho cái bếp, cho sự ăn uống. Bếp thì có ba ông “đầu rau” để kê nồi.



Chùa có nhiều cây hoa gạo cổ thụ và có hai hàng cây hoa đại (cây bông sứ) trước cổng vào. Uyên say sưa nhìn ngắm những cây hoa gạo vươn cao.

Nếu ta đến thăm chùa vào giữa tháng hai ta, tức giữa hội chùa Hương thì ta sẽ thấy hoa gạo đỏ rực treo lơ lửng trên cành, có người ví nó trông giống như những đốm lửa nhỏ hiện trên trời xanh. Đẹp lắm! Vào cuối tháng ba, hoa gạo rụng thì tới lượt hoa đại nở rộ.  Hoa đại nở vừa đẹp lại vừa thơm.

Qua cổng là vào tới sân cấp thứ nhất của chùa. Một không gian thoáng rộng được mở ra. Chùa được xây trên mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài rất sâu theo kiểu “ngũ môn, tam cấp” (năm cửa, ba tầng bậc). Hai bên sân chùa là những gian nhà bán hàng cơm hay hàng bán quà kỷ niệm.  

Qua sân thứ nhất là tới bậc thềm thứ nhất, có độ hơn chục bậc bước lên cao, tới sân cấp thứ hai. Hai bên sân cấp thứ hai cũng là hai dẫy nhà hàng ăn. Giữa sân có một tháp chuông, kiến trúc ba tầng, mái rất lớn và tuyệt đẹp lại uy nghi. Các người bán quà kỷ niệm rong cứ theo chân chúng tôi mời mua những xâu tràng hạt, mầu nâu có, mầu đen có hay chỉ được làm bằng những hạt cây tròn mộc mạc.

Qua sân thứ hai, chúng tôi lại tới bậc thềm thứ hai, cũng khoảng hơn mươi bậc bước, đưa lên một sân cấp thứ ba cao hơn. Đây là sân của ngôi nhà Tam Bảo, cũng là sân chính của chùa Thiên Trù.  

Chính giữa sân đứng sừng sững một đỉnh đồng cao ba thước và một đỉnh hương đúc bằng xi măng, khói nhang nghi ngút suốt ngày. Hai con sư tử được sơn vàng nằm chầu trước cửa ngôi nhà Tam Bảo.

Ngôi nhà Tam Bảo là công trình kiến trúc chính của quần thể chùa Thiên Trùmột công trình kiến trúc quy mô lớn với phong cách truyền thống. Trên cột nhà Tam Bảo được treo nhiều câu đối sơn son thếp vàng. Bên trong có nhiều tượng Phật và các vị La Hán tạc bằng đá hay gỗ tuyệt đẹp, thể hiện một trình độ nghệ thuật và mỹ thuật rất cao.

Quần thể chùa Thiên Trù liên kết với nhau theo nhiều nền tầng cấp, cao thấp khác nhau rất hài hoà tạo nên một hình dáng kiến trúc tuyệt mỹ, vừa tráng lệ lại vừa thoát tục. Đứng về góc cạnh nào cũng thấy cái vẻ đẹp dung dị mà lại sâu xa của triết lý nghệ thuật xưa và cũng sâu lắng trong sự tôn nghiêm của triết lý đạo Phật.

Ngoài sân chùa có hồ bán nguyệt với hòn non bộ. Cây cối trong chùa xanh tươi mang vẻ đẹp thanh tao, gọn gàng bởi bàn tay con người. Cái đẹp của thiên nhiên hòa trong cái đẹp của nhân tạo làm tăng thêm vẻ siêu thoát của tín ngưỡng.  

Một khu bảo tháp sau chùa được xây dựng để chứa hài cốt của những vị trụ trì chùa này. Ngôi bảo tháp lâu đời nhất là bảo tháp Hoà thượng Viên Quang, được xây vào thế kỷ thứ 17. Tháp được xây bằng gạch đỏ, trên nóc tháp có mái cong như mái chùa.  

Trong chùa Thiên Trù còn có nhiều bảo vật cổ, trong đó phải kể đến quả chuông đúc vào thời Tây Sơn, năm Cảnh Thịnh thứ hai (1793). Quả chuông trước đây được để trong động Hương Tích, sau mới đưa ra Thiên Trù.

Quả thực ai đã đi chùa Hương, hay nói chung là Hương Sơn, ta không thể không đến chiêm ngưỡng cái đẹp, cái thanh thoát của chùa Thiên Trù.

17/05/2023

Nhớ món ngon xưa ngoại ô Hà Nội

 St và biên tập



Ngoại ô Hà Nội xưa có hơn 30 làng, nhà nào cũng có vườn trồng hoa, bao nếp nhà lá thâm thấp là cây cối xanh mát, bốn mùa thơm mùi quả chín. Con trai ngoại ô hiền lành, chăm chỉ, con gái nết na, đảm đang. Cứ xong công việc đồng ruộng trở về nhà là trai hay gái lại bắt tay vào làm quà mang vào bán trong thành. 

