(Thấy ở trên mạng, không rõ nguồn - Nhằm để dành đọc chơi lúc rỗi rãi và khi đọc Kim Dung cho hiểu hơn).
Đại để là người viết cũng hứng thú sưu tầm qua
sách báo và net (nguồn net là lược dịch qua các trang của TQ) để
phiếm diện trình bày đại khái, chứ cũng chả có gì là sâu sắc hay khích bác, nói
xấu ai cả - nhất là không định xiên xỏ gì những người dân Trung quốc.
Theo trí nhớ, hồi nhỏ, khi người dân TQ mà thời
ấy thường gọi là người Hoa, còn làm ăn - sinh sống ở Hà Nội thì họ là những
người lao động, buôn bán nhỏ, chăm chỉ, lễ phép, rất biết nhường nhịn. Những
món ăn của họ với tụi nhỏ bọn mình là rất chi cuốn hút như: kẹo kéo,
chín tầng mây, bi giòn giòn, bánh gối, hoa quả dầm... Cao lương mỹ vị gì đó
thì quả cũng được bố mẹ cho ăn qua nhưng cũng không nhớ để tả; nhớ mỗi hàng
cháo quẩy ở đầu ngõ 31 - khiếp ngon lạ, đến giờ vẫn thèm. Hồi đó chỉ có 2 hào 1
bát cháo không, còn cháo trứng, cháo gan, cháo cật gì đó chắc khoảng 5 hào hoặc
1 đồng, cũng bằng bát phở bò mậu dịch. Nhưng mình chỉ khoái mỗi cháo quẩy; cháo
lỏng thôi những nhuyễn, vị rất ngon, cắt 2 cái quẩy be bé thôi vào thì quá
tuyệt luôn - hình như 5 hào 1 bát thì phải.
Bạn bè người Hoa hồi đó cũng nhiều nhưng họ
thường học trường riêng ở mạn phố Phạm Hồng Thái bây giờ - chỉ thấy là khi giao
tiếp với nhau họ toàn nói tiếng của họ.............. nên cũng không rõ là người
ở mạn nào bên TQ cả. Sau năm 78 họ về nước hết - cũng không rõ số phận ra sao
nữa - giờ lũ trẻ ngày đó chắc cũng già hết cả rồi, ngoài 50 còn gì
nữa...............
Viết cái này ra đây cũng hòng chỉ mong người Việt
ta khi giao tiếp với họ cũng có cái để biết, nhằm tránh những điều không hay mà
thôi. Tuấn Long
Thế nhé. Bây giờ đi vào cụ thể:
1. Người Hà Nam
Tỉnh Hà Nam là cái nôi của dân tộc
Trung Hoa, trong sáu cố đô của Trung Quốc có ba cái ở Hà Nam. Thế nhưng
thanh danh hiện nay rất xấu, các công ty lớn tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng
Châu, Thâm Quyến đều không muốn thuê dùng người Hà Nam. Đã có câu nói: “phòng
lửa, phòng trộm,(đề) phòng người Hà Nam”, thậm chí tại Thâm Quyến đã từng có
biểu ngữ “nghiêm khắc đả kích bọn tội phạm Hà Nam”
Có thể là do đất hẹp ngưòi đông (sắp đạt 100
triệu dân), nên cạnh tranh dữ dội, rất nhiều ngưòi dường như xảo quyệt là thiên
tính. Độ tín nhiệm của các công ty Hà Nam rất xấu, hễ lừa được là lừa, hễ hãm
hại được là hãm hại, buôn bán làm ăn với họ là rất mạo hiểm. Trịnh Châu, Tân
Hưong, An Dương tập trung rất nhiều công ty lừa gạt, dùng các phương thức như
uỷ thác gia công, liên minh, để lừa gạt, chính quyền địa phưong về căn bản
không quản lý. Người Hà Nam phổ biến có địa vị không cao tại các
thành phố lớn nhưng tiếng tăm lại rất nổi; “ thu nhặt đồ phế phẩm rất nhiều
”(và thường thuận tay giắt bò). Số gái điếm cũng không ít, thưòng lang thang
tại thành phố. Tỷ lệ người Hà Nam phạm tội ở Bắc Kinh chỉ dưói ngưòi Đông Bắc,
nên ở đâu cũng bị chèn ép, thậm chí nhiều người Hà Nam phải nói dối là người Hà
Bắc, người Sơn Đông.
Thực ra ngưòi Hà Nam rất chăm chỉ, chịu
khổ được, tập quán sinh họat vốn thật thà chất phác, nhất là ngưòi nông thôn.
Tuy vậy có nhược điểm là bảo thủ, thành kiến, không nghĩ đến tiến thủ. Là tỉnh
có sức lao động lớn nhất Trung Quốc.
Người Hà Nam ở nhà rất coi trọng lễ
nghĩa, các chuyện ma chay cưới xin, sinh đẻ, lễ tết …đều rất coi trọng lễ
nghĩa. Tuy nhiên ngưòi Hà Nam nổi tiếng vì không thích tắm rửa.
Nói chung tiếng xấu với ngưòi
Hà Nam đã thâm căn cố đế. Nhiều người thường trách mắng người
Hà Nam, nhưng lại quên mất rằng tổ tiên ngưòi Khách Gia thậm chí người
Thượng Hải đều là ngưòi Hà Nam.
2. Ngưòi Hồ Bắc.
Là láng giềng của tỉnh Hà Nam, trình độ xảo
quyệt không thua ngưòi Hà Nam, hàng giả tại một đưòng phố tại Hồ Bắc đã từng
nổi tiếng tại Trung Quốc. Tuy vậy thanh danh ngưòi Hồ Bắc không xấu như vậy,
đây được coi là tỉnh có nhiều hồ nước, nước nhiều tự nhiên tính tình linh hoạt,
và có nhiều mỹ nữ. Ngưòi Hồ Bắc rất thông minh, số ngưòi đạt kết quả cao trong
các kỳ thi vào đại học rất cao.
Ngưòi Hồ Bắc học giỏi, trường trung học phổ
thông Hoàng Cưong nổi tiếng cả nước, thậm chí nhiều trường học trọng điểm của Bắc
Kinh, Thưọng Hải cũng không bằng Thiên Môn nổi tiếng là quê hương của Hoa Kiều
trong nội địa. Hồ Bắc có những nơi rất giàu, có thể so sánh với vùng ven biển.
Tuy vậy ở mấy nơi tiếp giáp với Đại Biệt Sơn tỉnh An Huy, Hà Nam lại
là vùng nghèo nhất nước.
Huyện Hồng An của Hồ Bắc đựoc gọi là “huyện của
các vị tướng”(có tới 223 vị tướng) đó là vì thời thế tạo anh hùng, những năm
tháng đó nơi nào càng nghèo, tinh thần tham gia cách mạng càng cao.
Người Hồ Bắc hướng nội, biết giấu mình chờ thời,
nhưng dũng khí (trong khi tìm hiểu đối tưọng) không bằng ngưòi Hồ Nam.
Hồ Bắc cũng là tỉnh có nhiều nông dân vào thành
phố làm thuê.
3. Người Hồ Nam
Ngưòi Hồ Nam được gọi là “ngưòi phương bắc của
phưong nam” tính cách bộc trực, khí khái dữ dội như ớt cay, cổ họng cũng tưong
đối lớn. Sử sách cố có nhiều từ ca ngợi ngưòi Hồ Nam nhất( ví dụ: “Sở chỉ còn 3
hộ vẫn có thể diệt Tần”, “không có Hồ Nam không thành quân đội”, “người Hồ Nam
chưa đổ, Hoa Hạ chưa đổ”. Quân Hồ Nam của Tăng Quốc Phiên, Tả Tông
Đưòng đã kéo dài thêm hương hoả nhà Thanh gần nửa thế kỷ, nhiều nguyên lão khai
quốc của đảng cộng sản là ngưòi Hồ Nam.
