23/03/2023

10 (trong số nhiều) loại vũ khi lạnh thời cổ đại

st và biên tập

Vị trí thứ mười: Giản
Giản là một loại cây roi, không lưỡi, có bốn cạnh, dài 1,2 mét, thường được sử dụng một cặp, thuộc về binh khí ngắn, thuận lợi mã chiến. Giản rất nặng, không phải là người cao lớn lực lưỡng thì không thể sử dụng linh hoạt, lực sát thương rất lớn, dù cho mặc áo giáp cũng có thể bị đập chết. Về kỹ pháp thì gần giống với đao pháp và kiếm pháp. Giản được làm bằng đồng hoặc sắt, giống như cây roi cứng nhưng thân thẳng đầu nhọn.
Giản thường dùng với tư cách là vũ khí phụ trợ nhưng có thể đánh quân địch một đòn trí mạng, cho nên người Trung Quốc có câu “sát thủ giản”. Cao thủ sử dụng giản trong lịch sử có tướng quân Tần Quỳnh đầu nhà Đường và thuộc tướng Ngưu Cao của Nhạc Phi triều đại Nam Tống. Ngoài ra, còn có Bát Hiền Vương – Triệu Đức Phương cầm giản làm bằng vàng, trên đánh hôn quân, dưới đánh gian thần, rất uy phong.
Vị trí thứ chín: Tiên
Tiên không phải như dây thừng mềm mà là một loại binh khí dùng như côn sắt. Hình dạng của tiên giống như đốt tre làm bằng sắt thép, cho nên còn gọi là tiêm thép đốt tre. Tiên có uy lực cực lớn, thuộc về vũ khí hạng nặng, là vũ khí sinh ra để đối phó với áo giáp sắt, có thể một phát đánh nát tấm giáp bảo hộ giữa ngực. Tuy lực sát thương của giản lớn hơn nhiều so với tiên nhưng khả năng phá áo giáp không bằng tiên. Trong lịch sử Ngũ Tử Tư, nguyên soái Đại Đường Uất Trì Cung và gia tộc Hô Diên nhà Tống đều từng sử dụng tiên.
Vị trí thứ tám: Nỏ
Nỏ là một loại vũ khí dùng để bắn tên. Loại đơn giản là một cánh cung nằm ngang trên một cánh báng có rãnh. Tuy thời gian lắp tên vào lâu hơn so với cung tên nhưng tầm bắn xa hơn nhiều, lực sát thương cũng mạnh hơn, tỉ lệ chính xác rất cao, yêu cầu đối với người sử dụng cũng khá thấp, là một loại vũ khí sát thương uy lực cự ly xa. Tầm bắn của nỏ có thể đạt 600 mét, nỏ đặc biệt lớn có thể đạt tới 1000 mét.
Tương truyền Gia Cát Lượng phát minh ra liên nỏ Gia Cát, mỗi lần phóng ra 10 mũi tên, hỏa lực rất mạnh. Thử nghĩ, vạn tên cùng bắn xuống phía dưới, quân địch chỉ biết gào thét thảm thiết, chạy bán sống bán chết.
Vị trí thứ bảy: Rìu
Rìu không được sử dụng trong thực chiến trong thời gian dài, nó được sử dụng trong ba triều đại Hạ, Thương, Chu, trên chiến xa có mang vũ khí hạng nặng là búa rìu, cũng là binh khí của thiên tử, về sau vì quá cồng kềnh nên bị loại bỏ. Người cổ đại dùng búa khá nhiều, có lực sát thương rất mạnh, thuộc về binh khí hạng nặng.
Vị trí thứ sáu: Kích
Kích là sự kết hợp giữa mâu và mác hoặc là thương và đao. Nó có lực sát thương rất mạnh, chủ yếu phân thành 3 loại, một là “nhất lão thương kích” được sử dụng rộng rãi nhất nhưng bị đào thải đầu tiên, hai là “môn kích” xuất hiện vào thời Nam Bắc triều, ba là “phương thiên họa kích” được các võ tướng yêu thích nhất.
Vị trí thứ năm: Mác
Mác là một loại binh khí cong đầu, lưỡi ngang, làm bằng đồng hoặc sắt, trang bị cán dài, dùng kỹ thuật tấn công móc, đẩy, mổ, vung là chủ yếu. Tuy lực sát thương không mạnh nhưng thương có nhiều chủng loại, lưu hành phổ biến từ thời nhà Hạ đến Hán, cho đến Tùy Đường mới cơ bản biến mất.
Vị trí thứ tư: Mâu
Mâu thường được dùng trong chiến tranh cổ đại, là một loại vũ khí để đâm quân địch, cán dài, có lưỡi. Mâu dài nhất có thể đạt 4 mét, chủ yếu sử dụng với xe chiến. Mâu có nhiều chủng loại như giáo, lao, xà mâu, đâm mâu.
Vị trí thứ ba: Thương
Vị trí thứ hai: Kiếm
Kiếm thuộc về binh khí ngắn, được xem là “vua của binh khí”. Kiếm do kim loại chế tạo thành, dài mảnh, đầu nhọn, có chuôi cầm ngắn, hai bên có lưỡi. Kiếm đã có từ rất lâu trong lịch sử từ triều đại nhà Thương, sử dụng rộng rãi vào thời Đông Chu. Kiếm vào thời nhà Tần có thể dài đến 1,5 mét, vì vậy có khả năng sát thương rất lớn trên chiến xa. Về sau do đao thịnh hành, kiếm dần dần bị thay thế, trở thành binh khí của tướng quân hoặc là trang trí.
Vị trí thứ nhất: Đao
Đao có thể là binh khí ngắn hoặc dài. Lúc ban đầu đao có hình dạng gần giống rìu, có chuôi ngắn, vểnh lên, lưỡi dài. Đến thời Xuân thu chiến quốc, hình dạng đao có sự thay đổi lớn. Thời Lưỡng Hán, đao dần dần phát triển thành một trong những binh khí chủ chiến của bộ binh, đồng thời xuất hiện rất nhiều loại đao cán dài khác nhau.
Có thể nói, mười loại vũ khí lợi hại này đã chứng kiến bao triều đại đổi thay, quần hùng tranh phong, cũng được lưu lại trong những trang sử chói lọi. Hiện nay, những vũ khí này chuyển thành những binh khí có thể sử dụng trong tập luyện võ thuật nhằm mục đích rèn luyện sức khỏe.