(Tớ không đề cập đến vùng bên kia sông Hồng, vì xưa, nó thuộc tỉnh Bắc Ninh. Hà Nội là trong sông, bao bọc bởi sông lớn. Mấy con sông nhỏ, lìu tìu như sông Tô, sông Nhuệ... không nên tính nhé, các bạn.

Dĩ nhiên sẽ thiếu nhiều, đương nhiên rồi, vì những 30 làng, 12 ấp ngoại ô cơ mà các bạn - không có khả năng sưu tầm ạ dù muốn lắm.)

Người ngoại ô ai cũng khéo tay, biết ăn, nên chế biến ra những món hợp khẩu vị làm người khó tính cũng hài lòng. Phía Nam có nhiều làng làm quà nổi tiếng, xưa có câu: “Rượu kẻ Mơ/Thơ kẻ Lủ”. Rượu kẻ Mơ đậm đà, dịu cổ họng và thơm nhẹ, còn làng Lủ có nhiều người học hành đỗ đạt, múa bút ra thơ. Làng Lủ xưa nằm bên sông Tô trong xanh, có bến cá lớn nhất phía Nam kinh thành. Dân làng mua cá da trơn để chế thành món chả cá bất hủ đãi bằng hữu. Rồi vài người vào trong phố mở quán ở khu vực phố Hàng Cân ngày nay. Khi khu vực sông Tô bị lấp, không còn nguồn cung cấp cá tươi nên họ quay về làng tiếp tục với nghề làm bỏng rang tẩm mật, làm kẹo bột.

Phía Nam có món bánh cuốn Thanh Trì nức tiếng. Sáng sáng, các bà các cô đội thúng bánh vào thành bán. Những lá bánh mỏng tang vừa dai, vừa giòn xếp chồng lên nhau thành từng lớp, song khi bóc ra không bao giờ dính. Bí quyết nằm ở những chấm nấu rải đều trên mặt, đó là hành lá thái li ti phi mỡ như trang trí, nhưng cũng có tác dụng chống dính. Để ăn kèm với bánh cuốn, trong thúng bánh phải có vài lạng giò lụa Văn Điển. Giò lụa Văn Điển xưa được dân làng Quán Gánh chọn mua để bán kèm với bánh giầy cho khách. Văn Điển còn có nghề nấu rượu cổ truyền. Thời Pháp thuộc chỉ rượu chai Văn Điển mới cạnh tranh được với rượu Pháp.

Cách Văn Điển không xa là làng Tương Mai có món xôi lúa và bánh đúc rưới hành mỡ rất ngon. Khi trời đất còn mờ mờ, các bà, các cô đã cắp thùng xối vào thành, mùi thơm của nếp đồ, hành phi và lá sen quện vào nhau tỏa ra trên đường đi thay cho tiếng rao. Có câu: “Tứ Kỳ gánh cân, Pháp Vân gánh nánh”, tức làng Tứ Kỳ chuyên làm bún, mang bán xếp vào hai thúng rất cân, trong khi làng Pháp Vân bán bún ốc chan, bên nồi nước nặng hơn bên để bát đũa, vì thế gọi là gánh nánh.

Phía Tây cũng có nhiều làng làm quà rất ngon. Bún ốc nguội không đâu sánh được với Khương Thượng. Ốc ngâm với nước gạo cho sạch rớt và cũng làm cho con ốc béo hơn. Lại có nhà nghĩ ra cách thoa lớp mỡ mỏng lên mặt thớt, cho ốc bún lên rồi đậy rổ lại. Ốc ăn mỡ nên thịt ngậy hơn. Khương Thượng còn nổi tiếng với món chả nhái lừng danh. Thịt nhái giã với bột ngô, trộn gia vị khi rán cả vùng ngây ngất bởi mùi thơm. Nói đến bánh giò có lẽ không đâu ngon bằng bánh làng Đình Quán ở Phú Diễn, gạo làm bánh là giống Tám thơm, nhân thịt nạc thăn trộn với hành củ tươi phi mỡ. Ở Yên Hòa có nghề làm bánh rán lúc lắc, bánh mảnh cộng và bánh cuốn. Bánh cuốn Yên Hòa mỏng và dai không thua kém bánh Thanh Trì. Khu vực phía Tây còn có một tuyệt phẩm là cốm Vòng. Cốm làm bằng lúa non, với kinh nghiệm và bí quyết người làng đã tạo ra những hạt cốm mỏng dẹt màu xanh nhạt tự nhiên có mùi thơm nhẹ. Khi thấy người làng Vòng gánh cốm vào phố là biết mùa thu đã về. Vào mùa thu, nhiều gia đình cắm hoa cúc, thi nhân uống hoàng hoa tửu, song nhà nào cũng nhất định phải có một gói cốm. Cốm ăn với chuối tiêu trứng cuốc thật sang miệng vì vừa thơm vừa bùi.