Có thể nói bộ cận đại sử Trung Quốc và nửa bộ
hiện đại sử Trung Quốc là do ngưòi Hồ Nam dùng máu tươi và sinh mệnh
của mình viết nên.
Người Hồ Nam thông minh, dũng cảm, mạnh mẽ quả
quyết, dám đảm nhiệm việc lớn coi thiên hạ hưng vong là trách nhiệm của mình,
“nước Trung Hoa chỉ diệt vong khi ngưòi Hồ Nam chết hết” ngưòi Hồ Nam tập trung
đựoc mỹ đức ưu tú của dân tộc Trung Hoa. Học tập, đi lính đánh nhau, lao động đều
tốt.
Thế nhưng gần đây phong khí xã hội đã có xu thế
giảm sút. Trường Sa là thành phố tiêu dùng điển hình, các nhà tắm đầy thành phố
(đều kèm theo gái) nhung giá rất đắt, dân địa phưong không có tiền vào tắm và
thưòng do ngưòi Quảng Đông tới làm mưa làm gió.
Song Phong là”quê hưong làm các loại giấy chứng
nhận giả” của Trung Quốc. Huyện Sâm Châu toàn là tham quan. Ngưòi
Hồ Nam có 3 loại khí: linh khí, phỉ khí và bá khí, một khi trở thành
nhóm bạo lực thì nguy hại cực lớn. “Đảng ô tô” mà Quảng Đông đang đả kích mạnh
chủ yếu là ngưòi Hồ Nam, “Nhóm Hồ Nam” vượt trội hơn “Nhóm Đông Bắc” và “Nhóm
Quảng Tây”
Hồ Nam có nhiều gái đẹp, đảm đang thông tuệ, làm
việc tháo vát, nhưng làm vợ thì không đáng tin lắm, đã có câu nói”Tương nữ đa
tình”( gái Hồ Nam đa tình) số ngưòi làm việc trong ngành dịch vụ bằng vai phải
lứa với các chị em Tứ Xuyên, Đông Bắc. Ở đây có câu “chỉ cưòi nghèo chứ không
cưòi xướng ca”. Là tỉnh lớn xuất khẩu “ các vợ hai”.
4. Người Quảng Đông
Ngưòi Quảng Đông là nhóm ngưòi phức tạp nhất
Trung Quốc, thân thể nói chung nhỏ, lùn, trán rô, mắt nhỏ mà sâu, mũi hơi rộng,
môi dày. Có 3 ngôn ngữ chính: tiếng phổ thông, tiếng Triều Châu, tiếng Khách
Gia.
Trong lịch sử Quảng Đông là một vùng pha tạp của
Bách Việt, vùng ven biển còn có ngưòi Đông Nam Á đến ở, gọi là ngưòi Quảng Phủ,
gồn cả ngưòi Hồng Công, Ma Cao; ngưòi vùng Triều, Sán cũng có ngôn ngữ và phong
tục độc đáo. Hai loại ngưòi này thuộc ngưòi ở đất Quảng Đông. Xem xét từ mặt
sinh vật thấy nguồn gốc dân tộc không giống ngưòi phưong bắc.
Sau “ngũ Hồ loạn Hoa” ngưòi Hán vùng trung
nguyên(chủ yếu là ở Hà Nam) di cư một lưọng lớn về phía nam, tập trung sinh
sống tại vùng Mai Châu, Hà Nguyên, và một phần vùng Kiết Dưong, Sán Vỹ, nói
tiếng Khách Gia. Bộ phận ngưòi Hán này phải được coi là ngưòi Hán “thuần chủng”
về huyết thống nhất(ngưòi phưong bắc luôn luôn ở vào vị thế dân tộc hoà nhập).
có khoảng hơn 10 triệu nguời.
Tôn Trung Sơn, Lý Gia Thành cũng đều là ngưòi
Khách Gia. Quảng Đông là tỉnh có ngưòi Hoa ra nuớc ngoài sớm nhất để kiếm sống,
có hơn 20 triệu Hoa Kiều, ngưòi Triều Sán và Ôn Châu nổi tiếng ở nuớc ngoài vì
kinh doanh, buôn bán.
Do ngưòi Qưuảng Đông bị ma quỉ hoá tuyên truyền
nên tại Mỹ và Canada có có phong trào “bài Hoa” kéo dài nửa thế kỷ.
Quảng Đông là nơi bắt nguồn cách mạng dân chủ cận đại, là giao điểm của văn
minh đông, tây là lô cốt đầu cầu và ngưòi lính đứng đầu của cải cách mở cửa.
Ngưòi Quảng Đông là nhóm người hải dương, tràn đấy khí huyết và sức sống, đầu
óc linh hoạt, giầu tính mạo hiểm, tính sáng tạo, dám đi trước thiên hạ.
Ngưòi Quảng Đông không thích thú lý luận rỗng
tuếch, và cũng chẳng để ý bàn bạc triết lý, con ngưòi, và cũng không hứng thú
với chính trị.. Người người đều vào ra bận rộn vì tiền, suốt ngày hết đông lại
tây. Ngưòi phương bắc suy nghĩ trước, hành động sau, còn người Quảng Đông lại
hành động truớc rồi mới suy nghĩ sau, coi trọng hiệu quả và giá trị, không coi
trọng hình thức và thể hiện bề ngoài.
Hiện nay Quảng Đông đã trở thành vùng kinh tế
phát triển nhất Trung Quốc,. Phụ nữ Quảng Đông rất hiền hậu, giỏi việc bếp núc.
Thế nhưng hình tưọng nhân văn của Quảng Đông lại là hộ phất điển hình. Mấy đánh
giá thưòng thấy là:
-Lạnh nhạt, bài ngoại, tự đại. Quảng Châu là thế
giói phồn hoa, là thành phố lãnh đạm nhất thế giới, nếu như chỉ hỏi đường với
một ngưòi Quảng Đông mà lại nói tiếng tỉnh ngoài thì rất ít khi được trả lời.
Láng giềng với nhau mà cũng cửa đóng then cài, chẳng ai để ý tới ai, thêm một
việc chẳng bằng bớt đi một việc.
Ở Quảng Châu muốn tìm một ngưòi sẵn sàng làm
việc nghĩa còn khó hơn lên trời. Ngưòi Quảng Đông bài ngoại từ lâu, đã từng gọi
những ngưòi ngoài Quảng Đông là “thằng vơ vét” gọi phụ nữ là “em gái xứ bắc”,
gọi ngưòi phưong tây là “quỉ”.. thậm chí ngay ngưòi Triều Sán ngay trong tỉnh
cũng bị gọi là “thằng lạnh nhạt”. Nhiều ngưòi Quảng đông tri thức địa lý nghèo
nàn, thưòng tự cho mình là trung tâm, ngoài Quảng Đông ra đều là phưong bắc cả.
- Ngưòi Quảng Đông không có văn hoá. Có văn hoá
trà, văn hoá rượu, văn hoá ăn thịt rắn, văn hoá uống canh, nhưng không tiếp
nhận quốc tuý, chỉ sung bái văn hoá Hồng Công, Đài Loan. Ngưòi Quảng Đông về cơ
bản không xem TV trung ương, giữa kinh tế và văn hoá không bao giờ có sự cùng
tiến, hầu như là sa mạc văn hoá.