Bài thơ “Xin đổi kiếp này”


ca em Nguyn Bích Ngân, hc sinh lp 8A1, Trường THCS Nguyn Đình Chiu (Hà Ni) được chia s trên cng đng mng vi s ngc nhiên quá đi ca nhiu người vì không nghĩ rng mt nữ sinh 14 tui có th viết được mt bài thơ sâu sc như thế.

Nếu đổi được kiếp này tôi xin hóa thành cây,
Thử những nhát rìu rạch sâu da thịt.
Trong biển lửa bấp bùng thử mình cháy khét,
Thử chịu thói độc tàn, thử sống kiên trung.

Nếu đổi được kliếp này, tôi xin hóa ruộng đồng,
Thử nếm vị thuốc sâu, thử sặc mùi hóa chất.
Thử chịu bão giông, thử sâu rày, khô khát,
Thử ngập mặn, triều cường, núi lửa, sóng thần dâng.

Nếu được kiếp này, tôi xin hóa đại dương,
Thử dầu loang hắc nồng, mùi cá trôi hôi thối,
Đau vì kiệt tài nguyên, khổ vì không biết nói,
Thử biết gồng mình, thử quằng quại đứng lên.

Nếu đổi được kiếp này, tôi xin làm không khí,
Thử khói bụi ngày đêm, thử ngột ngạt trưa hè,
Thử không còn trong xanh vì lũ người ích kỷ,
Thử gồng mình đinh tai, thử cái chết cận kề.