Trở lên phía Bắc, nơi có chợ Bưởi mở từ thời Lý, xưa gọi là chợ Ma Phường. Sở dĩ có tên này vì theo truyền thuyết, vào ngày giáp Tết, chợ đông đúc người mua kẻ bán và lẫn trong người trần còn có cả ma. Để phân biệt, người bán hàng đặt chậu đồng đựng nước, khách trả tiền sẽ thả đồng tiền vào chậu. Nếu tiền không phát ra âm thanh, thì đó là ma. Ca dao Hà Nội có câu: “An Phú nấu kẹo mạch nha/Kẻ Vòng làm cốm để mà tiến vua”. Mạch nha là nguyên liệu không thể thiếu khi làm kẹo. Mạch nha An Phú trong vắt lại thơm, dai, nên các làng làm kẹo tin mua. Năm 1960, nhà nước mở xí nghiệp bánh kẹo quốc doanh ở khu vực Bưởi, người làng đã hiến cho nhà nước bí quyết được giấu kín qua biết bao nhiêu đời.

Phía trên vùng Bưởi là Đông Ngạc, tên nôm là Kẻ Vẽ có món bánh khoai phồng, làm bằng bột nếp cái hoa vàng vô cùng cầu kỳ, lại phải phơi được nắng khi rang mới ngon. Vì thế, người Hà Nội đã tụng ca: “Thứ nhất bánh cuốn Thanh Trì, thứ nhì bánh phồng Kẻ Vẽ”. Kẻ Vẽ còn có món bánh sấy, làm từ thịt nạc chế biến qua nhiều công đoạn. Ngày đông giá buốt, nướng bánh sấy trên than hoa nhấm nháp với rượu sen Thụy Khuê rồi đàm đạo nhân tình thế thái thì nhã vô cùng. Vùng này còn có “giò Chèm, nem Vẽ” nức tiếng thiên hạ. Trên mâm cỗ Tết xưa không thể thiếu món cá trắm đen kho các cụ xếp là món đầu vị. Món này có xuất xứ ở vùng phía Bắc kinh thành. Cá trắm đen dứt khoát phải là cá ở Hồ Tây vì thịt dai khi kho sẽ không nát. Sau khi ướp gia vị, những khúc ca săn chắc được đặt lên lớp lá sen, dưới là lớp lót bằng mía chẻ, bên trên lại phủ lớp lá sen hồ Tây. Để có món đầu vị này rất mất thời gian và công phu vô cùng.

Ngày nay, ngoại ô đã lên phố. Những con đường lát gạch nghiêng đỏ au sau mỗi trận mưa không còn. Hàng rào khúc tần cắt xén vuông vắn cũng đã mất dấu. May mắn là hội làng vẫn diễn ra vào mùa xuân. Điểm danh lại là ẩm thực ngoại ô xưa dù có món không thấy trong thực đơn nhưng vẫn còn trong kho tàng ẩm thực Hà Nội.


13/05/2023

Thuốc không có trong hiệu thuốc

 


- Ánh nắng mặt trời là vị thuốc quý.

- Trời đêm xanh thẳm, ánh trăng - sao lộng lẫy, lung linh không ô nhiễm ánh đèn đô thị.

- Mùi hương hoa, lá, cỏ thoang thoảng tự nhiên.

- Tiếng nước róc rách của suối, kênh thoáng trôi.

- Tiếng líu lo của chim  chóc ngoài khuôn cửa.

- Làn gió vờn nhẹ, thoảng đưa dịu mát.

- Yên tĩnh, không ô nhiễm tiếng tàu xe, ồn ào đô thị nơi thôn quê, cửa chùa.

- Tiếng chuông chùa vọng vang.

Những điều quý giá trên đều là thuốc cho tâm hồn và thể chất con người được cải thiện mà trong hiệu thuốc sao có được

Bởi vi, núi cao hùng vĩ, biển rộng bao la, chín tầng trời ngút ngát, mặt đất mênh mông, tinh tú sao trăng, những thứ này tuy không có linh hồn, nhưng ai ai cũng có thể cảm nhận được khí thế không lồ bát ngát không thể kháng cự được của chúng. Mà ta thường gọi là linh khí đó thôi, nó ảnh hưởng đến sức khoẻ của chúng ta.

Lại còn những thứ sau nữa chứ, hiệu thuốc làm gì có:

- Tập thể dục là thuốc.

- Ăn - uống ngon miệng, cân bằng, sạch là thuốc.

- Trân trọng, hiếu thảo với Tổ tiên, cha mẹ, lịch sử ...là thuốc.