500 doanh nghiệp lớn nhất nước, 500 doanh nghiệp
lớn nhất thế giới chẳng có mấy đơn vị chịu đặt tổng bộ tại Quảng Đông
- Người Quảng Đông không có tố chất. Mặc dù chưa
ăn xong là họ đã sách túi chạy đi, rất vụ thực. Chẳng mềm tay trước mọi thứ của
ngưòi khác. Tiêu thụ đũa ăn, hộp cơm dùng một lần nhất toàn quốc. Bất kể là nam
hay nữ, ban ngày đều mặc quần áo ngủ đi dạo phố, vào siêu thị như chỗ không
ngưòi.
- Ngưòi Quảng Đông không quan tâm việc lớn quốc
gia, không quan tâm tới sự phát triển của thế giới. Vinh nhục của đất nước
chẳng hề bận lòng chỉ theo lối sống nhỏ bé của mình, chỉ quan tâm tới giá nhà ở
và cổ phiếu của mình.
-Nghiện đánh bạc thành tính, nổi tiếng thế giới.Loại sổ xố nào cũng chơi, hễ
phát hành là bán hết.
- Ngưòi Quảng Đông rát mê tín, thích đi lễ tại
đền chùa, mỗi năm mấy lần. Bàn thớ trong nhà ngày lễ ngày tết không bao giờ để
tắt khói hưong. Bản số ô tô, số nhà, số điện thoại, ngày kết hôn, ngày mở cửa
hàng đều chọn số 6 và số 8. Còn đến mức mổ bụng mẹ để sinh con đứng ngày đã
chọn. Ngày quốc sỉ 19/8 hàng năm (ngày Nhật xâm lược 3 tỉnh đông bắc) lại là
ngày lành tháng tốt của ngườì Quảng Đông.( vì đối với họ số 9 và số 8 đều là số
đẹp) Có ngưòi xây mộ cha ông còn hào hoa hơn nhà ở của mình( không hoàn toàn là
vì hiếu kính)
- Đàn ông Quảng Đông rất vô sỉ, đàn bà thì chẳng
ra làm sao. Đi trên phố thi thoảng gặp mỹ nữ thì đều là ngưòi Tứ Xuyên,
Hồ Nam. Học sinh yêu sớm nổi tiếng cả nước, tiểu học đã bắt đầu biết tay
nắm tay nhau, lên trung học là dám mạnh dạn hôn nhau. Liệu có ngưòi đàn ông
Quảng Đông nào không chơi gái không? Liệu có anh Quảng Đông sẵn tiền nào không
bao “vợ hai” không? Phụ nữ Quảng Đông nếu không có đàn ông là không tự tin vào
cuộc sống, không biết dựa vào luật pháp để bảo vệ mình.
-Ngườì Quảng Đông cái gì cũng dám ăn. Rắn,
chuột, chó, mèo, ấu trùng, xuyên sơn giáp… cho đến cả thai nhi cũng như tất cả
các loại động vật dã sinh được bảo hộ đều ăn tuốt. Năm 1949 giải phóng quân
Trung Quốc đánh xuống miền nam, tham dự chiến dịch Lưỡng Quảng đều là ngưòi
Đông Bắc khi nghe kể về những thói ăn kỳ lại ở đây, có nhiều binh lính đã không
muốn ra trận nữa.
-Ngưòi Quảng Đông rất kiêu ngạo trong buôn bán.
Làm ăn, qua lại với ngưòi Quảng Đông sẽ thấy họ, một là tinh nhưng không tín,
hai là ngạo mạn.Thưòng nhìn ngưòi khác bằng con mắt: ngưòi có ta cũng có, ngưòi
không có ta có, muốn là làm không muốn là bỏ đi. Nhưng khi cần anh thì lại giả
tạo đến mức chịu không nổi.
-Sách giả, thuốc lá giả, đĩa giả, tiền giả.. .do
ngưòi Quảng Đông chế tạo lan tràn khắp nước. Cho thêm nước vào bình gaz, cho
thêm thuốc nhuộm mầu độc hại vào thực phẩm, biến cồn công nghiệp thành rượu nổi
tiếng, lại còn thuốc giả, máy móc nhái thương hiệu nuớc ngoài.
Quảng Châu, Đông Quán, Thâm Quyến là những thành
phố không có cảm giác an toàn nhất, Thành phố Đông Quán vừa bẩn vừa loạn, cũng
có sông đào nhưng mùi thối thấu trời. Đáng sợ nhất là ban ngày mà trộm cướp vần
hoành hành. Quảng Đông là tỉnh lớn nhát về “vợ hai”, tại Thâm Quyến, Đông Quán
có rất nhiều “thôn vợ hai” rất tráng lệ
5. Người Quảng Tây
Ở Quảng Tây chủ yếu có hai loại tiếng địa phưong
là tiếng Quế, Liễu(tiếng Quế Lâm và Liễu Châu rất gần tiếng Hồ Nam) và
tiếng Nam Ninh(loại biến chủng của tiếng phổ thông Quảng Đông, rất khó nghe).
Khí hậu Quảng Tây viêm nhiệt. Ngưòi Quảng Tây bị
coi là có tính cách nhu nhược nhấtửTung Quốc, thưòng đựoc coi là đại biểu cho
sự mềm yếu có thể coi thưòng, từ thời xưa đã thiếu vắng dũng sĩ cũng như những
bậc kiêu hùng, nếu tính cách người Trung Quốc đều như ngưòi Quảng Tây, thì đất
lớn Trung Hoa đã bị các cưòng quốc chia cắt hết từ chiến trnh thuốc phiện.
Người Quảng Tây phổ biến gầy ốm, nước da xấu ,
tỷ lệ nam thanh nữ tú thấp nhất trong cả nước.
Ô tô công cộng, thậm chí cả xe ngựa ở Nam Ninh
cũng rất lùn nhỏ. Đường phố Nam Ninh nhỏ hẹp, siêu thị thô sơ(siêu thị lớn là
từ ngoại tỉnh đến), xe máy đứng đầu cả nuớc, chôc này cũng thấy cửa hàng bán
cây thuốc. Ngưòi Nam Ninh ăn không khỏe và rát tiết kiệm
Quan chức hủ bại, bất học vô thuật(bỏ tiền mua
quan).
Kinh tế tuy lạc hậu, nhưng quan niệm về tính dục
rất cởi mở, đã có câu “đại học Quảng Tây không còn gái trinh”. Có 1000
NDT(khoảng 3 triệu VNĐ) là có thể bao được nữ sinh viên Học viện Nghệ thuật
Quảng Tây . Quảng Tây có rất nhiều nơi du ngoạn đẹp, nhưng không biết kinh
doanh. Ngành nhà đất, may mặc bị ngưòi Ôn Châu(tỉnh Phúc Kiến) nắm hết.
Lưỡng Quảng(Quảng Đông, Quảng Tây) mặc dù cùng
nguồn cội, nhưng lại “tính tương cận, tập tương viễn”. Tính cách chung của cả
hai tỉnh này là cái gì cũng dám ăn.
Đàn ông Quảng Tây tiểu khí, tự tư, nhát gan, nhưng một khi đến Quảng Đông thì
đã có biến đổi lớn về tính cách. “Đảng ô tô” chủ yếu là ngưòi Quảng Tây.
Người nông thôn Quảng Tây tương đối thiện lưong(kể
cả ngưòi Choang ở vùng xa xôi hẻo lánh mà về cơ bản đã bị tộc Hán đồng hoá)
thành thực, trung hậu, không có tính công kích, chỉ cần ngưòi ta thương hại là
được. Nghiện đánh bạc, chơi các loại sổ xố khiến nhiều ngưòi tan cửa nát nhà,
rất nhiều ngưòi chưa từng ngồi xe lửa.