Tôi làm gì đây ? Khi vẫn kiếp con người !
Tôi nhận về bao nhiêu ? Tôi lấy về trả lại ?
Tôi phá hoại những giì ? Tôi đã từng hối cải ?
Xin đổi được kiếp này…!
                                       Trời đất có cho tôi ???

18/5/2016


22/03/2023

Về món mơ ngâm

Rezoman


Để tớ trình bầy thêm về món mơ ngâm.

Quả mơ là quả mơ lông, ở miền Bắc có mơ Hương Tích ở trong rừng mạn chùa Hương là nổi tiếng thơm. Cái thơm ngon của quả mơ không phải do ăn tươi nuốt sống như mận hoặc đào, mặc dù bọn Tây cùng gọi là quả Apricot. Mà quả mơ cần ngâm, chứ ăn tươi rất chua chát. Mơ cũng chia hai loại, loại trong hình Pha Lê đăng bài là mơ thịt dày và mọng gần giống mận, có tên riêng đấy nhưng tớ chưa hỏi bu tớ. Còn quả mơ chuyên để ngâm thì thuộc dòng mơ rừng như mơ Hương Tích, quả nhỏ cùi mỏng. Nhưng thơm tuyệt. Cũng đúng với câu các cụ : ”Cái mình nó bé thì cái dé nó thơm!”

Khi ngâm ta có thể trộn cả hai loại này, để cho những người nào thích dầm nát mơ ra cho nước pha sinh tố đặc sánh. Mà vẫn có mùi vị không tài nào thay thế của mơ bé.



Mơ mua về ta cần xem tình trạng đã chín hẳn hay chưa. Thường các cô hái mơ sẽ để riêng những quả chín má hồng, vì mang xuống được đến dưới xuôi sẽ chín nẫu mất. Họ bán những gánh quả ương thôi. Và chúng ta cần đậy vải sạch lên rổ mơ từ lúc mua về cho qua nửa ngày nữa, để ủ cho hắn chín thơm dậy lên, rồi mới đem rửa sạch, rửa tráng nước muối.

Nhớ là sau khi rửa mơ còn phải để cho khô khỏng mới cho vào lọ nhé. Nguyên do là lớp lông vỏ mơ giữ nước, những bụi nước nhỏ li ti này sẽ làm si rô không giữ được lâu.

Xong cứ một cân mơ một cân đường Hoa Mai (đường vàng), lớp đường lại lớp mơ, xếp vào lọ thủy tinh 5 lít. Đừng xếp quá đầy, chỉ 8 phần mười lọ thôi, nước hắn tiết ra nhiều sẽ tràn ra và các bạn kiến sẽ mở carnaval trong phòng đó! Và phải nút lọ thật kín. Nên bọc một lớp giấy bóng kính quanh nút lọ rồi lấy dây gai buộc lại. Tủ bếp lỉnh kỉnh lọ lạc rang rồi lọ chanh đào, hết ớt ngâm rồi đến tỏi dấm. Và đám mơ, thật là bận rộn chi vì…ăn.

Mơ muối cũng phải ngâm đường trước rồi cho muối vào, còn ngâm tuyền muối để ngậm ho thì chỉ lọ bé tí là đủ, lúc dùng lấy ra một quả, rưới mật ong vào rồi ngậm khi long đờm, tốt cực.

Trong vòng một năm, mơ ngâm là chín. Nhưng vẫn chua. Phải hai năm trở lên mới ngon tuyệt, có vị đắng hậu và giải khát ở đẳng cấp thượng đỉnh. Mẹ tớ năm nào đến mùa mơ cũng ngâm, nhưng lại lấy một lọ cũ ra dùng, lọ nào cũng phải ghi mật mã riêng kẻo nhầm! Một lần mẹ nhắn tin: thảm hoạ con ạ, mẹ chắt nước mơ làm vỡ cả lọ. Thế là tớ biết mẹ đã già yếu thật rồi…

Mẹ mình làm nhưng lại chẳng uống mấy đâu, toàn cho bọn mình. Chắt hết nước si rô ra rồi mới lấy quả còn lại cho vào hũ rượu ngâm rượu mơ cho bố uống. Hoặc lấy quả ấy xào với mật mía làm ô mai. Ô mai chính là quả mơ đen, mơ ngâm này đấy.