- Sống Nghĩa nhân, chung thuỷ với bạn tình, bạn bè là thuốc.

- Cười vui sảng khoái, mừng người thành công là thuốc.

- Thái độ tích cực là thuốc

- Một giấc ngủ ngon, say là thuốc.

- Thiền và hít thở sâu, dài là thuốc.

- Tình yêu là thuốc.

- An lành là thuốc

- Lòng biết ơn là  thuốc.

- Từ bỏ lòng tham, oán giận, thù hận là thuốc.

- Đọc sách và tu Tâm là thuốc.

- Trò chuyện chân thành với những người thân yêu là thuốc

- Suy nghĩ tích cực và suy nghĩ đúng đắn là thuốc.

- Du ngoạn và đi bộ trong tự nhiên là thuốc.

- Biết hối cải, tha thứ cho bản thân và người khác là thuốc.

- Tôn trọng và yêu quý bản thân là thuốc.

- Tử tế, thiện lương là thuốc

- Từ bỏ mê đắm, sự vô minh và những dục vọng thấp hèn là thuốc.

Sao Ta lại lãng phí, phải không các bạn.

12/05/2023

Đàn bà Khôn - Dại

 st trên net



1. Đàn bà Dại chỉ chăm chăm vào Khuyết điểm của Đàn ông.

+ Đàn bà Khôn tán thưởng Ưu điểm của Đàn ông.

2. Đàn bà Dại thường Cãi nhau với Đàn ông mọi lúc mọi nơi khiến cho Đàn ông Mất mặt.

+ Đàn bà Khôn luôn giữ Thể diện cho Đàn ông trước mặt Người ngoài.

3. Đàn bà Dại không ngừng Bới móc Quá khứ.

Đàn bà Khôn cùng Đàn ông Tạo dựng Tương lai.

4. Đàn bà Dại thích So sánh với Người đàn ông của họ với Người khác . Cô ta không biết đây là đang giết chết Tình yêu

+ Đàn bà Khôn biết Hoàn cảnh của Đàn ông. Cô ta hiểu rằng đấy là Tạo động lực cho Đàn ông

5. Đàn bà Ngu ngốc tự cho mình nhìn thấy Bản chất Đàn ông.

+ Đàn bà Thông minh sẵn lòng Thông cảm Tha thứ cho Đàn ông.

6. Phụ nữ Ngu ngốc sẽ nói:

- Anh Cút Đi.

+ Phụ nữ Thông minh sẽ nói:

-  Anh Không được Phép rời bỏ Em.

7. Đà bà Dại luôn xem Đàn ông như cung tên, kéo càng căng, mũi tên bay càng xa.

+ Đàn bà Khôn xem Đàn ông như Cánh diều, thong thả Giữ lấy Dây diều trong Tay.

8. Đàn bà Dại thường quá Đề cao cái Tôi của mình.

+ Đàn bà Thông minh luôn Khôn khéo Gửi gắm và Dựa dẫm.

9. Đàn bà Dại không rời Đàn ông nửa bước.

+ Đàn bà Khôn hiểu được lúc Gần lúc Xa.

10. Đàn bà Dại chỉ biết Giặt giũ Nấu ăn, nhưng quên mất Làm đẹp Bản thân.

 + Đàn bà Khôn cũng biết giặt giũ nấu ăn, nhưng không quên Làm đẹp Bản thân.

11. Đàn bà Ngu ngốc mang đến cho Đàn ông Áp lực và Kìm nén.

+ Đàn bà Thông minh đem đến cho Đàn ông Động lực và Hứng thú.

12. Đàn bà Dại khiến Đàn ông Thất bại trong những giọt Nước mắt của Cô ta.

+ Đàn bà Khôn khiến Đàn ông Thành công trong Nụ cười Rạng rỡ của Cô ta.

13. Đàn bà Dại luôn Đả kích Đàn ông.

+ Đàn bà Khôn Cổ vũ Đàn ông.

14. Đàn bà Dại đọc xong và Bỉu môi.

+ Đàn bà Khôn đọc xong sẽ share và Lưu lại Học dần.

 


Mong

    Có nhiều kỷ niệm xưa ta mong trở lại nhưng chỉ ảo tưởng, vì:

           - Người thân đã mất nay sao có.

           - Hoàn cảnh ngày ấy nay đâu còn.

     Đến Giỗ - Tết, ta cứ cố làm thành tâm rồi nhớ, nghĩ về dĩ vãng là hay lắm rồi. 

    Ừ vẫn biết, thời thế thay đổi, suy nghĩ con cháu cũng đổi thay. 

     Mong xum họp khó lắm.

    Phải thấu hiểu và thông cảm chứ sao trách mà oan. 

   Có thể, đến tuổi như mình bây giờ chả hạn, con cháu sẽ làm như truyền thống cha ông.