6. Người Hải Nam
Là nơi tổ tiên ngưòi Lê dời đến sớm nhất, là một
quận thời Tây Hán, đến Ngũ đại là nơi di dân trung nguyên đến nhiều nhất, trong
đó thời Tống,Minh Thanh qui mô di dân lớn nhất mà chủ yếu là từ Phúc Kiến,
Quảng Đông, Quảng Tây. Tỉnh Hải Nam là tỉnh thành lập sau cùng của Trung Quốc,
trứoc đó là vùng xa và lạc hậu của tỉnh Quảng Đông, tiéng nói chủ yếu là tiếng
phỏ thông Quảng Đông mang đặc sắc Hải Nam.
Dân Hải Nam gốc rất bảo thủ, tầm nhìn
hẹp, tự cho mình là giỏi, nhưng ngay khi nói cũng để lộ sự yếu đuối. Nước da
đen là một đặc trưng điển hình, thân ngưòi lùn nhỏ, rất ít trai tài gái sắc.
Ngưòi Hải Nam chịu được nghèo nhưng
không chịu được khổ. Do có nhiều di dân, thưong nhân Hả Nam đã lộ rõ
đặc sắc ưa thích đầu cơ, nhưng tư duy với tầm nhìn ngắn hẹp.
Hải Nam cũng là quê hưong Hoa Kiều, nhưng nhiều ngưòi trongbọn họ vẫn
thuộc loại nghèo không thành đạt như ngưòi Triều Sán và ngưòi Khách Gia ở nước
ngoài. Đây là nơi buôn lậu khá phổ biến.
Kinh tế Hải Nam còn rất yếu. Có câu:
đến Bắc kinh mới thấy quan mình nhỏ, đến Đông bắc mới thấy gan mình bé, đến
Quảng Đông mới thấy tiền mình ít, đến Hải Nam mới thấy sức khoẻ mình
rất không tốt!
7. Ngưòi Hồng Công
Ngưòi Hồng Công sớm nhất là di dân Quảng Đông,
bị nuớc Anh thống trị lâu dải.Trên ngưòi Hồng Công có cả đặc trưng tính cách
phưong đông và phương tây, hàm súc của phương đông, thẳng thắn của phương tây,
nhiệt tình của phương đông, lãnh đạm của phưong tây, tình cảm của phương đông,
khách quan của phương tây.
Trừ một số cá biệt ra đa số người Hồng Công
không tự đánh giá thấp nguồn gốc, dòng máu của mình và không tự phủ định. Cái
phủ định là đại lục “không dân chủ”, “hủ bại” tâm trạng phổ biến là “yêu nước,
yêu Hồng Công, nhưng chưa chắc đã yêu đảng”
Từ năm 1997 đến nay, tính đồng thuận của ngườì
Hồng Công với tổ quốc đã không còn vấn đề gì, thậm chí những phần tử yêu nước ở
đây, còn kích tiến hơn cả đại lục( việc bảo vệ đảo Điếu Ngư-Senkaku là một ví
dụ, phi công vũ trụ Dưong Lợi Vỹ được hoan nghênh nhiệt liệt ở Hồng Công) khiến
đại lục toát mồ hôi. Hồng Công đất hẹp ngưòi đông do đó cạnh tranh rất ác liệt,
tạo nên tính cách sáng suốt, dám làm, kiên nhẫn, thực tế, khẩn trương, tất bật.
Ngưòi Hồng Công mặc dù đã gần bị tây hoá nhưng
bất kể là trong việc cầu mong bình an, sự nghiệp thành đạt, chuyện hôn nhân,
bệnh tật… đều đến chùa đền khấn vái cầu xin, có phần thành kính hơn ngưòi nội
địa. Ngưòi Hồng Công cũng như ngưòi Đài Loan phần lớn bao “vợ hai” tại đại lục,
ngay phu vận tải cũng bao “em gái Tứ Xuyên” tại Thâm Quyến
8. Ngưòi Macao
Bị Bồ Đào Nha thống trị hơn 400 năm nhưng quan
niệm văn hoá truyền thống vẫn không thay đổi, Ma Cao và HồngCông chỉ cách nhau
một cửa sông Châu Giang, nhưng Hồng Công thì chen chúc náo nhiệt khiến lòng
ngưòi chẳng mấy khi yên,còn Ma Cao tuy chen chúc mà không náo nhiệt, căng thẳng
mà vẫn yên tĩnh khiến người ta thoải mái thư nhàn, chỗ nào cũng thấy tình ngưòi
ấm áp rất ít khi nghe thấy tiếng tranh cãi, càng chẳng thấy những hành động thô
bạo.
Có thể là nơi này đất hẹp ngưòi ít, ngưòi đi
đưòng gặp nhau đều có cảm giác như là đã biết nhau rồi. Đàn ông Ma Cao “nhỏ
ngưòi nhưng bụng dạ rộng lớn” ngụ ý tuy không cao lớn như đàn ông Đông Bắc
nhưng rất độ lượng, không tính việc nhỏ, tinh thẩn trách nhiệm cao; phụ nữ Ma
Cao hết lòng với việc nhà, hiến dâng vô tư cuộc sống của mình cho cha mẹ,
chồng, con.
Kinh tế Ma Cao đơn nhất, ngoài đánh bạc và du
lịch ra chẳng có vị trí gì trên quốc tế. Việc Ma Cao về với tổ quốc có ý nghĩa
tượng trưng chủ quyến lớn hơn ý nghĩa kinh tế. Do không giầu có như Hông Công
nên rất nhiều ngưòi Ma Cao thích đến mua sắm tại Chu Hải(Quảng Đông)
9. Ngưòi Bắc Kinh
Là vùng thấy nhiều biết rộng, vừa tiêm nhiễm văn
hoá vua quan vừa chịu tàn dư của phong tục con em nhà Mãn, vô cùng lưòi biếng,
rất nhiều ngưòi thà ở nhà hưỏng bảo hiểm thấp chứ không chịu đi làm, khá nhiều
ngưòi dựa vào tiền bồi thường nhà cửa cổ xưa do cha ông để lại khi phải di
chuyển hoặc giá nhà đất gia tăng để sinh sống; có ngưòi là quan thưong dựa vào
chính sách mà sống cuộc sống nhàn rỗi, ngưòi béo rất nhiều.
Những tiếng tục của Bắc Kinh về cơ bản đều là
của ngưòi tỉnh ngoại. Trong các thế hệ sau của Bắc Kinh con nhà giầu sang rất
nhiều, chỉ chú ý hưởng thụ.
Phụ nữ rất cởi mở và rất có cá tính. Ngưòi Bắc
Kinh muốn học đại học là học được, ngay cả với những truờng nổi tiếng như Thanh
Hoa, Bắc Đại, sau khi tốt nghiệp nói chung được các cơ quan nhà nước và doanh
nghiệp ưu tiên tuyển dụng.
Chỗ nào ở Bắc kinh cũng có quan, ngay ông lão
đạp xe ba gác cũng ra vẻ ta đây vì nhà nào chả có dây mơ rễ má với mấy vị quan.