20/03/2023

Bí mật của Tết

 Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều



Tết không phải đơn giản là sự kết thúc một vòng thời gian tính theo năm mà như là một tiếng lay gọi làm cho con người thức tỉnh bao điều. Theo cách nhìn cũng như trải nghiệm của mình, tôi thấy Tết chứa đựng trong nó những bí mật làm cho con người sống tốt đẹp hơn.

Mấy năm gần đây, có một số người đã đặt vấn đề bỏ ăn Tết truyền thống và dùng tết dương lịch thay vào. Lý do của họ thật đơn giản. Họ cho rằng Tết truyền thống hiện nay gây ra một số phiền lụy như lãng phí thời gian và vật chất, sinh ra một số thói xấu trong việc biếu xén quà cáp... và làm cho con người mệt mỏi.

Những hiện tượng mà họ đưa ra là đúng.

Nhưng họ lại sai lầm trong cách nhìn nhận bản chất của Tết truyền thống của người Việt Nam. Thực chất, những phiền lụy ấy là sinh ra từ thái độ sống của những người lấy Tết như là một lý do để thực thi những công việc khác chứ không phải là một sự kiện của văn hóa.

Những sự kiện văn hóa được sinh ra từ đời sống tinh thần của con người và những sự kiện văn hóa ấy quay lại làm lên đời sống tinh thần của con người. Tết chỉ diễn ra trong mấy ngày nhưng lại chứa đựng những giá trị tinh thần bền vững của văn hóa Việt. Tết không phải đơn giản là sự kết thúc một vòng thời gian tính theo năm mà như là một tiếng lay gọi làm cho con người thức tỉnh bao điều. Và theo cách nhìn cũng như trải nghiệm của mình, tôi thấy Tết chứa đựng trong nó những bí mật làm cho con người sống tốt đẹp hơn.

Bí mật thứ nhất: Khơi mở tình yêu quê hương

Mỗi năm, khi đến những ngày giáp Tết, là lúc lòng người dâng lên nỗi nhớ quê hương và những người thân yêu của mình. Người xa nhà mong trở về, người ở nhà mong người đi xa về. Trong thời gian suốt một năm, những ngày giáp Tết là những ngày nỗi nhớ thương ấy nhiều hơn tất cả những ngày khác.

Tôi từng gặp những người định cư ở nước ngoài trong những ngày giáp Tết mà họ không trở về cố hương mình được. Thời gian ấy đối với họ là khoảng thời gian mà ký ức họ ngập tràn những kỷ niệm về nơi họ sinh ra và lớn lên. Đó cũng chính là thời gian mà con người nghĩ về nơi chôn nhau cắt rốn nhiều nhất và da diết nhất.

Vào những ngày giáp Tết ở quê tôi, những gia đình có người thân đi làm ăn, học hành xa hoặc lấy chồng, lấy vợ ở xa đều mong ngóng họ trở về. Vào đêm giao thừa, những gia đình ấy vẫn mở cửa ngõ và lắng nghe tiếng chân ai đó vào ngõ. Có thể những ngày khác trong năm họ bận công việc, học hành...mà ít nhớ về cố hương. Và cũng có thể có người bỏ quê ra đi vì nhiều lý do không có ý định trở về, nhưng khi Tết đến, lòng họ bỗng đổi thay.

Lúc đó, tiếng gọi của cố hương, của những người thân yêu vang lên trong lòng họ hơn lúc nào hết. Và chính vậy mà có những người khi đã già thì tìm cách trở về cố hương. Không ít những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài mấy chục năm cuối cùng đã trở về để được sống và được chết trên mảnh đất cố hương mình.

Khoảng thời gian kỳ diệu của những ngày giáp Tết đã chứa đựng trong đó những bí mật có khả năng đánh thức những vẻ đẹp, những thiêng liêng trong sự lãng quên của con người.

Bí mật thứ hai: Kết nối với quá khứ

Vào ngày cuối cùng của năm cũ, hầu hết ở các làng quê, những người sống khăn áo chỉnh tề ra phần mộ của những người thân yêu đã khuất thắp hương và mời người đã khuất trở về ăn Tết cùng gia đình.

Có một sự thật là, trong cái thời khắc thiêng liêng đứng trước phần mộ của những người thân yêu trong ngày cuối năm gió lạnh, những người sống cảm thấy được hơi thở, giọng nói và nhìn thấy gương mặt của những người đã khuất.

Ngày cuối cùng ấy của năm cũ, một không khí lạ lùng bao phủ con đường từ nghĩa trang trên cánh đồng chạy về làng và bao phủ trong những ngôi nhà. Những mất mát, những thương đau và nhớ nhung những người thân yêu đã khuất như vụt tan biến. Những người sống cảm thấy ngôi nhà của họ ấm áp hơn.

Cái ngày cuối cùng của năm cũ ấy như mở ra một cánh cửa vô hình để những người sống và những người đã khuất gặp nhau cho dù chỉ ở trong cảm giác và cảm xúc. Nhưng những điều đó cho dù mơ hồ vẫn là một phần quan trọng trong đời sống của con người. Nó làm cho con người dâng lên tình yêu thương, lòng ơn kính với tổ tiên, ông bà, cha mẹ...

Và như một sự vô tình, không khí của ngày cuối cùng năm cũ ấy gieo vào lòng người sống những hạt giống của tình yêu thương và kết nối họ với quá khứ.

Bí mật thứ ba : Sự bền vững của gia đình

Ai cũng có một gia đình. Và không ít gia đình hiện nay do xã hội thay đổi và do nhiều lý do của đời sống mà các thành viên trong gia đình sống tản mạn ở nhiều nơi khác nhau. Có không ít gia đình chẳng bao giờ có một ngày xum họp đầy đủ các thành viên của mình. Đôi khi, với lý do này, lý do khác mà ông bà, cha mẹ, anh em, dâu rể, con cháu trong một gia đình không có dịp xum vầy với nhau.

Nhưng Tết là dịp duy nhất với lý hợp lý nhất để mọi người bỏ hết công việc xum họp với nhau.

Khi mẹ tôi còn sống, mẹ tôi mong Tết. Bà mong Tết không phải là mong như tôi từng mong Tết đến hồi còn nhỏ cho dù Tết đến mẹ tôi phải lo lắng nhiều thứ. Mẹ tôi mong Tết để những đứa con của bà có ít nhất một ngày quây quần bên bà như khi chúng còn nhỏ. Cho dù khi tôi đã có tuổi, nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi có một ngày anh chị em cùng con cháu trở về làng và được ngồi ăn một bữa cơm bên cha mẹ trong ngôi nhà chúng tôi đã lớn lên.

Khi cha mẹ mất đi, nhiều người mới nhận ra sự mất mát to lớn không gì bù đắp nổi. Một hiện thực mà hầu như ai cũng nhận ra là đời sống hiện đại đã và đang xé một gia đình truyền thống ra từng mảnh. Và như vậy, tính bền vững của một gia đình sẽ bị lung lay.

Hàng năm vào những ngày giáp Tết tôi thích ngắm nhìn những người khăn gói về quê ăn Tết. Không có gì quyến rũ họ ngoài việc họ được trở về nhà mình và xum họp với ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng làng xóm. Hình ảnh ấy luôn làm tôi xúc động.

Nhưng càng ngày càng nhiều hơn những người không muốn về quê ăn Tết hay ở nhà ăn Tết với gia đình. Có những người còn trẻ tranh thủ dịp Tết đi du lịch. Họ rời gia đình khi bắt đầu được nghỉ Tết và chỉ trở về để hôm sau bắt đầu ngày làm việc đầu tiên của năm mới. Họ có cách nhìn và có quyền của họ.