Chính vì thế mới có câu nói ở trên “không đến Bắc Kinh không biết mình chỉ là
quan nhỏ”
Hộ khẩu ở Bắc Kinh quí báu lắm, ngưòi Bắc Kinh
cũng bài ngoại, nói chung cảm thấy mình là “ngưòi của trung ương”(rất nhiều
ngưòi ngoại tỉnh ở Bắc Kinh sau khi trở thành ngưòi Bắc Kinh thì thế hệ sau của
họ cũng bài ngoại). Cảnh sát nói chung đặc biệt “chiếu cố” mấy ngưòi ngoại
tỉnh. Tuy vậy tính bao dung rất khá(tất nhiên không thể so sánh với Thâm Quyến)
Mở công ty nên hết sức tránh nhận ngưòi Bắc
Kinh. Ngưòi Bắc Kinh cái gì cũng minh bạch, nhưng chỉ biết nói mà không thể
làm, nghiệp vụ còn giỏi hơn ông chủ(ngưòi Bắc Kinh thích hợp làm nhân viên tài
vụ , nhân phẩm đáng tin, lại trốn không nổi).
Ngưòi Bắc Kinh mồm lưõi dẻo quẹo. Tuy vậy nhìn
chung ngưòi Bắc Kinh rất lương thiện, có chí khí lớn, có sự đồng cảm, coi trọng
nghĩa khí, thích chuyện không đâu, nhất là những việc lớn quốc gia, thích tán
chính trị(không ít tin vỉa hè từ đó), được coi là ngưòi có tố chất cao tại
Trung Quốc, Ngưòi phát tài ở Bắc Kinh chủ yếu là người ngoại tỉnh, làm quan ở
Bắc Kinh cũng chủ yếu là di dân tỉnh ngoài.
Ngưòi Bắc Kinh lưòi biếng khó thành việc lớn.
Cùng với việc chính sách được nới rộng, chế độ
hộ khẩu ngày càng bớt chặt chẽ, ngưòi tính ngoài đến Bắc kinh cướp cơm ăn tạo
nên cảnh ngưòi Bắc Kinh thất nghiệp càng đông, cảm giác mất mát rất lớn.
Văn hoá Bắc kinh là sự hoà nhập của nhiều loại,
văn hoá thể chế quan phưong, văn hoá của phần tử trí thức và văn hoá dân gian
đều ở trạng thái cộng sinh, văn hoá hiện đại chung sống hoà bình với văn hoá
truyền thống, cái nào cũng có phong cách riêng, cũng có nét tự hào riêng.
10. Người Thiên Tân
Thật khó tưỏng tượng nổi, ở ngay cạnh Bắc Kinh
mà tiếng nói lại vô cùng độc đáo(nghe nói bị ảnh hưỏng của quân đội Hoài của Lý
Hồng Chưong), thu nhập về tiền lưong không hơn những ngưòi tương đưong nhưng
nằm trong diện rời khỏi công tác, cắt giảm biên chế ở Thẩm Dưong. Đó là một
thành phố trực thuộc trung uơng dễ bị ngưòi ta quên.
Tính cách đàn ông Thiên Tân sảng khoái nhưng có
suy nghĩ yên tâm với hiện tại không tiến thủ. Là ngưòi nghĩa khí, làm việc quả
đoán, rất dễ kết bạn, tính cách phụ nữ đã nam tính hoá, làm vợ không bằng làm
bạn, chứi ngưòi không tiếc lời, không hiền lành chút nào!
Ngưòi Thiên Tân bản tính khôi hài.
Thực ra Thiên Tân không phát triển lắm, Bắc Kinh
đã hút cạn các vùng xung quanh, Bắc Kinh không hề bị cắt điện, nếu có cắt thì
cắt Thiên Tân, Hà Bắc.. Ngưòi Thiên Tân xưa nay không phục ngưòi Bắc Kinh, bóng
đá mà gặp nhau là tử chiến! Kiến trúc ở Thiên Tân còn đậm màu sắc văn hoá
truyền thống, nghệ nhân dân gian nhiều. Thiên Tân không thích hợp với định cư,
dù cát bụi không bằng Bắc Kinh
11. Người Hà Bắc
Từ xưa Yên Triệu đã nhiều tráng sĩ khảng khái bi
tráng. Ngưòi Hà Bắc trung hậu vụ thực, cam chịu làm chiếc lá xanh để làm đẹp
Bắc Kinh. Vì Bắc Kinh mà chịu cắt điện, chịu ô nhiễm, chịu gió cát. Nội thành
phồn hoa không kém ai, nhưng cứ ra khỏi thành phố là thấy những ngôi nhà nông
thôn Hà Bắc nghèo nàn. Người Hà Bắc quen nhìn mắt ngưòi Bắc Kinh để làm theo,
nhưng học nói tiếng Bắc Kinh thế nào cũng chẳng giống.
Thượng Hải lôi kéo vùng đồng bằng sông Trưòng
Giang phát triển, nhưng Bắc Kinh lại hút hết màu mỡ bình nguyên Hoa Bắc! Hà Bắc
là vườn rau lớn của Bắc Kinh. Nhiều nguời Hà Bắc làm gác cổng nhà, bầy của hàng
bán rau tại Bắc Kinh, thưòng bị những ngưòi quản lý thành thị ở đó khinh thường
( một nông dân Hà Bắc do phẫn nộ mà giết một nhân viên quản lý thành phố Bắc
Kinh, toà án sợ mâu thuẫn xã hội gay gắt thêm nên chỉ dám xử tử hình hoãn thi
hành)
Tiếng nói các vùng tại Hà Bắc khác nhau rất lớn.
Tiếng Ký Châu Hà Bắc còn khó nghe hiểu hơn tiếng Quảng Đông, còn tiếng Đường
Sơn, tiếng Trưong Bắc đều có đặc sắc riêng, tiếng Tần Hoàng đảo, Thừa Đức… lại
gần với tiếng vùng Đông bắc.
Phụ nữ Hà Bắc thật thà chất phác lưong thiện,
làm vợ rát thích hợp. Rất nhiều nông dân tỉnh ngoài vào Bắc Kinh làm thuê khâm
mộ người Hà Bắc: vì lộ phí về nhà vợ chỉ tốn 30 NDT(khoảng chưa tới 1 triệu
VNĐ)
12 . Ngưòi Sơn Tây
Nền tảng văn hoá sâu dầy, nhưng cặn bã chiếm đa
số. “Mặt vuông, đường nét rõ ràng, mũi ngắn mà to” là hình tượng điển hình của
ngưòi Sơn Tây. Ngưòi Sơn Tây thực thà, yên phận, trung thành đáng tin, thích đi
bộ tới nơi làm việc.
Nhưng đầu
óc chưa đủ linh hoạt, đần độn cố chấp, cẩn thận nhưng sợ việc, không có phong
cách kinh doanh. Nơi này ngưòi đông đất hẹp, đất đai cằn cỗi, công nghiệp lạc
hậu, quan niệm lạc hậu, may mà có nhiều mỏ than.
Mặc dù Sơn Tây nghèo nhưng ngưòi giầu không ít,
phần lớn là đổi lấy từ xương trắng của công nhân các hầm mỏ trong tỉnh.
Đã từng có nhóm giầu có đến Bắc Kinh, tập thể vơ
vét nhà đất, dù ăn vận đúng mốt vẫn không giấu nổi dáng vẻ xấu của bọn mới
phất, bị ngưòi Bắc Kinh cười nhạo. Lâm Phần đựoc gọi là thành phố than, năm nay
được xếp vào loại thành phố bẩn nhất thế giói. Trong không khí ở Thái Nguyên,
Đại đồng có nhiều hạt sạn than. Khó tìm đựoc một nơi non xanh nuớc biếc tại Sơn
Tây.
Những kẻ làm quan ở Sơn Tây vô cùng ngu muội,
thích ra vẻ ta đây, lên thêm một chức là đã có ngưòi chết, chính quyền mà như
nha môn. Đàn ông tuy đáng tin nhưng bủn xỉn. Ngưòi Sơn Tây nổi tiếng vì hà
tiện.