Nhưng tôi thấy tiếc cho họ khi họ không cùng ở nhà với cha mẹ mình chuẩn bị đón Tết. Bởi lúc đó, thời tiết và không khí đang lan tỏa những gì ấm áp và thiêng liêng nhất trong chu kỳ thời gian của một năm mà sau đó họ không thể tìm lại được cho tới một năm sau. Sự lan tỏa ấy sẽ bồi đắp tâm hồn con người những những lớp "phù sa" màu mỡ của những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần con người.

Bí mật thứ tư: Sự hàn gắn

Có những rạn vỡ giữa người này người kia mà một hoặc cả hai người không có cơ hội để gặp nhau và nói một lời xin lỗi hay chia sẻ và xóa đi những hiềm khích, mâu thuẫn trước đó. Nhưng khi Tết đến, họ nhận ra đó là cơ hội tốt nhất cho họ.

Thường khi bước sang năm mới, người ta cho phép quên đi, bỏ qua những phiền lụy, những sai lầm trong năm cũ của chính cá nhân mình. Có một bí mật nào đấy của năm mới đã ban cho con người khả năng chia sẻ và tha thứ.

Bí mật ấy nằm trong những cơn mưa xuân ấm áp bay về, trong sự thao thức của lòng người chờ đợi, trong sự thiêng liêng của hương nến trên ban thờ mỗi gia đình, trong sự chào hỏi ân tình của mọi người khi gặp nhau, trong giờ phút thiêng liêng của sự chuyển mùa, trong sự tưởng nhớ những người thân yêu đã khuất...

Tất cả những điều đó đã làm lòng người rạo rực và đổi thay. Có những gia đình mà anh em mâu thuẫn với nhau rồi cứ giữ sự im lặng lạnh giá ấy ngày này qua ngày khác. Nhưng khi họ cùng nhau ngồi xuống bên mâm cơm tất niên cùng chạm chén rượu, cùng mời cha mẹ ăn cơm thì mọi chuyện bắt đầu tan đi.

Trước kia, cứ vào những ngày cuối năm, những người làng tôi có chuyện xích mích hay sai trái với ai đó thường mang một quả bưởi, một nải chuối, một cặp bánh trưng hay dăm cặp bánh mật đến nhà người mà mình có xích mích hoặc có lỗi, xin được thắp nén hương thơm trên ban thờ tổ tiên người đó và nói lời thanh minh hoặc xin lỗi.

Và như có phép lạ, sự xích mích, sai trái bám theo họ đằng đẵng cả một năm trời bỗng rời bỏ họ. Người được xin lỗi cũng nhận ra rằng: chính thời khắc thiêng liêng ấy của đất trời và của lòng người đã làm cho người có lỗi thành thật. Và khi lòng thành thật của người có lỗi được mở ra thì sự tha thứ cũng mở ra theo.

Bí mật thứ năm: Niềm hy vọng

Cuộc sống có biết bao thăng trầm. Trong chúng ta ai cũng có những năm nhiều nỗi buồn, ít may mắn. Nhưng ai cũng có một niềm tin rằng, ngày mai mọi điều sẽ tốt đẹp hơn, năm mới mọi điều sẽ may mắn hơn. Không ít người gặp những năm vận hạn thường tự động viên chính mình bằng một ý nghĩ: "Năm cũ sẽ qua đi, năm mới sẽ đến. Mọi điều sẽ tốt đẹp hơn".

Đấy là một nguyện ước, đấy là một niềm tin.

Nếu không có niềm tin ấy và nguyện ước ấy, không ít người sẽ bị những nỗi buồn, đau đớn và kém may mắn dìm xuống vực sâu của sự thất vọng. Trong suốt một năm, có người có thể sống triền miên trong buồn bã, bỏ mặc nhà cửa. Nhưng rồi đến một ngày giáp Tết, họ đã đứng dậy, dọn dẹp nhà cửa với một niềm tin những điều tốt đẹp đang về với họ. Cũng trong dịp năm mới, mỗi người đều nhận được những lời chúc mừng tốt đẹp nhiều nhất trong một năm.