Ngưòi Sơn Tây dù ăn vận “nhà quan” vẫn không hợp
thời, ăn uống giản dị, và ăn gì cũng phái có dấm, Phụ nữ mặc dù coi trọng đạo
lý nhưng khi làm vợ cũng có chút sĩ diện. Thương nhân Sơn Tây đi khắp thiên hạ,
nhưng vẫn “lá rụng về cội”, thưòng đặt tổng bộ của mình tại mấy nơi nho nhỏ
thuộc tỉnh quê hưong cho nên không phát triển được.
13. Người Nội Mông Cổ
Ở đây chủ yếu nói về phần phía tây Nội Mông, vì
nguời dân từ Xích Phong trở về đông nói tiếng Đông Bắc. Mặc dù là khu tự trị
nhưng hiện nay người Hán chiếm đa số. Thể hình ngưòi Mông Cổ thô khoẻ, mặt rộng
tai lớn, con mắt như có thần, trán nhô, tóc quăn, tiếng nói kêu vang, cánh tay
dài hơn nguời, trông uy vũ nhưng là cái dũng của kẻ thất phu. Có tấm lòng thiện
lương, đôn hậu với người, tính cách sảng khoái, dám yêu dám ghét, ít có đường
ngang ngõ tắt, uống rượu khoẻ, rất nhiều ngưòi đã Hán hoá.
Ngưòi Hán ở phần tây Mông cổ rất giống ngưòi Tây
Bắc dù đựoc gọi là Hoa Bắc, tiếng nói có màu sắc Tây Bắc, thật thà, an phận thủ
cựu, không làm quan và buôn bán được. Bao Đầu, Hô Hoà Hạo(thành phố gang thép
lớn của Trung Quốc và thủ phủ của Nội Mông) chủ yếu là ngưòi Hán di dân tới,
không có nền tảng văn hoá gì,
14 . Ngưòi Đông Bắc(gồm 3 tỉnh Hắc Long
Giang, Liêu Ninh, Cát Lâm và phần phía đông khu tự trị Nội Mông Cổ)
Sở dĩ gộp lại để nói vì ngôn ngữ, phong tục các
vùng này rất giống nhau. Thời cổ đại Đông Bắc là vùng đất hoang dại, ngưòi Hán
ngày nay ở đó chủ yếu là thế hệ sau của những ngưòi di dân nghèo khổ Sơn Đông,
Hà Bắc, cũng từng là thiên đưòng của những tội phạm bị lưu đầy, những kẻ sát
nhân vượt ngục trốn tội từ trung nguyên tới, chỉ trong nửa thế kỷ mà đã chịu sự
thống trị của Thanh, Nga, Nhật, quân phiệt, Trung Hoa Dân Quốc, CHND Trung Hoa,
ở trong tình trạng vô pháp vô thiên lâu dài, Cộng thêm sự hoà nhập Mãn, Mông,
Triều, khí hậu rét mướt, đất đai rộng lớn đã hình thành nên nền văn hoá Đông
Bắc độc đáo, là vùng có sự khác biệt gien lớn nhất(di truyền học cho rằng khác
biệt gien càng lớn nhân chủng càng ưu tú)
Chiến dịch Bình,Tân và Liêu, THẩm chủ yếu là nhờ
ngưòi Đông Bắc đánh, sau chiến dịch vượt sông, dã chiến quân số 4 do Lâm Bưu
lãnh đạo đã đánh một mạch đến đảo Hải Nam, ngưòi Đông Bắc có tâm trạng lập
công, lập nghiẹp, nổi tiếng rất mạnh. Đông Bắc đã từng là vùng công nghiệp phát
triển nhất Trung Quốc, đựoc gọi là “con trai cả cửa nứoc Cộng Hoà”.
Cho đến bây giừo vẫn là vùng có trình độ giáo
dục cao nhất và giao thông phát triển nhất Trung Quốc. Hiẹn nay Đông Bắc là nơi
có nhiều cán bộ công nhân viên phải rời bỏ công viẹc nhiều nhất, thưong nhân
phần lớn là buôn bán nhỏ, không có lý tưởng cũng như gánh nặng cao xa, có thể
nói là “to gan khi đánh trận, bé gan khi kinh doanh”.
Mấy năm gần đây đã xuất hiện một loạt nhân tài,
số ngưòi giầu nổi tiếng không ít, và có nhiều ngưòi làm quan trong chính quyền
. Ngưòi Đông Bắc là ngưòi có ưu khuyết điểm về tính cách rõ ràng nhất trong các
ngưòi Trung Quốc(nam, nữ khác nhau biệt không lớn), nội tâm cưong nghị, bề
ngoài mạnh mẽ, tính cách hào sảng, to gan, trọng nghĩa khí coi thưòng luật
pháp, dễ kết bạn, thưòng nói : “đừng nói đến tiền, nói đến tiền là tình cảm xa
rời mất”.
Rất dũng cảm, đấu tranh mạnh(kẻ trộm cắp Tân
Cưong tinh ác nổi tiếng cả nứoc nhưng không dám tới Đông Bắc làm ăn).Ngưòi Đông
Bắc thấy viẹc nghĩa là làm thích những việc không đâu. Phần đông ngưòi Đông Bắc
rất lưong thiện, có lúc nhiệt tình đến mức ngưòi ta khó tiếp nhận. Có một số
rất ít lòng dạ hẹp hòi, thích làm phỉ, xảo quyệt hung ác nên chú ý phòng ngừa.
Người Đông Bắ không cao to như một số miêu tả.
Ngưòu Đông Bắc thích đánh nhau mà không tính hậu quả, khi đánh nhau ngưouì Đông
Bắc thưòng tìm vũ khí nơi gầm nhất, chuyên đánh vào chỗ nguy hiểm(không ai muốn
đánh nhau với ngưòi Đông Bắc) dễ bị lợi dụng làm kẻ giết ngưòi đánh thuê.
Nhiều hộp đêm thích thuê ngưòi Đông Bắc làm bảo
vệ. Tội phạm bạo lực ở Bắc Kinh chủ yếu là do ngưòi Đông Bắc làm, thu lộ phí
đen trên mấy con đường ở Bắc Kinh về cơ bản đều là ngưòi Đông Bắc, tổ chức xã
hội đen trên thị trường bán buôn tại Bắc Kinh đều do ngưòi Đông Bắc làm chủ
Xã hội đen tại Quảng Châu, Thâm Quyến, Hải Nam
phần đông là ngưòi Đông Bắc, gần đây tại hầu hết các thàng phó lớn và vừa trong
nứoc đều có nhóm tội phạm Đông Bắc xuất hiện(và cả tại Đông Âu, Nga, Bắc Mỹ, Nhật)
địư phưong có tửu lưọng lớn nhất Trung Quốc, tỷ lệ phụ nữ hút thuốc lá uống
rượu cao nhất,
Có nhiều mỹ nữ, thân cao, chân dài, nhưng da
không mịn lắm, tính cách quá bộc trực, thậm chí ngay trên xe công cộng cũng ăn
to nói lớn.Gốc nền văn hoá quá mờ nhạt, thích trang điểm nhưng lại không biết
trang điểm,
Thế nhưng con gái Đông Bắc lại ngu dại đến đáng
yêu, thích ai dù chết cũng không rời, hận ai có thể giết người không run tay,
muốn lấy con gái Đông Bắc phải có sự chuẩn bị về tư tưỏng. Tuy vậy có số ít gái
Đông Bắc không thua kém “em gái Xuyên”, “em gái Tưong” trong nghề.
Ngưòi Đông Bắc tưong đối thông minh nhưng chịu
khổ kém nên số nông dân vào thành phố làm thuê rất ít, và cũng ít ngưòi chuyên
tâm làm kỹ thuật, tuy vậy có khả năng mở quán ăn, công ty.
Mấy năm gần đây, ngưòi Đông Bắc di dân tới Bắc
Mỹ, Đông Âu tăng vọt, có một số ngưòi đã lập nên sự nghiệp, nhưng cũng có một
số ngưòi bôi đen Trung Quốc.
Tỷ lệ ngưòi Đông Bắc phạm tyội tại Bắc Kinh,
khẳng định cao hơn người Hà Nam, có khả năng là tiếng nói có phần giống
nhau cộng thêm nguời Đông Bắc và ngưòi Bắc Kinh có hàng ngàn mối liên hệ, số
ngưòi công khai chửi nguời Đông Bắc tương đối ít hoặc là không dám chửi.
So sánh thêm, thấy ngưòi Liêu Ninh tròn trịa,
kinh tế cũng phát triển nhất. Cơ sở thể dục thể thao như điền kinh, các loại
bóng lớn là tỉnh tốt nhất trong các tỉnh. Ngưòi Hắc Long Giang tưong đối thô
lỗ, giỏi hạ thủ Bắc Đại hoang mà(xã hội đen bức xạ cả nước) .
Ngưòi Cát Lâm tưong đối quê có chú dụt dè “trứoc
có sói, sau có hổ”sói là Liêu Ninh, hổ là Hắc Long Giang Điều kỳ lạ là tiếng
Cáp Nhĩ Tân là tiếng vùng Đông Bắc gần gũi nhất với tiếng Bắc Kinh.
Tiếng nói Đại Liên càng giống tiếng vùng Giao
Đông. Ngưòi Đại Liên có cảm giác ưu việt, nhưng tưong đối hư vinh, cho là Đông
Bắc chỉ có Đại Liên là đựoc, các thành phố khác đều chẳng ra sao.
Đàn ông Đông Bắc nói năng ngọt ngào, giỏi nịnh
phụ nữ, nhưng đa số có khuynh hướng coi đàn ông là nhất, có ngưòi đánh vợ.
15. Người Sơn Đông
Quê hưong Khổng Mạnh, tỉnh của lễ nghiã, từ xưa
Sơn Đông đã có nhiều tuớng, nhiều kẻ sĩ trung nghĩa.Có thể là do quá thẳng thắn
nên ít có nhà âm mưu và hoàng đế. Hình tượng của người Sơn Đông nói chung khá
tốt, đàn ông có tinh thần trách nhiệm cao, trung hậu, bộc trực, nặng tình
người, trọng hiếu thuận, bên ngoài thô lỗ, bên trong tốt đẹp, được văn hoá nhà
Nho tôi rèn, đặc biệt coi trọng quan hệ giao tiếp và tôn trọng đẳng cấp.
Quan niệm gia đình mạnh, rát thích hợp làm bố
chồng; phụ nữ hiền hậu lo việc nhà, nhưng ngang ngựoc, chân tưong đối to, tiếng
nói rất khó nghe. Ý thức quê cha đất tổ của người Sơn Đông rất nặng lòng tự hào
rất mạnh. Ngưòi Sơn Đông nấu rượu giỏi nhưng phần lớn là rượu kém chất lượng.
Ngưòi Sơn Đông thích ăn hành tỏi, nên phần lớn đều hôi mồm, nhưng ít ngưòi mắc
bệnh ung thư, nói chung.ăn ít rau, cứ có hành tỏi là được.
Người Sơn Đông thích ăn màn thầu(bánh bột mì hấp
không nhân) thân người cao lớn. Tíếng Sơn Đông nghe có vẻ thân thiết. Vùng ven
biển rất giàu, nhất là vùng Thanh Đảo, Yên Đài, nghe nói kinh tế Sơn Đông sẽ
nhanh chóng vượt Quảng Đông để trở thành nhất nứoc.
Quan niệm của ngưòi Giao Đông tưong đối mạnh,
nhièu ngưòi Thanh Đảo cho rằng làm ngưòi Sơn Đông có chút thiệt. Đội bóng đá
Thanh Đảo thi đấu quyết tử với đội bóng của tỉnh. Phụ nữ Thanh Đảo rất thời
thưọng, mỹ nữ không ít, Một vài nơi trong tỉnh còn nghèo.
16. Ngưòi Giang Tô
Miền nam Giang Tô và miền bắc Giang Tô hoàn toàn
không giống nhau. Miền nam mưa thuận gió hoà là nơi có nhiều tài tử giai nhân,
trong lịch sử số ngưòi đỗ tiến sĩ đều nhiều hơn bất kỳ tỉnh nào, các đại gia
nghệ thuạt, đại gia văn học, bậc thày khoa học đời nào cũng nhiều.
Người nam Giang Tô nhã nhặn, có nhiều môn đệ thư
huơng, nhà ở đẹp, món ăn ngon, con gái cũng đa tài đa nghệ, dịu hiền mê ngưòi(
làm vợ rất tốt nhưng hay tiếng to tiếng nhỏ) . Nơi này mưa phùn nhièu, gió lành
thổi khắp, ngay nam giưói cũng có tướng phụ nữ, da mịn, nói năng nhẹ nhàng,
hành động từ tốn, giỏi tính toán, nhưng tinh ranh quá. Ngưòi ở đây rất thông
minh khí chất thư sinh rất nồng, số ngưòi ra ngoài học tập đứng đầu cả nứoc.
Ngưòi nam Giang Tô rất tôn trọng pháp luật, trị
an ở Nam Kinh, Tô Châu cũng đứng hàng đầu, kẻ gian trong khoa học phần lớn là
ngưòi An Huy và bắc Giang Tô.Đàn ông Giang Tô nhu nhựoc dễ bị bắt nạt. Năm
1937, ngưòi Nhật một lúc sát hại hơn 30 vạn người mà nhiều người chạy không
kịp. Năm 1644 quân Thanh vây thành Dưoing Châu, Giang Âm, một lính Mãn Thanh có
thể giải 60 ngưòi ra pháp trưòng mà không phải trói, rồi lần lượt chém từng
người, mà không ai dám chạy/
Từ Châu là trung tâm của vùng bắc Giang Tô,
ngưòi ở đây cao lớn.
Trước đây động một chút là khởi nghĩa, sau này
lại nhiều ăn mày(trong lịch sử bắc Giang Tô, bắc An Huy nổi tiếng vì có nhiều
ăn mày) Có tiền cũng đi ăn xin. Tiếng Từ Châu giống mà lại không giống tiếng
Sơn Đông, tiếng Hà Nam, tự thành một giọng riêng. Bắc Giang Tô kinh tế
tương đối lạc hậu, hình tưọng tại bên ngoài không hay lắm,, nhất là tính thích
chiếm lợi nhỏ nổi tiếng số một. Trong bản tìm bạn trai của một cô gái Thượng
Hải đã ghi “nhân sĩ bắc Giang Tô xin miễn bàn”
17. Người Thựơng Hải
Thượng Hải là thành phố phát triển nhất của
Trung Quốc, tính bao dung kém, thịnh hành tiếng địa phương, ngưòi ngoại tỉnh
khó hoà nhập. May mà không phải là thủ đô, nếu không ngay ngưòi Bắc Kinh cũng
không coi ra gì, với ngưòi Thượng Hải ngưòi ngoại tỉnh nhất loạt đều là “dân
nhà quê”.