Cho dù thế nào thì những lời chúc ấy cũng làm cho lòng người ấm lại và hy vọng vào một điều tốt đẹp phía trước.

Những gì mà tổ tiên đã làm ra và để lại cho chúng ta như những lễ hội, những ngôi chùa... là để lại một lời nhắc, một tiếng gọi thức tỉnh chúng ta trong cuộc sống.

Không thể nói lễ hội hay chùa chiền là phiền lụy, là tốn kém... mà bởi con người đã lợi dụng những vẻ đẹp văn hóa ấy cho lợi ích cá nhân mình.

Lúc này, tôi như thấy những ngọn gió thay mùa ấm áp, những cơn mưa xuân nồng nàn đang trở về và những cành đào ủ kín những chùm hoa chuẩn bị mở ra đều chứa trong đó những bí mật giản dị nhưng kỳ diệu cho đời sống con người.


19/03/2023

Bài thuốc đơn giản làm sạch phổi

Bài viết này (tôi sưu tầm từ dân gian) dành cho tôi và những người bạn nghiện thuốc lá nặng, lâu năm. Nói gì thì nói, biểu hiện của mỗi người một khác tuỳ thể tạng nhưng chắc có ảnh hưởng đến sức khoẻ của phổi nhất là khi đã có tuổi.

Ngoài ra, môi trường sống hiện nay cũng bị ô nhiễm nặng, chả tránh bất cứ ai, nên việc bị ảnh hướng đến 2 lá phổi là chuyện bình thường. Vì thế, nam, phụ lão ấu đều có thể dùng được bài thuốc này - Vì nó quá đơn giản, dễ thực hiện trong có 3 ngày.

Nếu bạn không muốn đến bệnh viện, và dùng thuốc Tây thì xin áp dụng cách này phổi của chúng ta sẽ nhanh chóng được làm sạch mà không tốn một viên thuốc nào.

Nguyên liệu

– 400gr tỏi. Bóc vỏ, rửa sạch và cắt làm tư.

– 1 lít nước sạch.

–  400gr đường nâu.

– 2 thìa cà phê bột nghệ, nếu không có bột nghệ, hãy dùng nghệ tươi, giã nát, vắt lấy nước nhé.

– 1 miếng gừng tươi.

Thực hiện

Cho đường nâu và nước đã chuẩn bị vào trong nồi, bắc lên bếp nấu sôi.

Khi nước bắt đầu sôi, hãy cho thêm tỏi và gừng, cuối cùng mới cho bột nghệ.

Vặn lửa nhỏ và canh sao cho lượng nước trong nồi giảm còn một nữa rồi hãy tắt bếp, để nguội hoàn toàn rồi cho vào tủ lạnh.

Hướng dẫn sử dụng

Hỗn hợp thu được, ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 muỗng canh.

Buổi sáng ngay sau khi thức dậy, uống trước khi ăn sáng và uống sau bữa tối khoảng 2 tiếng.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên thực hiện các bài tập thể dục thể thao phù hợp với thể tạng và điều kiện của mình; đi bộ 30 phút mỗi ngày là cách đơn giản nhất giúp cơ thể và phổi khỏe mạnh.

Ngoài ra, nên tắm nước ấm sẽ giúp thải độc tố tốt hơn.

Liệu trình thực hiện trong bao lâu?

Loại nước uống này hoàn toàn tốt cho sức khỏe và phổi của bạn, do đó, chỉ trong vòng 3 ngày, bạn sẽ cảm nhận được sự khác biệt, lượng nước còn dư, hãy uống tiếp tục đến khi nào hết, thực hiện trong 2 tuần sẽ giúp bạn làm sạch phổi khỏi tác hại của thuốc lá cực tốt.

Mong là có ích với mọi người.