Thế nhưng Thưọng Hải mới có hơn một trăm năm
lịch sử, có tới 1/3 dân Thưọng Hải là di dân Ninh Ba. Phụ nữ Thượng Hải cử chỉ
dễ nhìn, ăn nói hoà nhã rất có phong cách nữ giới. Nhưng con gái Thưọng Hải
không thích hợp với ngưòi ngoại tỉnh, phần lớn chỉ thích lấy chồng Nhật, chồng
Hàn quốc, trong đó lấy chồng Nhật là lý tưỏng của không ít cô.. Đàn ông Thượng
Hải tiểu khí, tự tư, tính toán chi li, thưòng cãi vã hồi lâu trên đường phố,
nhát gan, sợ vợ, thậm chí giặt cả đồ lót cho vợ, thưòng bị gọi là “thằng nhỏ”
Thực ra nếu nhìn từ góc độ khác sẽ thấy nam giói
Thưọng Hải rất tôn trọng nữ giưói, chăm sóc vợ chu đáo. Trong tư giao người
Thưọng Hải tương đối có lỹ trí, có thể là bạn tri âm về tinh thần. Cho nên có
không ít nhà ngân hàng, thương nhân và học giả ngưòi thi nhân, nhưng khó có nhà
thơ, võ tưóng và hiệp khách. Thương nhân Thưọng Hải đều là người tinh thông
nghề nghiệp, vừa thông thạo hàng hoá vừa giỏi lý.
Ngưòi Thưọng Hải kiếm tiền không giỏi, nhưng có
tư cách, sinh hoạt nghiêm túc, biết giữu chữ tín, tông trọng luật pháp. Chất
lưọng sản phẩm ThưọngHải đứng đầu cả nứoc. Ngưòi Thưọng Hải không tranh giành
với người, thích hợp với việc kết bạn nhưng trước tiên phải làm cho họ nể mình.
18. Người An Huy
Từ xưa An Huy đã là nơi cùng khổ, ở giữa sông
Trường giang và sông Hoài, thiên tai không dứt, mỗi lần chấe tranh, loạn lạc
đều không tránh An Huy. Người An Huy linh hoạt mềm dẻo không bằng người phương
nam. cương nghị dũng mãnh không bằng người phương bắc, là tính cách quá độ của
ngưòi phương bắc và ngưòi phương nam. Đàn ông An Huy chất phác ít nói, giỏi và
nhanh nhạy trong suy nghĩ, chịu khổ được, kỹ thuật khá. Con gái An Huy mông
lung, da trắng toát.
Huyên Vô Vi nổi tiếng là tỉnh có nhiều bảo mẫu
trong cả nước. Người An Huy giữ được nhiều mỹ đức truyền thống của dân tộc
Trung Quốc. An Huy là tỉnh lớn có nhiều nông dân vầo thành phố làm thuê(sau tết
nguyên đán có từng đoàn chuyên xa chở nông dân vào thành phố làm thuê quay lại
Thưọng Hải) dân An Huy trên công trưòng khá nhiều.Tuy vậy thuơng nhân huyện Vi
xưng hùng thế giới 300 năm. An Huy có ảnh hưỏng rất sâu xa tới chính trị và văn
hoá cận đại Trung Quốc
Kinh tế An Huy hiện nay không nổi bật, thậm chí
GDP không bằng một thành phố Tô Châu, Vô Tích, Thưòng Châu. Kêu gọi đầu tư khó,
doanh nghiệp vừa mở cửa đã bị các loại phí làm sụp đổ, không làm anh chết cũng
khiến anh phải bỏ chạy. Luôn mồm nói học Chiết Giang, học Sơn Đông nhưng chỉ
học trên miệng, càng học khoảng cách càng lớn. Phựng Dưong là huyện thực hiện
khoán đến hộ sớm nhất nước nhưng nay vẫn nghèo.
An Huy là tỉnh địa linh nhân kiệt, nhân tài ưu
tú rất nhiều, mỗi năm chạy ra tỉnh ngoài không ít. Thượng Hải là nơi ngưòi An
Huy muốn tới nhất, nhưng về có bản người Thượng Hải lại coi ngưòi An Huy không
ra gì. Nam Kinh là thành phố gương mẫu cả nước về trị an, tội phạm chủ yếu ở đó
là người An Huy. Gạo nhiễm độc, thuốc giả đã huỷ hoại danh tiếng An Huy. Hợp
Phì, và Trịnh Châu tập trung nhiều công ty lừa gạt. Nam An Huy phong cảnh rất
đẹp là nơi du lịch phát triển.
19. Ngưòi Chiết Giang
Từ xưa là vùng đất hoang dại. Từ sau đời Đông
Tấn khi mở mang Giang nam mới đựoc khai thác. THời Nam Tống trở thành vùng giàu
nhất Trung Quốc. Chiết Giang nhiều sôngnhiều núi, tiếng địa phương phức tạp như
Phúc Kiến, tiếng Hàng Châu,tiếng Thiệu Hưng, tiéng Ninh Ba, tiếngd Đài Châu,
tiếng Ô Châu chẳng ai nghe hiểu ai. Chiết Giang là tỉnh văn hoá lớn của Trung
Quốc, có nhiều nhân tài”Giang nam nhiều sông nhiều núi nhiều tài tử”, nhưng
hiện nay về giáo dục, khoa học, y tế, thể dục thể thao đều kém Giang Tô nhiều.
Trong lịch sử Chiết Giang đã từng có nhiều đại
thưong nhân giàu có nhất thiên hạ, tài phiệt Chiết Giang là cơ sở của chính
quyền Tưỏng Giói Thạch. Thương nhân An Huy là nhóm người biết kiếm tiền nhất
nước. Đầu óc người Chiết Giang linh hoạt, giỏi suy tính, biết cách thay đổi.,
đoàn kết, thực tiễn. Phụ nữ dịu dàng như nước, chịu được khổ, buôn bán không
thua nam giới . Giầy da và quần áo của ngưòi Ôn Châu bán khắp thế giới. Ngưòi
Chiết Giang đặt chan hàu như trên mọingành nghề của Trung Quốc như nhà đất,
điện, khai thác mỏ, xây dựng, internet, kỹ thuật cao v.v… Trứoc đây Chiết Giang
là tỉnh xuất khẩu lao động lớn nhưng hiện nay ít thấy nông dân Chiét Giang vầo
thành phố làm thuê vì họ đã hoàn thành tích luỹ tư bản nguyên thuỷ. Ngưòi Chiết
Giang lấy bốn biển làm nhà, như kiến chạy khắp thiên hạ, hầu như xó xỉnh nào
cũng có ngưòi Chiết Giang. Thương nhân Chiết Giang mà Ôn Châu là đại biểu được
gọi là “người Do Thái Trung Quốc”.
Năng lực sinh tồn của ngưòi Chiết Giang khiến
ngưòi phương tây khiếp sợ. Trong đầu óc người Chiết Giang, buôn bán không có
vùng miền, thị trưòng không có giới hạn. Chỉ cần kiếm được tiền thì dù là khuy
áo, bật lửa, kính bút, giầy dép họ đều làm tất. Có tới 5 triệu người Chiết
Giang thành đạt ở ngoài. Ngưòi Chiết Giang kinh doanh nhà đất khắp nước, khai
thác than ở Sơn Tây, bán quần áo, giầy dép ở châu Âu, thậm chí mở siêu thị ở
châu Phi.
Nhưng cũng có nhiều thưong nhân ngưòi Chiết
Giang làm hàng giả bán hàng giả, buôn lậu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét