02/04/2015

Việt Nam – Quốc hiệu và Cương vực qua các thời đại


 Nguyễn Đình Đầu



ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0029
Nguyễn Đình Đầu

Phần I: Thời Kỳ dựng nước

1. HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC GỌI LÀ VĂN LANG, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG CHÂU, CHIA NƯỚC THÀNH 15 BỘ:
“Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu la XÍCH QUỶ”’1‘. Nước Xích Quỷ bắc giáp hồ Động Đình, đông giáp biển Nam Hải, nam giáp nuớc Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục.
“Vua đầu của họ Hồng Bàng là Kinh Dương Vương, tương truyền là vị vua trước tiên của nước ta, sinh ra Lạc Long Quân… Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra được một trăm người con trai: đó là tổ tiên của Bách Việt, tôn con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi dựng nước gọi là VĂN LANG, đóng đô ở Phong Châu, truyền nhau được mười tám đbi, đều gọi là Hùng Vương”[1]. (Bản đồ 1)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-01
Hầu hết sử thần nhà Nguyễn và vua Tự Đức đều cho các truyền thuyết “tiên rồng’, “trăm trứng” hay “trăm con trai” là “đồng một loại hoang đường”, và chỉ nhận đó là “một lời chúc” cho dân tộc mau phát triển và sống trong tình nghĩa đồng bào ruột thịt[2].
“Khởi đầu chia nước ra mười lăm bộ là[3]:
  1. Giao Chỉ (sau là Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, Hưng Yên)
  2. Chu Diên (sau là Sơn Tây).
  3. Phúc Lộc (sau cũng là Sơn Tây).
  4. Vũ Ninh (sau là Bắc Ninh).
  5. Việt Thường (sau là Thuận Hóa, Quảng Nam).
  6. Ninh Hải (sau là Quảng Yên).
  7. Dương Tuyền (sau là Hải Duơng).
  8. Lục Hải (sau là Lạng Sơn).
  9. Vũ Định (sau là Thái Nguyên, Cao Bằng).
  10. Hoài Hoan (sau là Nghệ An).
  11. Cửu Chân (sau là Thanh Hóa).
  12. Bình Văn (chưa biết ở đâu).
  13. Tân Hưng (sau là Hưng Hóa, Tuyên Quang).
  14. Cửu Đức (sau là Hà Tĩnh).
  15. Văn Lang (là nơi vua đóng đô, tức Phong Châu, sau thuộc hai tỉnh Vĩnh Tưòng và Lâm Thao của tỉnh Sơn Tây).
Nước VĂN LANG gồm mười lăm bộ, ‘ đông giáp Nam Hải, tây liền Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam tiếp nước Hồ Tôn”[4].
Nam Hải tức biển Đông, Hồ Tôn sau là Chiêm Thành. Nước Văn Lang “đông giáp Nam Hải”, “nam tiếp nước Hồ Tôn” là đúng, nhưng “bắc đến hồ Động Đình” và “tây liền Ba Thục” thì sai. Địa bàn đó là quá rộng lớn, bao gồm khắp vùng Hoa Nam, là nơi cư trú của tất cả các dân tộc Bách Việt chứ không phải của riêng người Lạc Việt. Người Lạc Việt cũng chưa bao giờ thống lãnh toàn thể các dân tộc Bách Việt, vả lại, vị trí của 15 bộ đều tập trung ở bắc phần Việt Nam nay.
Sử thần Nguyễn triều đã cẩn án: “Sử cũ chép nước Văn Lang phía tây tiếp Ba Thục, phía bắc đến Động Đình, chẳng là quá sự thật lắm ru?”[5]. Chính Tự Đức cũng đã phê: “Quảng Tây cùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Vân Nam và Tứ Xuyên gần nhau, tức là đất Sở và Thục xưa. Làm sao biết đuợc tới đó? (an tri kỳ sở giới hà như?)a). Ngay như tên 15 bộ cũng có ba danh sách khác nhau và bị Lê Quý Đôn đặt nghi vấn hết: “Tôi ngờ rằng, những tên đó là do các hậu Nho góp nhặt vay mượn chép ra”[6].
Dân số” cuối thời Văn Lang, ở niên đại 3000 trước Công nguyên, có khoảng 500.000 người.
Từ vài chục năm nay, ngành khảo cổ học đã phát hiện ra quá trình liên tục của nền văn minh sông Hồng (hay còn gọi là văn minh Văn Lang, văn minh Đông Sơn)[7]. Quá trình này đuợc giải thích khá rõ: “Văn hóa Đông Sơn không còn là một hiện tượng đột ngột, gián đoạn, mà là kết quả tất nhiên của một quá trình phát triển liên tục từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt. Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gồ Mun là ba giai đoạn phát triển tiền Đông Sơn tiêu biểu cho dòng chủ lưu của vùng trung du và vùng cao châu thổ sông Hồng vốn được coi là “Đất tổ” của các vua Hùng, là trung tâm của nước Văn Lang”(4). Đó là “một quá trình hình thành tại chỗ nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn”. “Quá trình hình thành và phát triển của nền văn minh sông Hồng gắn liền với quá trình liên kết các địa phương thành lãnh thổ Văn Lang, quá trình đấu tranh và dung hợp các bộ lạc, các nhóm dân cư lại thành cộng đồng cư dân Văn Lang, chủ nhân của nền văn minh ấy”[8](Bản đồ 2)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0002
Cho nên, tuy vẫn cần tìm hiểu thêm về thời điểm xuất hiện và danh xưng họ Hồng Bàng, về Hùng Vương hay Lạc Vương, về tên gọi các bộ lạc, v.v…, ta đã có thể khẳng định là “nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn” đã ghi dấu giai đoạn hình thành “quốc gia” của 15 bộ tộc Lạc Việt liên kết với nhau dưới quyền một “trưởng thượng” chung. Hình thức quốc gia đó còn sơ sài và lỏng lẻo, nhưng “đồng bào” đã biết khai thác thủy triều lên xuống mà làm ruộng lạc và sống theo những “phong tục thuần hậu, chất phác”.
Những người chép sử xưa thường lẫn nước Văn Lang với nước Xích Quỷ. Theo tục truyền thì “Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nuớc Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp hồ Động Đình, phía nam giáp nuớc Hồ Tôn, phía tây giáp Ba Thục, phía đông giáp bể Nam Hải… về sau, nuớc Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt… Đấy cũng là một điều nói phỏng, chứ không có lấy gì làm đích xác được”[9]. “Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất” (2879 trước CN), mà sử ta cũng lấy năm Nhâm Tuất là đầu đời Hồng Bàng và nuớc
Văn Lang, nên cũng không cần nghiên cứu thêm về địa bàn nước Xích Quỷ nữa. vả lại chưa chắc đã có tên nước Xích Quỷ!
2. THỤC VƯƠNG CHIẾM LẤY VĂN LANG, ĐỔI TÊN NƯỚC LÀ ÂU LẠC, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG KHÊ
Họ Hồng Bàng làm vua “cả thảy hai ngàn sáu trăm hai mươi hai năm (2879-258 trước CN), không biết lấy bằng cứ ở đâu”[10]. Vào năm Quý Mão (258 tr.CN), Thục Phán đem quân chiếm lấy Văn Lang, đổi tên nước là Âu LẠC, đóng đô ở Phong Khê. “Theo sử cũ, vương họ Thục, tên Phán, người nước Ba Thục”[11]. sử thần nhà Nguyễn không tin Phán là người Ba Thục vì nước này cách Văn Lang tới hai ba ngàn dặm, khó mang quân đến lắm, vả lại khi ấy Ba Thục đã bị tiêu diệt rồi, đâu còn vua nữa, nên phỏng đoán: “Hoặc giả ngoài cõi tây bắc, gần nước Văn Lang, còn có một họ Thục khác bèn được nhận là Thục Vương cũng chưa biết được. Nếu nói Thục Vương là người Ba Thục thì không đúng”(3). Mùa xuân, tháng Ba, “vua xây thành ở Phong Khê, rộng một ngàn trượng, xoay quanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa thành” (ở Cổ Loa nay), về nguồn gốc Thục Phán và Ba Thục, còn khá nhiều giả thuyết khác nữa[12].
Một truyền thuyết bằng thi ca của người Tày nói về bộ lạc Nam Cương xưa, có lẽ giúp ta hiểu rõ hơn về Thục Phán và tại sao đặt quốc hiệu là Âu Lạc. “Ớ phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả Giang, về gần nước Văn Lang, có bộ Nam Cương, hùng cứ một phương. Bộ này do Thục Chế tức An Tri Vương đứng đầu, đóng đô ở Nam Bình do chín xứ hợp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần. Chín xứ ấy là: Thạch Lâm, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thạch An, Phúc Hoa, Thượng Lang, Quảng Nguyên, Thái Ninh, Quy Sơn… Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán lên thay”[13]. Người của bộ lạc Nam Cương và các xứ lân cận cũng là một dân tộc Việt mà Trung Quốc gọi là Quỳ Việt hay Tây Âu. Sau này có sắc dân nguời Choang và nguời Tày, chính là hậu duệ của Tây Âu. Khi Thục Phán chiếm đuợc Văn Lang thì hợp nhất hai nhóm dân tộc Âu Việt (cũng gọi là Tây Âu) với Lạc Việt thành một Quốc gia và lấy quốc hiệu là Âu LẠC. Nước Âu Lạc chưa chia ra đơn vị hành chính, mà vẫn giữ các bộ lạc tự trị và cha truyền con nối. Đó là các bộ lạc: (Bản đồ 3)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0003
Mê LinhTây VuLiên Lâu
Long BiênChu DiênBắc Đái
Kê TừAn ĐịnhCâu Lậu
Khúc DươngVô CôngDư Phát
Tư PhốCư PhongVô Biên
Đô LungHàm Hoan
Bộ lạc Tây Vu là bộ lạc căn bản của Thục Phán, nguyên trước chỉ ở miền thượng lưu sông Lô, bao gồm cả miền thượng lưu sông Gầm và sông Chảy, tức miền Hà Giang và bắc Tuyên Quang ngày nay. Địa bàn này là nơi cư trú chủ yếu của người Tày. Họ cũng ở trên một phần đất của Long Biên nữa[14].
Dân số cuối thời Âu Lạc, ở niên đại 180 trước Công nguyên, có khoảng 600.000 người.
Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc, thì bên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất thiên hạ. Năm 214 trước CN, Thủy Hoàng sai Đồ Thư đi đánh Bách Việt. An Dương Vương đành chịu phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Âu Lạc thành ba đơn vị gọi là:
–           Quận Nam Hải (Quảng Đông).
–           Quận Quế Lâm (Quảng Tây).
–           Tượng Quận (Bắc Việt).
Với những sử liệu phát hiện gần đây, niên đại của nước Âu Lạc đuợc điều chỉnh lại: Nhà Tần đem quân xâm chiếm địa bàn Tây Âu của Thục Phán và Lạc Việt của Hùng Vương năm 214 trước CN. Năm 208 trước CN, Thục Phán đứng đầu cả 2 bộ lạc Tây Âu và Lạc Việt, đuổi được quân nhà Tần, rồi lập ra nước Âu LẠC và xưng là An Dương Vương (208-179 tr.CN)[15], chỉ tồn tại khoảng gần 30 năm. (Bản đồ 4)
 ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0004
[1]    Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL). In lần thứ 6 – Tân Việt, Sài Gòn, 1958. tr23.
[2]    KĐVS, sđd, tr.11-13.
[3]    Như trên. tr. 17-23.
[4]    KĐLS, sđd, trang 17. – Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch Sử Việt Nam I (LSVN). NXB Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1985. Trang 105, cước chú 2: “Hiện nay có ba danh sách khác nhau về 15 bộ của nước Văn Lang được chép trong những thư tịch xưa nhất của ta. Việt Sử Lược chép là: Giao Chỉ, Việt Thường Thị, Vũ Ninh, Xuân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Nam, Cửu Đức. – Lĩnh Nam Chích Quái chép là: Giao Chỉ, cửu Chần, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Minh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chần, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lầm, Tượng Quận. – Dư địa chí của Nguyễn Trãi và KĐVS ghi lại như trên”.
[5]    KĐVS, sđd, trang 19-21.
[6]    LSVN, sđd, trang 105.
3.4. Như trên, trang 107-109.
[8]    Như trên, trang 107-109.
[9]    Trần Trọng Kim, VNSL, sđd. tr.23-24.
[10]  KĐVS, sđd, tr.37.
[11]  Như trên, tr.37.
[12]  Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB Khoa Học Hà Nội, 1964. tr.18-20.
[13]  Như trên, tr.20.
[14]  Như trên, tr.27.
[15]  Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sđd, tr 141-144.

 

Phần II: Thời kỳ đấu tranh giành độc lập

1. NƯỚC NAM VIỆT (207- 111 TRƯỚC CN)
Nhà Tần đổi nuớc Âu Lạc thành Tượng Quận nhưng không trực trị, họ Thục vẫn làm vua. Chẳng được bao lâu nhà Tần suy, quan úy quận Nam Hải là Triệu Đà nổi lên tự lập, đem quân đánh lấy nước Âu Lạc, lập ra nước NAM VIỆT vào năm 206 tr. CN . Từ đó, nhà Thục chấm dứt và đã làm vua Âu Lạc được 50 năm. Triệu Đà sai hai viên sứ thần coi giữ hai quận Giao Chỉ và cửu Chân (địa bàn Âu Lạc cũ). (Bản đồ 5)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0005
Ở Nam Việt, Triệu Đà xưng đế. Bên Trung Quốc, nhà Hán dứt họ Tần và họ Sở. Nhà Triệu làm vua Nam Việt được 96 năm (207- 111 tr. CN) truyền được 5 đời:
– Triệu Vũ Vương (207- 137 tr.CN).
– Triệu Văn Vương (137-125 tr.CN).
– Triệu Minh Vương (125- 113 tr.CN).
– Triệu Ai Vương (113- 112 tr.CN).
– Triệu Dương Vương (112-111 tr.CN) .
2. THUỘC NHÀ TÂY HÁN (111 TR.CN-39 SAU CN) VÀ THỜI TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43)
Năm 111 tr.CN, nhà Hán sai Lộ Bác Đức sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao Chỉ Bộ và chia ra làm 9 quận:
1. Nam Hải (Quảng Đông)
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phô (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ (từ Bắc Việt tới Ninh Bình)
6. Cửu Chân (từ Ninh Bình tới Hoành Sơn)
7. Nhật Nam (từ Hoành Sơn tới Đèo cả)
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) .
Địa bàn nước ta khi ấy nằm trên ba quận: Giao chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Dân số” cuối thời thuộc Hán, ở niên đại đầu Công nguyên, có 666.013 nguời.
QUẬN GIAO CHỈ chia ra 10 huyện là: Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. Đào Duy Anh phân tích khá rõ theo Thủy Kinh Chú rồi kết luận: “Quận Giao Chỉ ở đời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền tây-bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc tây- nam tỉnh Ninh Bình bây giờ là địa đầu của quận cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp; lại phải thêm vào dấy một vùng về phía tây-nam tỉnh Quảng Tây”
QUẬN CỬU CHÂN, theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục và Tiền Hán Thư, gồm 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Sách Hậu Hán Thư chỉ kể 5 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên. Bảy huyện trên được phân bố từ phía nam tỉnh Ninh Bình đến Hoành Sơn . (Bản đồ 6)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0006
QUẬN NHẬT NAM gồm 5 huyện: Chu Ngô, Tỷ Anh, Lô Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì năm huyện đó được phân bổ từ phía nam Hoành Sơn tới núi Đại Lãnh (gần đó có núi Đá Bia làm ranh giói giữa Phú Yên với Khánh Hòa nay).
Sách KĐVS đã “chú” khá kỹ địa bàn từng quận huyện một, nhưng đến nay các nhà nghiên cứu địa lý học lịch sử vẫn còn bàn cãi ở một số” nơi chưa nhất trí .
 2. TRƯNG VUƠNG TRỊ VÌ BA NĂM, ĐÓNG ĐÔ Ở MÊ LINH, CHƯA ĐẶT QUỐC HIỆU VÀ PHÂN BỐ CUƠNG VỰC
Tháng 2 mùa xuân năm 40, “Trưng Trắc, người con gái quận Giao Chỉ, dấy binh đánh thái thú Tô Định, đuổi hắn, tự lập làm vua”. Vì thù chồng, nợ nước, “Vương bèn cùng em gái Trưng Nhị dấy binh.. Vương đến đâu thì như cỏ rạp theo làn gió… dẹp yên 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh”. Tháng 3 mùa xuân năm 42, “quân Mã Viện đến Lãng Bạc đánh với Trưng Trắc, phá được, Trưng Trắc lui giữ Cẩm Khê… Tháng giêng mùa xuân (năm 43), Trưng Trắc và em gái Trưng Nhị chống cự quân Hán, bị thua mà mất… Mã Viện đuổi đánh tàn quân của Hai Bà… đến huyện Cư Phong (đất ấy nay ở Thanh Hóa)” . Sau đó, Mã Viện kéo quân tới tận Đèo Cả, nơi có núi Đá Bia mới dẹp yên được các cuộc nổi dậy ở khắp địa phương.
Ở phần này, chúng ta chỉ quan tâm đến địa chỉ và địa danh để xác định trên bản đồ, còn phần lịch sử xin lướt qua.
3. NHÀ ĐÔNG HÁN (25-220) ĐỔI GIAO CHỈ THÀNH GIAO CHÂU (203)
Mã Viện đánh được Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ về thuộc nhà Hán như cũ, nay gọi là Đông Hán, đem phủ trị về đóng ở Mê Linh (đến cuối đời Đông Hán mới dời về Long Biên). Đến năm Quý Mùi (203), “Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao Chỉ làm Giao Châu. Vua nhà Hán thuận cho” .
4. NHÀ ĐÔNG NGÔ (222-280) TIẾP QUẢN GIAO CHÂU
Nhà Đông Hán mất ngôi (220) thì Trung Hoa chia ra ba nước gọi là Tam Quốc (220-265), tức Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Châu bấv giờ thuộc về Đông Ngô. Năm 226, Ngô Tôn Quyền “lấy từ Hợp Phố về bắc gọi là Quảng Châu, từ Giao Chỉ về nam gọi là Giao Châu” . Được ít lâu, nhà Ngô lại bỏ Quảng Châu cho hợp lại với Giao Châu như cũ. (Bản đồ 7)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0007
NĂM 248, BÀ TRIỆU THỊ TRINH Nổi LÊN CHỐNG NHÀ NGÔ
Bà là nguời huyện Nông Cống, “có sức mạnh, lại có chí khí và lắm mưu lược…; vì quan lại nhà Ngô tàn ác, Triệu Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận cửu Chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tưóng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ… bà chống nhau với nhà Ngô đuợc năm sáu tháng. Nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi phải thua, bà đem quân đến xã Bồ Điền (sau là xã Phú Điền huyện Mỹ Hóa tỉnh Thanh Hóa) rồi tử tiết. Bấy giờ mới 23 tuổi”.
NĂM 264, NHÀ NGÔ CHIA LẠI ĐẤT GIAO CHÂU
“Nhà Ngô lấy đất Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung (TP Quảng Châu, Trung Quốc nay), lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt châu trị ở Long Biên. Đất Nam Việt của Triệu ngày trưóc thành ra Giao Châu và Quảng Châu từ đấy” . (Bản đồ 8)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-008
5. GIAO CHÂU DƯỚI THỜI NHÀ TẤN (265-420) VÀ NAM BẮC TRIỀU (420-588) (Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương nối tiếp nhau)
Tên Giao Châu vẫn giữ nguyên, nhưng tên và địa bàn huyện thì thay đổi qua mỗi “nhà” đến thống trị. Sau đây là tình hình phân bổ Giao Châu từ cuối Ngô đến Tống:
Giao Chỉ: 14 huyện, 12.000 hộ.
Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Liên Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An, Quân Bình (theo Tấn Thư và Tống Thư).
Tân Xương: 6 huyện, 3.000 hộ.
Mê Linh, Gia Hưng, Ngô Định, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo. Nhà Tấn đổi tên quận làm Tân Xương, các huyện thì vẫn giữ theo nhà Ngô.
Vũ Bình: 7 huyện, 3.000 hộ.
Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ Định, Phú Yên, Phong Khê. Nhà Tấn cũng vậy.
Cửu Chân: 7 huyện, 3.000 hộ.
Tư Phô, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Thưòng Lạc, Phù Lạc. Nhà Tấn lập thêm huyện Tùng Nguyên.
Cửu Đức: 8 huyện, không rõ số hộ.
Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Thành, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào, Việt Thường. Nhà Tấn đổi Dương Thành làm Dương Toại, lại tách Dương Toại mà lập Phố Dương, lập thêm Tây An, theo Hà Chí thì còn có huyện Việt Thường, lập từ đời Ngô, sang đời Tấn thì không có.
Nhật Nam: 5 huyện, 600 hộ.
Tượng Lâm, Lô Dung, Chu Ngô, Tây Quyển, Tỷ Ảnh. Nhà Tấn tách Tây Quyển mà đặt Thọ Linh, tách Tỷ Anh mà đặt Vô Lao .(theo Tấn Thư và Tống Thứ).
‘Theo tình hình các quận huyện như trên thì chúng ta thấy rằng ở thời Tam Quốc và thời Lưỡng Tấn, sau khi nhà Ngô chiaGiao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu thì đất Giao Châu sau này trở thành lãnh thổ của nuớc ta trong thời tự chủ, không còn gồm dải đất ở miền Quảng Tây nữa. Chúng ta lại biết rằng cuối đời Hán, nước Lâm Ấp đã được thành lập tại miền Quảng Nam và đến đời Vĩnh Hòa nhà Tấn (345-356), nước ấy đã chiếm cứ hết đất Nhật Nam cũ mà vươn ra đến Hoành Sơn.
Như vậy thì đất Giao Châu đời Tấn đại khái là tương đương với miền Bắc Bộ và miền Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh của nước ta ngày nay” .
Nhà Lương chia Giao Châu làm nhiều châu mới:
1. Ái Châu trên đất quận cửu Chân cũ (Thanh Hóa)
2. Đức Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
3. Lợi Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
4. Minh Châu trên đất miền đông-bắc Giao Châu cũ (Quảng Ninh).
5. Giao Châu thu nhỏ trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ. (Bản đồ 9)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-009
6. NĂM 544, LÝ BÔN XƯNG NAM VIỆT ĐẾ, ĐẶT NIÊN HIỆU LÀ THIÊN ĐỨC, ĐẶT QUỐC HIỆU LÀ VẠN XUÂN
Sau khi thắng địch quân, Lý Bôn đã lập điện Vạn Xuân làm triều nghi, đặt trăm quan, nhưng chưa thấy phân bổ lại cương vực. Các sự kiện lịch sử liên quan đến địa phương nào, thì vẫn dùng địa danh đương thời. Như khi nói “Lý Bôn là người hào hữu quê Thái Bình, tài kiêm văn võ”. Thái Bình đây “thuộc về Phong Châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng không rõ là chỗ nào, chứ không phải là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình” . Đối với các địa danh khác cũng vậy: thành Gia Ninh (sau ở huyện Tiên Lãng tỉnh Phúc Yên), động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), hồ Điển Triệt (tên nôm là Đầm Miêng, thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú), đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hải Hưng) vv… Động Khuất Liêu lại được đọc là động Khuất Lão (là tên một khu đồi hiện nằm giữa hai xã Văn Lang và cổ Tuyết thuộc huyện Tam Nông tỉnh Vĩnh Phú” (Bản đồ 10)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0010
Nước VẠN XUÂN tồn tại được 58 năm, trải qua ba đời vua:
– Lý Nam Đế (Lý Bôn) 544-548.
– Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) 549-571.
– Hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) 571-602.
Dân số nước Vạn Xuân, ở niên đại 544, có khoảng 1.000.000 người.
Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở nước ta, thì vua Văn Đế nhà Tùy thống nhất được Trung Hoa. Năm 602, vua Tùy sai Lưu Phương đem 27 dinh quân sang đánh chiếm Vạn Xuân 
7. CƯƠNG VỰC VÀ CÁC CUỘC TRANH ĐẤU DƯỚI CÁC ĐỜI NHÀ TÙY, NHÀ ĐƯÒNG (603-907)
a) NHÀ TÙY (589-617)
sau khi chiếm được Vạn Xuân năm 602, liền chia Giao Châu ra làm 5 quận:
– Quận Giao Chỉ gồm 9 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương, An Nhân.
– Quận Nhật Nam gồm 8 huyện: cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Việt Thường, Kim Ninh, Giao Cốc, An Viễn, Quang An.
– Quận Tỷ Anh gồm 4 huyện: Tỷ Anh, Chu Ngô, Thọ Linh, Tây Quy ển.
– Quận Hải Âm gồm 4 huyện: Tân Dung, Chân Long, Đa Nông, An Lạc.
– Quận Tượng Lâm gồm 4 huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang, Nam Cực.
Ngoại trừ một số” địa điểm còn để nghi vấn, nhà địa lý học lịch sử Đào Duy Anh đã nghiên cứu thỏa đáng cả địa bàn lẫn duyên cách của các châu huyện trên trong thiên khảo luận có giá trị của mình . (Bản đồ 11)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0011
b) NHÀ ĐƯỜNG (618-907)
tiếp nối nhà Tùy “cai trị nước ta khắc nghiệt hơn cả”.
“Nhà Đường sửa lại toặn bộ chế độ hành chính và sự phân chia châu quận. 622, nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản chủ để lãnh quản 12 châu: Giao, Phong, Ái, Tiên, Diễn, Tống, Từ, Hiểm, Đạo, Long, tức là cả miền Bắc nước ta, từ biên giới Việt – Trung đến Hoành Sơn”.
Năm 679, đổi Giao Châu làm An Nam Đô Hộ Phư, cai quản 12 châu, 59 huyện. Nước ta gọi là An Nam khỏi đầu từ đấy.
Năm 757, đổi làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 766, lại đổi làm An Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 866, Nhà Đường thăng An Nam Đô Hộ Phủ lên làm Tình Hái Quân Tiết Độ.
An Nam Đô Hộ Phủ chia ra 12 châu như sau: (Bản đồ 12)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0012
1. Giao Châu nay ở đất Hà Nội, Nam Định, có 8 huyện: Tống Bình, Nam Đinh, Thái Bình, Giao Chỉ, Chu Diên, Long Biên, Bình Đạo, Vũ Bình.
2. Lục Châu sau là Quảng Yên, Lạng Sơn, gồm 3 huyện: Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh Hải.
3. Phúc Lộc Châu gồm 3 huyện, có lẽ ở “miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp, Ngọc Ma ở phía tây Hoành Sơn”.
4. Phong Châu gồm 3 huyện: Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương. Sau là Bạch Hạc – Việt Trì.
5. Thang Châu gồm 3 huyện: Thanh Tuyền, Lục Thủy, La Thiều. Nay ở Nam Ninh, Trung Quốc.
6. Trường Châu có 4 huyện, nay thuộc địa phận Ninh Bình.
7. Chi Châu gồm 7 huyện: Hàn Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diệm, Đa Vân, Tụ Long. Nay thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. (Tụ Long trước 1888 thuộc Tuyên Quang, Việt Nam).
8. Võ Nga Châu gồm 7 huyện: Võ Nga, Như Mã, Võ Nghĩa, Võ Di, Võ Duyên, Võ Lao, Lương Sơn. Nay cũng thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
9. Võ An Châu gồm 2 huyện: Võ An, Lâm Giang. Nay ở khoảng phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
10. Ái Châu gồm 6 huyện cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Truòng Lâm. Nay thuộc địa phận Thanh Hóa.
11. Hoan Châu gồm 4 huyện cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài Hoan. Nay thuộc địa phận Nghệ An.
12. Diễn Châu gồm 7 huyện (khuyết danh). Có lẽ tương đương với miền Bắc tỉnh Nghệ An nay, khoảng các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu.
40 châu ky my. “ở những miền biên giới xa xôi, nhà Đường không đặt châu quận để thống trị trực tiếp đuợc, thì đặt những châu ky my, và để cho các tù trưởng cũ vẫn giữ bộ lạc của họ.. Lệ vào An Nam Đô Hộ Phủ thì có 40 châu ky my, đại khái là ở đất thượng du miền Bắc và miền Đông – Bắc nước ta, như châu Quy Hóa, châu Cam Đường, châu Lâm Tây ở các miền Yên Bái, Lao Cai và thượng du sông Đà; châu Bình Nguyên ở miền Hà Giang; châu Vũ Định, châu Độ Kim ở miền Tuyên Quang; châu Tư Lăng, Lộc Châu, Lạng Châu ở miền Lạng Sơn” . (Bản đồ 13)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0013
Lại còn 18 châu ky my nữa lệ vào Phong Châu Đô Hộ Phủ… “ở khoảng từ Bạch Hạc đến Lào Cai ngày nay, thì cư dân cũng là thuộc về ngành Tày chứ không phải là ngành Thái. Nhưng nếu xét lui lên xa thì người Thái và người Tày cùng người Nùng lại đều là từ một nguồn gốc mà ra, tức là chủng tộc mà người ta thường gọi là Thái, từ thời thượng cổ đã chiếm ở miền Tây Nam Trung Quốc” . (Bản đồ 14) và (Bản đồ 15)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0014
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0015
Phủ trị của An Nam Đô Hộ Phủ đặt ở khoảng Hà Nội ngày nay. Địa bàn của nó còn rộng hơn cả Giao Châu ở thời Tam Quốc và thời Nam Bắc Triều. “Nếu không kể các châu ky my ở miền Bắc và miền Đông – Bắc lệ thuộc An Nam Đô Hộ Phủ và các châu ky my ở miền Tây – Bắc lệ thuộc Phong Châu, chỉ kể những châu trực thuộc Đô Hộ Phủ, thì các châu Thang, Chi, Võ Nga, Võ An là thuộc về địa phận tỉnh Quảng Tây ngày nay của Trung Quốc, và các châu Lâm và Ảnh là đặt khống ở miền Nam Hoành Sơn, như vậy là chỉ còn 8 châu: Giao, Lục, Phong, Truông, Ái, Diễn, Hoan và Phúc Lộc là nằm trên đất Giao Châu cũ. Đại khái đó là địa bàn mà đến khi nhà Đường sụp đổ, các triều đại phong kiến đầu tiên của nuớc ta, Ngô, Đinh, Lê, Lý sẽ xây dựng nhà nước tự chủ của ta .
Vậy thì những địa danh như Nam Định, Thái Bình, Long Biên, Diễn Châu… đã tồn tại từ 13 thế kỷ nay. Nếu nghiên cứu kỹ, có lẽ còn nhiều địa danh gốc từ Lạc Việt đã có từ trên 20 thế kỷ rồi, đặc biệt là các địa danh Nôm. Địa danh học cũng là một bộ môn hỗ trợ đắc lực cho khảo cổ học vậy 

Phần 3 : Thời Kỳ độc lập tự chủ

1. HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP VÀ HỌ NGÔ DỰNG NGHIỆP (907-959)
Lợi dụng trong khi năm họ tranh giành nhau bên Trung Quốc, dân chúng bên ta bèn cử Khúc Thừa Dụ (906-907) làm Tiết độ sứ để cai trị Tĩnh Hải Quân. Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (Ninh Giang – Hải Hưng nay) là nhà hào phú có tính khoan hòa và thương người. Trung Quốc phải chịu nhận. Thừa Dụ chết, Khúc Hạo (907-917) lên thay làm Tiết độ sứ rồi lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại . Sau Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ (917-923). Năm 923, nhà Nam Hán chiếm lại Tĩnh Hải Quân. Năm 931, Dương Diên Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo nổi lên, tự xưng Tiết độ sứ. Được sáu năm, bị nha tướng là Kiều Công Tiễn giết và cướp quyền. Khi ấy có Ngô Quyền (quê ở Đường Lâm, Sơn Tây) là con rể Dương Diên Nghệ đang cai trị Ái Châu, đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Tiễn cầu cứu nhà Nam Hán. Thái tử Hoằng Thao đem quân sang đánh Ngô Quyền, bị đại bại trên sông Bạch Đằng (938).
Tiền Ngô Vương (939-945). Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở cổ Loa, đặt quan chức, chế triều nghi, nhưng chưa định quốc hiệu và phân bố lãnh vực. Được sáu năm thì mất. Em rể là Dương Tam Kha (935- 950) lên tiếm ngôi. Hai con Ngô Quyền là Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập trở lại hạ được Dương Tam Kha rồi cùng cai trị nước, sử gọi là Hậu Ngô Vương (950- 956). về cương vực nhà Ngô: “Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu mà cư dân là con cháu người Lạc Việt, tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc Bộ cùng miền trung du và miền đồng bằng Thanh Nghệ, còn miền thuợng du là các châu ky my của nhà Đuờng trước kia thì có lẽ còn do các tù truởng giữ mà độc lập” .
2. CƯƠNG VỰC BỊ CHIA CẮT DƯỚI THỜI THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)
Từ khi Dương Tam Kha tiếm vị, thổ hào các nơi xướng lên độc lập tự xưng sứ quân. Khi có Hậu Ngô rồi, các sứ quân vẫn không về thần phục. Con cháu nhà Ngô yếu thế, trở thành như một sứ quân. Cương vực bị chia cắt, dân tình đói khổ. Sau đây là 12 sứ quân với vùng cát cứ:
1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Khoái Châu, Hưng Yên).
2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai).
3. Trần Lãm giữ Bô” Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).
7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lũ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).
10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
11. Kiều Thuận giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Hưng Yên) .
3. CƯƠNG VỰC DƯỚI THỜI ĐINH – LÊ, QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT 86 NĂM (968-1054)
Đinh Tiên Hoàng (968-979), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, “chia nước làm 10 đạo, hiện nay không rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào. Duy nhất sử cũ vẫn chép tên các châu đời Đường, như Ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu, thì biết rằng danh hiệu các châu đời Đường bấy giờ vẫn được dùng” . Nhà Tống chỉ phong cho Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.
Đinh Phế Đế (979-980) tức Đinh Tuệ lên ngôi mới có sáu tuổi.
Lê Đại Hành (980-1005) tức Lê Hoàn, thay ngôi nhà Đinh, “đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu”. Nay vẫn chưa tìm ra danh hiệu và vị trí những đơn vị hành chính đó, mà các tên châu huyện đời Đường còn được nhắc đến trong sử cũ. Năm 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm Thành, phải qua kênh Xước ở Thanh Hóa và kênh Sắt ở Nghệ An (đó là kênh mà sau này Nguyễn Trường Tộ đào nắn lại cho dễ thông thương hơn). Nhà Tống cũng chỉ phong cho Lê Đại Hành là Giao Chỉ quận vương, rồi gia phong là Nam Bình Vương, cố ý coi nước ta là quận Giao Chỉ hay An Nam đô hộ phủ mà thôi.
Tiếp nối Lê Đại Hành Là Lê Trung Tông (1005) rồi Lê Long Đĩnh (1005 – 1009), cương vực vẫn tới Hoành Sơn nhưng Chiêm Thành phải sang triều cống. Quốc hiệu Đại Cồ Việt vẫn tồi tại.
Dân số nước Đại cồ Việt, ở niên đại 968, có khoảng 2.000.000 người.
4. CƯƠNG VỰC VÀ QUỐC HIỆU DƯỚI ĐỜI LÝ, NƯỚC ĐẠI VIỆT, 748 NĂM (1054-1802)
Lý Thái Tổ tức Lý Công uẩn (1010-1028) tiếp ngôi nhà Lê, dời đô về La Thành, lấy tên mới là thành Thăng Long, “chia nước làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại” , mới chắc chắn có tên 12 lộ do KĐVS ghi chép:
Thiên Trường Hoàng Giang Thanh Hóa
Khoái Hồng Kiến Xương
Trường Yên Hải Đông Bắc Giang
Quốc Oai Long Hưng Diễn Châu
Còn 12 lộ nữa thì Đào Duy Anh phỏng tính là:
Phủ Đô Hộ Phủ ứng Thiên Phủ Phú Lương
Phủ Thiên Đúc Phủ Nghệ An Châu cổ Pháp
Châu Phong Châu Lạng Châu Chân Đăng
Châu Bố Chính Châu Địa Lý Châu Ma Linh
Hoàng Xuân Hãn đã định được vị trí các châu lộ ở phía bắc và Đào Duy Anh đã phỏng định vị trí các châu phủ lộ còn lại . Ngoài lộ, châu, phủ nhà Lý còn chia ra các đơn vị hành chính là hương, giáp, trại, động.
Dân số” nước Đại Việt, ở niên đại 1054, có khoảng 2.200.000 người.
(Bản đồ 16)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0016
Lý Thái Tông (1028-1054) đem quân chinh phạt Chiêm Thành (1044) tiến chiếm quốc đô Phật Thệ (làng Nguyệt Bầu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên).
Lý Thánh Tông (1054-1072) khi lên ngôi liền đổi quốc hiệu là Đại Việt. Năm 1069, đem quân đánh Chiêm Thành. Chế Củ xin chuộc tội bằng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (sau là Quảng Bình, Quảng Trị).
Lý Nhân Tông (1072-1127) sai Lý Thuợng Kiệt đi trấn giữ (1076) ở phía bắc và đi kinh lý ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính ở phía nam.
Sau đó là các vua Lý Thần Tông (1128-1138)
Lý Anh Tông (1138-1175)
Năm 1164, nhà Tống đổi Giao Chỉ quận làm An Nam quốc, Lý Anh Tông là vua đầu tiên của nước ta được phong là An Nam quốc vương. Vua cuối cùng nhận phong tước hiệu này là Nguyễn Tây Sơn cảnh Thịnh (1792-1802).
Lý Cao Tông (1176-1210)
Lý Huệ Tông (1211-1225)
Lý Chiêu Hoàng (1225)
Cương vực và quốc hiệu vẫn thế.
5. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI ĐỜI TRẦN VÀ ĐỜI HỒ(1225-1413)
Trần Thái Tông (1225-1258) “chia nước ra làm 12 lộ”, đặt xã quan để cai trị ở địa phương. Nhưng sử cũ lại chép tới 15 lộ:
Thiên Trưòng Hồng Lạng Giang
Tam Giang An Khang Truòng Yên
Khoái Tam Đới Bắc Giang
Long Hưng Diễn Sơn Nam
Quốc Oai An Tiêm Đà Giang
Sách An Nam Chí Lược chép 15 lộ khác, trong đó có 9 lộ mà danh sách trên thiếu. Nếu cộng lại ta sẽ có tên 24 lộ. Sau đây là 9 lộ bổ túc:
Đại La Thành
Quy Hóa Giang
Tuyên Hóa Giang
Lạng Châu
Đại Hoàng
Nam Sách Giang
Như Nguyệt Giang
Nghệ An
Phủ Bố Chính Châu
Năm 1397, Lê Quý Ly làm thái sư, đổi các lộ phủ ra làm trấn: Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, Đà Giang làm trấn Thiên Hưng, Nghệ An làm trấn Lâm An, Trường Yên làm trấn Thiên Quan, Diễn Châu làm trấn Vọng Giang, Lạng Sơn phủ (truóc là Lạng Sơn) làm trấn Lạng Sơn, Tân Bình phủ (trước là Bố Chính Châu) làm trấn Tân Bình… Quý Ly chiếm thêm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đặt làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, gộp lại làm lộ Thăng Hoa, tức là miền Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay
(Bản đồ 17)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0017
0. Lộ Đông Đô
1. Lộ Bắc Giang
2. Lộ Lạng Giang
3. Lộ Lạng Sơn
4. Phủ lộ Thiên Truờng (Sơn Nam)
5. Lộ Long Hưng
6. Lộ Khoái Châu
7. Phủ lộ Kiến Xương
8. Lộ Hoàng Giang,
Phủ Kiến Hưng
9. Trấn Thiên Quan
10. Phủ lộ Tân Hưng
11. Lộ Hải Đông
12. Phủ lộ Kiến Xương
13. Trấn Quảng Oai
14. Trấn Thiên Hưng
15. Trấn Thanh Đô
16. Trấn Vọng Gỉang
17. Trấn Tây Bình
18. Trấn lộ Thanh Hóa
19. Lộ Thăng Hoa
Sau khi Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần liền đặt tên nuớc là Đại Ngu rồi đổi phủ Thanh Hóa (trấn Thanh Đô) làm phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu (trấn Vọng Giang) làm phủ Linh Nguyên, phủ Kiến Xương làm phủ Kiến Ninh . Duyên cách thật phức tạp và các danh xưng lộ – phủ – trấn vẫn còn xen kẽ chưa phân biệt rạch rồi.(Bản đồ 18)
 Danh sách các vua triều Trần sau Trần Thái Tông:
Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ Tông (1374-1377)
Trần Phế Đế (1377-1388)
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Nhà Hồ thoán ngôi với hai đời vua:
Hồ Quí Ly (1400-1401)
Hồ Hán Thương (1401-1407)
Nhà Trần trở lại gọi là Hậu Trần với hai đời vua:
Giản Định Đế (1407-1409)
Trần Quí Khoách (1403-1413)
Dân số Đại Việt ở niên đại 1407 có khoảng 3.129.500 người.
6. CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI THỜI THUỘC MINH (1414-1427)
Vua Nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang chiếm nước ta rồi lại gọi nước ta là Quận Giao Chỉ và chia lãnh thổ nước ta ra làm 15 phủ với 5 châu lớn, đó là:
(Bản đồ 19) và (Bản đồ 20)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0019
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0020
1. Phủ Giao Châu 11. Phủ Lạng Sơn
2. Phủ Bắc Giang 12. Phủ Tân Bình
3. Phủ Lạng Giang 13. Phủ Diễn Châu
4. Phủ Tam Giang 14 Phủ Nghệ An
5. Phủ Kiến Bình 15. Phủ Thuận Hóa
6. Phủ Tân Yên 16. Châu Thái Nguyên
7. Phủ Kiến Xương 17. Châu Tuyên Hóa
8. Phủ Phụng Hóa 18. Châu Gia Hưng
9. Phủ Thanh Hóa 19. Châu Qui Hóa
10. Phủ Trấn Man 20. Châu Quảng Oai
Đại khái “họ theo tên các lộ trấn phủ châu của thời Trần – Hồ, duy có thay đổi như sau: đổi phủ Long Hưng làm phủ Trấn Man, phủ Kiến Hưng làm phủ Kiến Bình, phủ Thiên Trường làm phủ Phụng Hóa, phủ Tân Hưng làm phủ Tân Yên, châu Quốc Oai làm châu Tuyên Man (?), châu Tuyên Quang làm châu Tuyên Hóa” .
Ở địa phương thì nhà Minh chia ra phường, tương, lý, giáp, “ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung quanh thành phố thì gọi là tương, ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia ra giáp. Cứ 110 hộ làm 1 lý và 10 hộ làm 1 giáp. Lý thì có lý trưởng, thế giáp thì có giáp thủ. Mỗi một lý, một phuòng hay một tương, có một quyển sách để biên tất cả số đinh, số điền vào đấy… ở đầu quyển sách lại có cái địa đồ” . (Bản đồ 21)ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0021
7. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI TRlỀU LÊ (1428-1527)
Lê Thái Tổ (1428-1433) thắng quân Minh rồi đóng đô ở Thăng Long khi ấy gọi là Đông Đô (gồm 2 huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương). Năm 1430, đổi Đông Đô là Đông Kinh (từ đó người Tây phương phiên là Tongkinh hay Tonkin), và đổi Tây Đô (Lam Sơn) thành Tây Kinh. Lại chia cả mước làm 5 đạo gồm 19 trấn hay lộ:
1. Bắc Đạo (Lạng Giang, Bắc Giang, Thái Nguyên).
2. Tây Đạo (Tuyên Quang, Hưng Hóa, Gia Hưng, Tam Giang).
3. Đông Đạo (An Bang, Hồng Sách Thượng, Hồng Sách Hạ).
4. Nam Đạo (Ly Nhân, Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Truờng).
5. Hải Tây Đạo (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa). Đạo này mới đặt năm 1428, bốn đạo trên đặt từ thời chống quân Minh.
Lê Thái Tông (1434- 1442), Lê Nhân Tông (1443- 1459), vẫn giữ cách phân bổ hành chính như trên.
Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị vua anh minh, đã nâng cao phẩm chất văn hóa và đạo lý cho nhân dân, lại mở mang thêm bờ cõi và tổ chúc quản trị lãnh thổ rất chu đáo. Năm 1466, Thánh Tông chia nước ra làm 12 đạo hay thừa tuyên:
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Thuận Hóa
4. Thiên Trường
5. Nam Sách
6. Quốc Oai
7. Bắc Giang
8. An Bang
9. Hưng Hóa
10. Tuyên Quang
11. Thái Nguyên
12. Lạng Sơn
Năm 1471, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam, đưa biên giới nước ta tới núi Đá Bia trên Đèo Cả.
Năm 1490, lập bản đồ Hồng Đức để tổng kết tình hình phân bố lãnh thổ và vẽ bản đồ toàn quốc cũng như từng thừa tuyên.
Sau đây là danh sách Kinh Đô và các đạo thừa tuyên với số phủ, châu, huyện:
Trung Đô có phủ Phụng Thiên và 2 huyện.
1. Sơn Nam gồm 11 phủ, 42 huyện.
2. Kinh Bắc gồm 4 phủ, 20 huyện.
3. Sơn Tây gồm 4 phủ, 24 huyện.
4. Hải Dương gồm 3 phủ, 14 huyện.
5. Yên Bang (sau là Quảng Yên) gồm 1 phủ, 3 huyện, châu.
6. Lạng Sơn gồm 1 phủ, 6 châu.
7. Ninh Sóc (tức Thái Nguyên) gồm 3 phủ, 8 huyện, 6 châu.
8. Tuyên Quang gồm 1 phủ, 2 huyện, 5 châu.
9. Hưng Hóa gồm 3 phủ, 17 châu.
10. Thanh Hóa gồm 4 phủ, 16 huyện, 4 châu.
11. Nghệ An gồm 4 phủ, 27 huyện, 3 châu.
12. Thuận Hóa gồm 2 phủ, 7 huyện, 3 châu.
13. Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện.
(Bản đồ 22)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0022
Năm 1490, đổi tên thừa tuyên làm xứ. Như vậy cả nước có 13 xứ, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 37 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Mỗi xã thường không có quá 500 hộ, khi quá số này khoảng 100 hộ, lại chia làm 2 xã .
Dân số Đại Việt ở niên đại 1490 có khoảng 4.000.000 người.
Các đời vua sau Lê Thánh Tông:
Lê Hiến Tông (1497-1504)
Lê Túc Tông (1504)
Lê Uy Mục (1505-1509)
Lê Tương Dực (1510-1516)
Lê Chiêu Tông (1516-1522)
Lê Cung Hoàng (1522-1527)
Các vua này vẫn giữ nền tảng hành chính như cũ. (Bản đồ 23) 
8. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI NAM BẮC TRlỀU (1528-1592)
Năm 1527, Mạc Đăng Dung thoán ngôi nhà Lê. Cựu thần nhà Lê không chịu: Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm suy tôn Lê Trang Tôn lên ngôi từ năm 1533 bên đất Lào, rồi đem quân về lấy lại Nghệ An và Thanh Hóa. Trong thời gian trên 60 năm, từ Thanh Hóa vào Nam thuộc về nhà Lê, gọi là Nam Triều. Từ Sơn Nam ra Bắc thuộc về nhà Mạc, gọi là Bắc Triệu.
Nam Triều có các vua:
Lê Trang Tông (1533-1548)
Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Anh Tông (1556-1573)
Lê Thế Tông (1573-1599)
Bắc Triều có các vua:
Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Mạc Phúc Hải (1541-1546)
Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
Mạc Mậu Hợp (1562-1592).
9. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH (1600-1771)
Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm muốn giữ hết quyền bèn cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa (1588) nhưng buộc vẫn thường phải về chầu vua Lê và đem binh ra giúp họ Trịnh để dứt nhà Mạc. Năm 1593, Trịnh Tùng có sự tiếp tay của Nguyễn Hoàng lấy lại Thăng Long nhưng vẫn muốn giữ Nguyễn Hoàng không cho về hẳn Thuận Hóa. Mãi năm 1600, Nguyễn Hoàng mới trốn được vào Nam và mưu tính lập căn cứ lâu dài chống lại họ Trịnh. Từ đó, các chúa Nguyễn tìm cách phát triển lãnh thổ cả về phía nam lẫn phía tây và phía biển Đông trên các quần đảo xa xôi nữa.
Sau đây là các đời chúa Nguyễn:
Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1558-1613) tổ chức cai trị thêm từ đèo Cù Mông tới núi Đá Bia, lập phủ Phú Yên hồi năm 1611
Nguyễn Phước Nguyên tức Chúa Sãi (1613-1635) hình như có gả “công nữ” Ngọc Vạn cho Chey Ghetta II, vua Chân Lạp hồi 1619.
Nguyễn Phước Lan tức Chúa Thượng (1635-1648) tổ chức cai trị và khai khẩn từ núi Đá Bia tới sông Phan Rang hồi năm 1635.
Nguyễn Phước Tần tức Chúa Hiền (1648-1687) cho quân sang U Đông và Nam Vang để cản ngăn việc quân Xiêm chiếm đóng hồi 1658-1672, lại cho người Minh Hương đến khẩn hoang ở Mỹ Tho và Biên Hòa hồi 1679. (Bản đồ 24)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0024

Nguyễn Phước Trăn tức Chúa Ngãi (1687-1691) cho quân chinh phạt nguời Minh Hương là Hoàng Tiến hồi năm 1689.
Nguyễn Phước Chu tức Chúa Minh (1691-1725) “đặt phủ Bình Thuận, vẫn để vua Chiêm cai trị người Chiêm như cũ” hồi năm 1697. Năm 1698 phái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, đăt phủ Gia Đinh và hai huyện Tân Bình (Sài Gòn), Phước Long (Biên Hòa).
Năm 1708, chúa cho Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên.
Nguyễn Phước Trú tức Chúa Ninh (1691-1738)đặt chức Điều Khiển để coi việc quân toàn miền Nam.
Nguyễn Phước Khoát tức Chúa Võ (1738-1765) hoàn chỉnh việc chia cắt phủ huyện trên toàn cõi miền Nam. Năm 1744, Đàng Trong chia ra làm 12 dinh và 1 trấn
Chính dinh (Phú Xuân).
  1. Cựu dinh (Ái Tử, Quảng Trị).
  2. Quảng Bình dinh tục gọi dinh Trạm.
  3. Lưu Đồn dinh cũng gọi dinh Mười (Võ Xá, Quảng Bình).
  4. Bố Chính dinh tục gọi dinh Ngói.
  5. Quảng Nam dinh tục gọi dinh Chiêm.
  6. Phú Yên dinh.
  7. Bình Khang dinh (sau là Khánh Hòa).
  8. Bình Thuận dinh.
  9. Trấn Biên dinh (sau là Biên Hòa)
  10. Phiên Trấn dinh (sau là tỉnh Gia Định).
  11. Long Hồ dinh (sau là Vĩnh Long và An Giang).
  12. Hà Tiên trấn.
Dân số Đàng Trong, ở niên đại 1750, có khoảng 1.500.000 người.
Nguyễn Phước Thuần tức Chúa Định (1765-1776) sai Nguyễn Cửu Đàm giải phóng Cao Miên khỏi tay quân Xiêm chiếm đóng (1772). Đầu năm 1776, quân Tây Sơn vào chiếm miền Nam, sau khi làm chủ Qui Nhon[1].
Nguyễn Anh (1776-1802) tái chiếm Gia Định từ tay Tây Sơn, xây thành Bát Quái rồi theo gió mùa lần hồi lấy lại Phú Xuân và cả Đàng Ngoài.
(Bản đồ 25)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0025
10. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TÂY SƠN (1771-1802)
Có lẽ chính quyền nuớc ta chưa bao giờ phân tán như trong thời gian 30 năm này, ngoại trừ thời Thập Nhị Sứ Quân. Năm 1771, anh em Tây Sơn dấy binh rồi chiếm thành Qui Nhơn. Năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc vào chiếm Phú Xuân. Chúa Định cùng Nguyễn Ánh chạy vào Nam. Năm 1776, Tây Sơn vào chiếm Nam Bộ. Từ đó đến năm 1778, Nam Bộ bị giành giật bảy tám lần giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Năm 1786, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lấy Thuận Hóa, rồi thừa thắng đem quân ra lấy Bắc Hà với danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê. Trịnh Khải tự tử, chấm dứt nghiệp chúa của họ Trịnh kéo dài 216 năm (1576-1786) với 10 đời chúa là:
Trịnh Tùng (1570-1670)
Trinh Tráng (1623-1657)
Trịnh Tạc (1657-1682)
Trịnh Căn (1682-1709)
Trịnh Cương (1709-1729)
Trịnh Giang (1729-1740)
Trịnh Doanh (1740-1767)
Trịnh Sâm (1767-1782)
Trịnh Cán (1782)
Trịnh Khải (1783-1786).
Lấy được Bắc Hà rồi, nhà Tây Sơn phân quyền lại: Nguyễn Nhạc làm Trung ương Hoàng Đế đóng đô ở Qui Nhon, Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ở đất Thuận Hóa, lấy đèo Hải Vân làm giới hạn. Riêng nhà Tây Sơn đã chia làm “ba nuớc”. Nhưng Nguyễn Lữ ở Gia Định thì không bao giờ vững và Nguyễn Ánh vẫn tự coi là chúa chính thống, còn Quy Nhơn và Thuận Hóa thì hiềm khích, có lúc Nguyễn Huệ đã kéo quân vào đánh Nguyễn Nhạc. Trong khi ấy, vua Lê còn thoi thóp ở Thăng Long và dùng Trịnh Bồng làm chúa. Lên được tấm bản đồ phân ranh hành chính của nước ta trong thời kỳ lắm vua nhiều chúa này thật không dễ[2].(Bản đồ 26)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0007ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0026
Năm 1787, Nguyễn Huệ dứt bỏ nhà Lê nhưng vẫn đặt Giám quốc “để giữ tông miếu tiền triều”. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc xin cầu viện. Nhà Lê làm vua cả thảy được 360 năm (1428-1788). Tiếp theo Lê Thế Tông (đã chép ở một đoạn trên) là các vua:
Lê Kính Tông (1600-1619).
Lê Thần Tông (1619-1643) lần thứ nhất.
Lê Chân Tông (1643-1649).
Lê Thần Tông (1649-1662) lần thứ hai.
Lê Huyền Tông (1663-1671).
Lê Gia Tông (1672-1675).
Lê Hi Tông (1676-1705).
Lê Dụ Tông (1706-1729).
Lê Duy Phương (1729-1732).
Lê Thuần Tông (1732-1735).
Lê Ý Tông (1735-1740).
Lê Hiển Tông (1740-1786).
Lê Mẫn Đế (1787-1788) tức Chiêu Thống.
Đó là những vị vua ngồi làm vì, còn quyền bính đều trong tay họ Trịnh quyết đoán. Họ Trịnh suy thì nhà Lê cũng tàn.
Dân số Đàng Ngoài, ở niên đại 1750, có khoảng 4.000.000 người.
Quang Trung (1788-1792). Khi được tin quân Thanh mượn tiếng cứu Lê để xâm chiếm nước ta, Nguyễn Huệ tức vị xưng đế rồi đem quân ra Bắc để phá quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị bỏ hết ấn tín mà chạy (1789). Thắng mà không kiêu, Nguyễn Huệ biết lượng sức mình đối với Trung Quốc to gấp mấy chục lần nước ta, nên tạm hoãn binh và xin cầu phong. “Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho Quang Trung làm An Nam Quốc Vương[3]. Đó là tuóc hiệu mà “thiên triều” vẫn dùng để phong cho vua nuớc ta. Tuy ta tự xưng nước là Đại Việt nhưng Trung Quốc chỉ gọi ta là An Nam. Trên danh nghĩa, tước hiệu An Nam Quốc Vương là làm vua toàn quốc từ Nam chí Bắc, song thực tế thì lúc đó Nguyễn Ánh đã làm chủ Nam Bộ và Trung ương Hoàng Đế (tức Nguyễn Nhạc) vẫn còn làm chủ ở phía Nam Trung Bộ tới đèo Hải Vân.
Cảnh Thịnh (1792-1802) tức Nguyễn Quang Toản, lên nối ngôi cha, còn nhỏ tuổi không làm được gì, chứng kiến từ thất trận này đến thất trận khác, từ Nam ra Bắc và chỉ tồn tại được 10 năm. (Bản đồ 27) Và (Bản đồ 28)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0027
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0028 
[1] Phan Khoang, Xứ Đàng Trong 1558-1777. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Tr. 131-130
[2] Lê Thành Khôi, Le VietNam, histoire et civilisation. Les editions de Minuit. Paris, 1955. Bản đồ Le Đạí Việt en 1790, trang 528.
[3] Trần Trọng Kim, sdd, tr. 376.

Phần IV : Thời kỳ thống nhất lãnh thổ với quốc hiệu Việt Nam

1. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI TRlỀU NGUYỄN (1802-1945)
a. Giai đoạn độc lập (1802-1862)
Gia Long (1802-1819) tức Nguyễn Ánh, sau khi dứt được Tây Sơn, liền phái Lê Quang Định sang Trung Quốc cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt. Nhà Thanh chỉ nhận đổi quốc hiệu là Việt Nam và phong cho Nguyễn Anh là Việt Nam Quốc Vương (1804) . (Bản đồ 29)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0029
Toàn quốc khi ấy chia làm 23 trấn và 4 dinh:
Bắc Thành gồm 11 trấn:
5. nội trấn:
1. Sơn Nam Thượng
2. Sơn Nam Hạ
3. Sơn Tây
4. Kinh Bắc
5. Hải Dương
6. ngoại trấn:
1. Tuyên Quang
2. Hưng Hóa
3. Cao Bằng
4. Lạng Sơn
5. Thái Nguyên
6. Quảng Yên
Gia Định Thành gồm 5 trấn:
1. Phiên An (địa hạt Gia Định)
2. Biên Hòa
3. Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang)
4. Định Tưòng
5. Hà Tiên
Miền Trung gồm 7 trấn:
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Quảng Ngãi
4. Bình Định
5. Phú Yên
6. Bình Hòa (sau là Khánh Hòa)
7. Bình Thuận
Kinh Kỳ thống quản 4 dinh:
1. Quảng Đức dinh (sau là Thừa Thiên)
2. Quảng Trị dinh
3. Quảng Bình dinh
4. Quảng Nam dinh
(Bản đồ 30)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0030
Từ năm 1805, bắt đầu công cuộc lập địa bạ cho mỗi xã thôn trên toàn quốc, làm từ Bắc vào Nam. Đây là một công việc vĩ đại.
Dân số Việt Nam, ở niên đại 1802 đầu đời Gia Long, có khoảng 5.780.000 người.
Minh Mệnh (1820-1840) chủ trương tập quyền, chia cương vực ra làm 30 tinh và 1 phủ Thừa Thiên thuộc Kinh Kỳ.
1. Phủ Thùa Thiên
2. Lạng Sơn
3. Quảng Yên
4. Cao Bằng
5. Tuyên Quang
6. Thái Nguyên
7. Bắc Ninh
8. Hải Dương
9. Hưng Hóa
10. Sơn Tây
11. Hà Nội
12. Nam Định
13. Hưng Yên
14. Ninh Bình
15. Thanh Hóa
16. Nghệ An
17. Hà Tĩnh
18. Quảng Bình
19. Quảng Trị
20. Quảng Nam
21. Quảng Ngãi
22. Bình Định
23. Phú Yên
24. Khánh Hòa
25. Bình Thuận
26. Biên Hòa
27. Gia Định
28. Định Tường
29. Vĩnh Long
30. An Giang
31. Hà Tiên.
Đến năm 1836 thì Minh Mệnh hoàn thành công cuộc lập địa bạ trên toàn quốc (hiện còn lưu giữ được 10.044 tập gồm khoảng 15.000 quyển Địa bạ). Đó là một sưu tập vô giá để mô tả cương vục nuớc ta ở từng ngôi làng, từng mảnh ruộng đất.
Năm 1838, Minh Mệnh đổi tên nuớc là Đại Nam hoặc Đại Việt Nam .
Dân số Việt Nam ở cuối đời Minh Mệnh năm 1840 có khoảng 7.764.128 người.
Thiệu Trị (1841-1847).
Tự Đức (1847-1883). Về đại thể, cho đến năm 1862, vẫn giữ nguyên tổ chức hành chính như trên.
b. Từ khi bị Pháp đô hộ (1862-1945)
Quân Pháp đánh phá Đà Nang năm 1858, chiếm Sài Gòn năm 1859. Huế phải ký nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Năm 1883, Pháp chiếm Bắc Kỳ, rồi Huế và miền Trung. Các ngôi vua triều Nguyễn sau Tự Đúc đều mất quyền tự chủ, việc chính trị phải theo Pháp xếp đặt:
1. Dục Đức (1883)
2. Hiệp Hòa (1883)
3. Kiến Phước (1884)
4. Hàm Nghi (1884-1885)
5. Đồng Khánh (1885-1888)
6. Thành Thái (1889-1907)
7. Duy Tân (1907-1916)
8. Khải Định (1916-1925)
9. Bảo Đại (1925-1945)
Pháp bỏ quốc hiệu Việt Nam, Đại Nam hay Đại Việt Nam, và chia cương vực nước ta thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Đó là:
Annam hay Trung Kỳ
Tonkin hay Bắc Kỳ
Cochinchine hay Nam Kỳ
Bắc Kỳ gồm 27 tỉnh và 2 thành phố:
1. Thành phố Hà Nội
2. Thành phố Hải Phòng
3. Bắc Giang
4. Bắc Ninh
5. Hà Đông
6. Hải Dương
7. Hà Nam
8. Hưng Yên
9. Kiến An
10. Nam Định
11. Ninh Bình
12. Phúc Yên
13. Phú Thọ
14. Quảng Yên
15. Sơn Tây
16. Thái Bình
17. Thái Nguyên
18. Tuyên Quang
19. Vĩnh Yên
20. Yên Báy
21. Bắc Cạn
22. Cao Bằng
23. Hà Giang
24. Hòa Bình
25. Lạng Sơn
26. Lào Kay
27. Lai Châu
28. Móng Cáy
29. Sơn La
Trung Kỳ gồm 16 tỉnh:
1. Nghệ An
2. Hà Tĩnh
3. Thanh Hóa
4. Quảng Trị
5. Quảng Bình
6. Thừa Thiên
7. Quảng Ngãi
8. Bình Định
9. Phú Yên
10. Nha Trang
11. Phan Rang
12. Quảng Nam
13. Phan Thiết
14. Đồng Nai Thượng
15. Kontum
16. Darlac
Nam Kỳ gồm 20 tỉnh, 3 thành phố và 1 khu đảo:
1. Thành phố Sài Gòn
2. Thành phố Chợ Lớn
3. Thành phố Vũng Tàu
4. Khu đảo Côn Lôn
5. Rạch Giá
6. Hà Tiên
7. Gò Công
8. Châu Đốc
9. Sóc Trăng
10. Gia Định
11. Long Xuyên
12. Vĩnh Long
13. Tây Ninh
14. Sa Đéc
15. Chợ Lớn
16. Thủ Dầu Một
17. Cần Thơ
18. Bạc Liêu
19. Biên Hoa
20. Mỹ Tho
21. Trà Vinh
22. Bà Rịa
23. Tân An
24. Bến Tre.
Tính chung Bắc Kỳ có 37 phủ, 88 huyện, 38 châu. Phủ không còn quản huyện như xưa. Nơi nào to gọi là phủ, nơi nhỏ gọi huyện. Châu cũng như huyện, nhưng ở các vùng có dân tộc thiểu số. Gồm 1.264 tống, 10.105 xã, 29 mường, 2.141 bản. Mường và bản cũng chỉ đặt ở những nơi có đồng bào dân tộc. Trên vùng biên giới lại có 4 đạo quan binh.
Tính chung ở Trung Kỳ có 3 đạo (đạo cao hơn phủ), 33 huyện, 58 huyện, 541 tổng và 9.093 xã. Có 6 thành phố là Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng (nhượng cho Pháp), Qui Nhơn và Đà Lạt.
Tính chung ở Nam Kỳ có 78 quận (không còn chia ra làm hai cấp phủ huyện như ở Bắc và Trung Kỳ), 197 tổng Kinh và 10 tổng Thượng, 1.470 xã (không phân biệt thôn và xã nữa) .
Đó là tình hình nước ta: không còn quốc hiệu, và cương vực thì bị chia cắt thiếu thống nhất, suốt thời gian bị Pháp thống trị.
Dân số nước Việt Nam thời thuộc Pháp:
Năm 1870 có khoảng 10.000.000 người
Năm 1901 – 13.000.000 người
Năm 1943 – 22.600.000 người
2. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
Sau Cách mạng mùa thu, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945. Đầu năm 1946, họp Quốc hội và thành lập nuớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hiệu Việt Nam lại xuất hiện rạng rỡ hơn hổi đầu thế kỷ 19. Nhưng từ 23-9-1945, thực dân Pháp xua quân đánh chiếm Sài Gòn và một số địa điểm khác ở miền Nam. Cuối năm 1946, Pháp đánh chiếm Hà Nội và một số địa điểm khác trên toàn quốc. Cuộc kháng chiến bắt đầu trên phạm vi cả nước. Cương vực nước ta phải cắt thành những “khu” và “liên khu” quân sự để đáp ứng nhu cầu kháng chiến. Những tỉnh, phủ, huyện cũ đuợc chia cắt hoặc dồn nhập cho thích ứng với các khu và quân khu. Tình hình diên cách lúc này hết sức phức tạp, muốn nghiên cứu kỹ, thường phải dựa trên những tư liệu hồi ký, vì thiếu các văn bản pháp qui liên tục.
Hiệp định Genève 1954 lấy sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời cho việc chuyển quân và dự tính đến năm 1956 thì Hiệp Thương thống nhất đất nước. Nhưng miền Nam với chiến lược của Hoa Kỳ, không thi hành Hiệp định và tổ chức chính quyền riêng với danh xưng Việt Nam Cộng hòa, tồn tại tới năm 1975. Sau đây là tình hình phân ranh hành chính của hai miền trong thời gian đó:
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Thủ đô: Hà Nội
Khu tự trị Việt Bắc, 6 tỉnh:
1. Hà Giang
2. Bắc Cạn
3. Cao Bằng
4. Thái Nguyên
5. Tuyên Quang
6. Lạng Sơn
Khu tự trị Thái-Mèo, 2 tỉnh:
1. Lai Châu
2. Sơn La
Khu đặc biêt, 1 tỉnh:
1. Hồng Quảng
Thành phố trực thuộc Trung ương:
2. Hải Phòng
Các tỉnh trực thuộc Trung ương, 21 tỉnh:
1. Lào Cai
2. Bắc Ninh
3. Hà Đông
4. Yên Bái
5. Bắc Giang
6. Hòa Bình
7. Phú Thọ
8. Hải Ninh
9. Hà Nam
10. Sơn Tây
11. Hải Dương
12. Thái Bình
13. Vĩnh Phúc Yên
14. Hưng Yên
15. Kiến An
16. Ninh Bình
17. Thanh Hóa
18. Hà Tình
19. Nam Định
20. Nghệ An
21. Quảng Bình
Trên đây là tình hình phân ranh ở miền Bắc hồi 1962. Cũng ở thời điểm đó, miền Nam tình hình phân ranh hành chính như sau:
VIỆT NAM CỘNG HÒA
Đô thành: Sài Gòn
Trung nguyên Trung Phần, 10 tỉnh:
1. Quảng Trị
2. Bình Định
3. Thừa Thiên
4. Phú Yên
5. Quảng Nam
6. Khánh Hòa
7. Quảng Tín
8. Ninh Thuận
9. Quảng Ngãi
10. Bình Thuận
Cao nguyên Trung Phần, 7 tỉnh:
1. Kontum
2. Quảng Đúc
3. Pleiku
4. Tuyên Đúc
5. Phú Bổn
6. Lâm Đồng
7. Darlac
Miền Đông Nam Phần, 11 tỉnh:
1. Bình Tuy
2. LongKhánh
3. Phước Thành
4. Phước Long
5. Bình Long
6. Biên Hòa
7. Phuớc Tuy
8. Gia Định
9. Bình Duong
10. Tây Ninh
11. Côn Sơn
Miền Tây Nam Phần, 13 tỉnh:
1. Long An
2. Kiến Tưòng
3. Định Tường
4. Kiến Phong
5. Kiến Hòa
6. Vĩnh Long
7. An Giang
8. Vĩnh Bình
9. Phong Dinh
10. Chưong Thiện
11. Kiên Giang
12. Ba Xuyên
13. An Xuyên
Ở Trung Phần bắt đầu bỏ các danh xưng phủ huyện mà dùng đơn vị quận như ở Nam Kỳ dưới thời Pháp. Tính chung miền Nam khi ấy chia ra 228 quận, 339 tống, 2.547 xã và 16.243 ấp . Có thể dễ dàng nhận thấy cấp tổng để lơi lỏng, cấp xã và ấp mất dần quyền tự trị.
Ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, từ 1960 đến 1975, tình hình phân bổ hành chính không giữ nguyên như bảng kê trên mà thay đổi khá nhiều, cần có thêm những bảng thống kê và chú thích hơn nữa mới nắm hết được quá trình diên cách.
Năm 1962, dân số Việt Nam có khoảng 31.275.000 người (miền Bắc có 17.000.000 và miền Nam có 14.275.000 người).
3. CƯƠNG VỰC NƯỚC CỘNG HỔA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Ngày 30-4-1975 giải phóng Sài Gòn, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cuối năm, tiến hành Hiệp thương Thống nhất. Đầu năm 1976, quốc hội khóa VI thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó đến nay, nhiều tên và địa phận các đơn vị hành chính đã đuợc thay đổi. Như từ năm 1976, cả nuớc chia ra 40 tỉnh, năm 1992 chia ra 53 tỉnh, năm 1997 chia ra 61 tỉnh và từ năm 2003 chia ra 64 tỉnh (59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương). Dưới đây là thống kê 64 tỉnh thành vừa kể:
(Bản đồ 31)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0031










DIỆN TÍCH, DÂN SỐ, MẬT ĐỘ DÂN CƯ CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ
Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi truòng và Tổng cục Thông kê năm 2003.
Số liệu các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Hậu Giang, Lai Châu, Cần Thơ, Lào Cai, theo Nghị quyết 22/2003/QH 11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội
STT
Tên tỉnh
Diện tích (km2)
Dân số (nghìn người)
Mật độ
dân số
CẢ NƯỚC.329.314,5680.930,200246
1.VÙNG TÂY BĂC
1Lai Châu9.065,12313,51135
2Điện Biên9.554,10440,30046
3Sơn La1.4055,00955,40068
4Hòa Bình4.662,54792,300170
II.VÙNG ĐÔNG BẮC
5Hà Giang7.884,37648,10082
6Cao Bắng6.690,72503,00075
7Lào Cai6.357,08■ 547,10686
8Yên Bái6.882,92713,000104
9Phú Thọ3.519,651.302,700370
10Tuyên Quang5.868,00709,400121
11Băc Cạn4.857,21291,70060
12Thái Nguyên3^42,641.085,900307
13Lạng Sơn8.305,21724,30087
14Băc Giang3.822,701.547,100405
1′,Quảng Ninh5.899,581.055,600179
III.VÙNG ĐỒNG BẮNG SÔNG HỐNG
16Thành phố Hà Nội920,983.007,0003.265
17Thành phố Hải Phòng1.526,301.754,1001.149

18Vĩnh Phúc1.371,411.142,900833
19Há Tây2.192,082.479,4001.131
20Bắc Ninh807,57976,7001.209
21Hưng Yên923,091.112,4001.205
22Hải Dương1.648,371.689,2001.025
23Hà Nam852,17814,900956
24Thái Bình1.545,421.831,1001.185
25Nam Định1.641,331.935,0001.179
26Ninh Bình •1.383,72906,000655
IV.VÙNG BẮC TRUNG BỘ
27Thanh Hóa11.116,343.620,300326
28Nghệ An16.487,392.977,300181
29Há Tĩnh6.055,641.283,900212
30Quảng Bình8.051,86818,300102
31Quảng Trị4.745,74608,500128
32Thừa Thiên-Huế5.053,991.101,700218
V.VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
33Thành phố Đà Nắng1.255,53747,100595
34Quảng Nam10.407,421.438,800138
35Quảng Ngãi5.137,621.250,300243
36Bình Định6.025,061.530,300254
37Phú Yên5.045,31836,700166
38Khánh Hòa5.198,211.096,600211
39Ninh Thuận3.360,07546,100163
40Bình Thuận7.828,461.120,200143
VI.VÙNG TÂY NGUYÊN
41Kon Tum9.614,50357,40037
42Gia Lai15.494,881.075,20069

43Đắk Lắk13.062,011.666,854128
44Đắk Nông6.514,38363,11856
45Lâm Đồng9.764,791.120,100115
VII.VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
46Thành phố Hồ Chí Minh2.095,245.554,8002.651
47Bình Phước6.857,35764,600112
48Tây Ninh4.029,601.017,100252
49Bình Dương2.695,55851,100316
50Đống Nai5.894,782.142,700363
51Bà Rịa-Vũng Tàu1.982,25884,900446
VIII.VÙNG ĐỐNG BĂNG SỐNG cửu LONG
52Thảnh phô’ cần Thơ1.389,601.112,121800
53Long An4.491,221.392,300310
54Đổng Tháp3.246,071.626,100501
55An Giang3.406,232.146,800630
56Tiến Giang2.366,631.660,200702
57Bến Tre2.321,621.337,800576
58Vĩnh Ị.ong1.475,201.036,100702
59Kiên Giang6.268,171.606,600256
60Hậu Giang1.607,73766,105477
61Trà Vinh2.215,151.002,600453
62Sóc Trăng3.223,301.234,300383
63Bạc Liêu2.525,74775,900307
64Cà Mau5.201,531.181,200227<[1]>
 Vậy là cả nước có 59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung Ương. 
[1]   Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hà Nội, 2005.

LỜI TỰA
Khi soạn thảo tập sách nhỏ này với nhan đề Việt Nam Quốc Hiệu và Cương Vực qua các thời đại ngoài các bộ Chính sử, tôi mạn phép sử dụng tư liệu đã công bố của các nhà sử học lớn như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Phan Khoang, Phan Huy Lê, Lê Thành Khôi, Bửu Cầm, v.v…
Đây là dề tài cần nhiều bản đồ hay sơ đồ minh họa, đặc biệt khi nói về cương vực. Tôi chỉ vẽ thêm những sơ đồ thiết yếu mà các sử gia trên chưa vẽ, -hoặc có sửa chữa đôi ba địa danh không thích hợp với tình thế hiện đại. Đường biên giới trong các sơ đồ hầu hết là phỏng định, đôi khi dùng đường biên giới ‘lịch sử” ngày nay cốt để dễ nhận định vị trí. Xin độc giả coi đây là những sơ đồ chỉ mang tính hưóng dẫn đại khái, nhất là đối với những sơ đồ vẽ theo tỷ lệ quá nhỏ.
Cũng xin độc giả thông cảm cho: trong tập này chúng tôi không đề cập đến các mặt lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội hay văn hóa dẫu có liên quan gần xa tới vấn đề Quốc Hiệu và Cương Vực. Tuy nhiên tất cả các họ cầm quyền, các vua chúa trị vì, các chế độ chính trị, từ thời Hồng Bàng đến nay, đều được ghi chép theo diễn biến thời gian.
Dân số là vấn đề cực kỳ nan giải trong quá trình phát triển của dân tộc ta. Chúng tôi đã dựa vào những thống kê được lập chủ yếu từ đầu thế kỷ XX rồi ngược dòng lịch sử để phỏng tính rất đại khái ở mỗi thời điểm về trước.
Nay xin trình bày với quý học giả và độc giả tập sách nhò này. Chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Tôi thành thật cám ơn quý vị sẽ chỉ bảo cho những gì còn sai sót hay cần bổ sung.
TP.HCM, mùa thu năm 1999
NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU

CHỮ VIẾT TẮT
Đại Nam thực lục
ĐNTL
Khâm Định Việt sử
KĐVS
Việt Nam Sử lược
VNSL
Lịch sử Việt Nam 1
LSVN
Đào Duy Anh
ĐDA
Bửu Cầm
BC
Lê Thành Khôi
LTK
Trần Trọng Kim
TTK

NGỒI THIỀN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG VIỆC VÀ TĂNG CƯỜNG SỨC KHỎE

 

Lương y VÕ HÀ

Thử nhìn xuống một hồ nước. Khi mặt hồ yên tĩnh, trong xanh ta dễ dàng nhìn rõ được mọi vật dưới đáy. Trái lại, khi làn nước gợn sóng, hình ảnh sẽ bị phản chiếu lệch lạc. Bộ não con người cũng giống như vậy. Khi tinh thần yên tĩnh, tập trung, tâm trí sẽ sáng suốt. Trái lại, khi có tạp niệm xen vào hoặc lúc lo âu căng thẳng, sự phán đoán sẽ kém chính xác. Sự căng thẳng sẽ làm mệt bộ não, cơ thể tiêu phí nhiều năng lượng mà việc giải quyết công việc lại kém hiệu quả. Một sinh viên thiếu tập trung sẽ khó tiếp thu bài giảng. Một công nhân đứng máy lơ đểnh sẽ dễ mắc tai nạn lao động. Một nhà nghiên cứu mà tinh thần không ổn định sẽ khó có thể hoàn thành công trình của mình. Ngoài ra, trong điều kiện phát triễn của nền văn minh công nghiệp với tính cạnh tranh cao, con người luôn phải đối mặt với nhiều loại áp lực thì việc phải gánh chịu stress làm giảm sức đề kháng và dễ dẫn đến nhiều bệnh tật là điều đáng lo ngại. Từ những thực tế nầy nhiều người đã tìm đến với thiền.

THIỀN LÀ GÌ?

Nói một cách đơn giản, thiền là những phương pháp giúp hình thành thói quen tập trung tư tưởng để làm đúng công việc mà chúng ta muốn làm và đang làm. Đặc biệt thiền giúp điều chỉnh lại tình trạng mất cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh do quá trình sinh hoạt và làm việc căng thẳng gây ra.

Có nhiều phương pháp thiền khác nhau, nhưng tựu trung vẫn là giúp người luyện tập có thể tập trung chú ý vào một điểm ở trong hoặc ngoài cơ thể, vào một đề tài, một hình ảnh hoặc một câu "chú" nhất định nhằm đưa cơ thể tiến dần vào tình trạng nhập tĩnh khi tâm không còn bất cứ ý niệm nào.

CÁC BƯỚC THÔNG THƯỜNG CỦA MỘT LẦN NGỒI THIỀN

1. Chuẩn bị: Trước khi ngồi thiền, cần hoàn tất các công việc thường nhật trong ngày để tư tưởng khỏi vướng bận; Tắm rửa sạch sẽ, nới lỏng quần áo; Chọn một nơi yên tĩnh, thoáng mát, không có ruồi muỗi.

2. Tư thế: Có thể chọn tư thế ngồi xếp bằng thông thường, ngồi bán già hoặc ngồi kiết già. Lưng thẳng, cằm hơi đưa vào để cột sống được thẳng. Đầu lưỡi chạm nhẹ nướu răng trên. Hai bàn tay buông lỏng đặt trên hai đùi hoặc đan chéo nhau để trước bụng, miễn sao hai tay cảm thấy thoải mái, dễ giãn mềm cơ bắp là được.






Tư thế kiết già (thế hoa sen), đặc biệt thích hợp cho việc ngồi thiền: Ngồi xếp bằng tự nhiên, dùng hai bàn tay nắm bàn chân phải từ từ gấp chân lại và đặt bàn chân lên đùi trái, gót chân ép sát bụng, lòng bàn chân ngửa lên trời. Kế tiếp dùng hai bàn tay nắm bàn chân trái gấp lại, đặt bàn chân trái lên đùi phải, kéo nhẹ gót chân vào sát bụng, bàn chân ngửa lên trời.

Các đạo sư Yoga cho rằng vị thế khóa nhau của hai chân trong tư thế kiết già sẽ tạo sức ép lên hai luân xa ở dưới cùng của cơ thể, khiến dòng năng lượng có khuynh hướng đi lên để nuôi dưỡng các trung tâm lực dọc theo cột sống và kiểm soát toàn bộ hệ thần kinh.

Những thí nghiệm khoa học về Yoga cho thấy chỉ cần ngồi tư thế hoa sen, dù ta không cố gắng tập trung tư tưởng, vẫn có một sự thay đổi ở sóng não từ nhịp Beta khoảng 20 chu kỳ mỗi giây xuống nhịp Alpha khoảng 8 chu kỳ mỗi giây. Nhịp Alpha là tình trạng sóng não của một người đang trầm tĩnh và minh mẫn. Điều nầy có nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng làm êm dịu thần kinh chưa kể đến những cố gắng khác của việc ngồi thiền.

Kết quả trên cũng phù hợp với những lý luận của y học cổ truyền khi biết rằng ở thế kiết già, xương mác ở cẳng chân trái đã tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí huyệt Tam âm giao ở chân phải (huyệt Tam âm giao ở chỗ lõm bờ sau xương chày, trên mắt cá chân trong khoảng 6cm). Như vậy, trong suốt thời gian ngồi kiết già, huyệt Tam âm giao sẽ được kích thích liên tục. Tam âm giao là huyệt giao hội của 3 đường kinh âm: Tỳ, Can và Thận nên tác động kích thích này sẽ có tác dụng "thông khí trệ", "sơ tiết vùng hạ tiêu" và điều chỉnh những rối loạn nếu có ở những kinh và tạng có liên quan, đặc biệt là tác dụng "Dưỡng âm kiện Tỳ" và "Sơ Can ích Thận" mà các thầy thuốc châm cứu đều biết khi tác động vào huyệt này. Những người có dấu hiệu căng thẳng thần kinh, những bệnh nhân "Âm hư hỏa vượng" hay gặp các cơn bốc hỏa về chiều và những phụ nữ đang ở tuổi mãn kinh sẽ dễ dàng cảm nhận được hiệu quả khi ngồi vào thế kiết già.

3. Giảm các kích thích giác quan: Một trong những yếu tố quan trọng để dễ nhập tĩnh là không bị các kích thích bên ngoài quấy nhiễu. Người xưa gọi là "bế ngũ quan".

Trên thực tế, những quan sát qua điện não đồ cho thấy chỉ cần nhắm mắt để loại bỏ thị giác là đã giảm được 50% các kích thích từ bên ngoài. Do đó, nên nhắm mắt lúc ngồi thiền. Khi nhắm mắt chỉ cần khép hờ để bảo đảm không có sự căng cơ ở vùng mặt.

4. Giãn mềm cơ bắp: Ngày nay, khoa học đã biết rất rõ tác động qua lại giữa 2 yếu tố thần kinh và cơ. Khi thần kinh căng thẳng, trương lực cơ bắp cũng gia tăng. Ngược lại, nếu điều hòa trương lực cơ bắp ở mức thư giãn thì thần kinh cũng sẽ được ổn định. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này khi quan sát một người đang giận dữ. Khi tức giận, gân cổ nổi lên, cơ bắp căng cứng, bàn tay nắm chặt...; đó là lúc thần kinh quá căng thẳng. Ngược lại, hãy nhìn một người đang ngồi ngủ gật trên xe. Lúc người này thiếp đi là lúc thần kinh ở mức thư giãn, tâm không còn ghi nhận ý niệm gì cụ thể và cơ bắp cũng giãn mềm nên đầu dễ dàng ngoẹo sang một bên. Vì vậy, trong quá trình hành thiền, việc chủ động giãn mềm cơ bắp sẽ thúc đẩy nhanh quá trình thư giãn, nhập tĩnh.

Trên thực tế, chỉ cần quan tâm giãn mềm cơ mặt và cơ bàn tay là đủ. Điều này căn cứ vào hai quy luật: Thứ nhất, mặt và hai bàn tay là những vùng phản chiếu có các điểm tương ứng với toàn bộ cơ thể, do đó nếu thư giãn được vùng mặt hay hai bàn tay sẽ thư giãn được toàn thân. Thứ hai, theo học thuyết Paplop, khi tập trung gây ức chế thần kinh một vùng hoặc một điểm ở vỏ não (qua hiệu ứng thư giãn) thì sự ức chế này sẽ lan tỏa gây ức chế toàn bộ vỏ não.

5. Tập trung tâm ý: Đây là giai đoạn chính của buổi hành thiền. Như đã nói ở phần trên, thiền chính là sự tập trung tư tưởng vào một điểm hoặc một đề mục duy nhất để dần dần đạt đến tình trạng trống rỗng, không còn vướng mắc vào bất cứ một ý niệm nào. Để thư giãn thần kinh hoặc để chữa bệnh, chỉ cần duy trì tình trạng tập trung vào điểm hoặc vào đề mục tập trung trong một thời gian nhất định là đủ. Điều quan trọng là nên tập đều đặn hàng ngày, mỗi ngày một hoặc hai lần. Lúc đầu, ngồi khoảng 15 phút mỗi lần, dần dần tăng lên. Sau một thời gian, khi não bộ đã ghi nhận thói quen thiền thì việc ngồi vào tư thế, nhắm mắt, việc đầu lưỡi chạm nhẹ nướu răng trên hoặc ám thị giãn mềm cơ bắp sẽ hình thành nên những phản xạ có điều kiện để đưa người tập vào trạng thái thiền định.

Về điểm để tập trung tư tưởng, một vị trí ở vùng bụng dưới mà nhiều trường phái thường chọn làm điểm tập trung khi ngồi thiền là huyệt Đan điền, cách dưới rốn khoảng 3cm. Nên tập trung vào điểm này vì nhiều lẽ.

Theo y học cổ truyền, "thần đâu khí đó". Do đó, khi tập trung vào một điểm ở vùng dưới cơ thể thì khí và huyết sẽ lưu chuyển về phía dưới, làm nhẹ áp lực ở vùng đầu, dễ dẫn đến nhập tĩnh.

Đan điền còn gọi là Khí hải hay Khí huyệt, ngụ ý là nơi "luyện thuốc", là "bể chứa khí". Đan điền là một huyệt quan trọng trong việc luyện dưỡng sinh của các đạo sĩ, các nhà khí công. Có nhiều trường phái khác nhau và việc tu luyện rất phức tạp. Tuy nhiên, các công phu của đạo gia nói chung và việc phát sinh nội khí để chửa bệnh nói riêng đều dựa vào bí quyết "hồi quang nội thị" hoặc "ngưng thần nhập khí huyệt". Tâm không duyên ra ngoài, hướng đôi mắt vào trong gọi là hồi quang, tập trung thần vào bên trong cơ thể gọi là nội thị. Ngưng thần nhập khí huyệt chính là tập trung tâm ý tại Đan điền để phát sinh nội khí. Lâu dần chân khí được sung mãn sẽ khai thông các kinh lạc bế tắt hoặc bồi bổ cho ngủ tạng để tăng cường sức khoẻ.

Một số người tâm dễ xao động có thể cần một phương pháp kiểm soát tâm chặt chẽ hơn. Trường hợp này, nên kết hợp quan sát hơi thở với việc tập trung tại Đan điền bằng cách quan sát sự phồng lên và xẹp xuống tại bụng dưới. Lúc hít vào bụng dưới hơi phồng lên, lúc thở ra bụng dưới hơi xẹp xuống. Chỉ cần thở bình thường. Không cần quan tâm đến thở sâu hay thở cạn, đều hay không đều. Điều quan trọng ở đây là tập trung quan sát để biết rõ ta đang hít vào hay đang thở ra thông qua chuyển động phồng lên hay xẹp xuống ở bụng dưới. Sở dĩ chọn quan sát hơi thở ở bụng dưới mà không phải ở đầu mũi hoặc ở ngực là nhằm tạo quán tính thở sâu kết hợp với việc phát sinh nội khí ở Đan điền như đã dẫn ở phần trên. Thỉnh thoảng sẽ có những lúc tâm bị phân tán, các tạp niệm xen vào. Điều này là bình thường. Chỉ cần khi nhớ ra hãy tập trung trở lại Đan điền hoặc tiếp tục quan sát hơi thở vào ra là đủ. Lâu dần, những tạp niệm sẽ bớt đi, thời gian tập trung sẽ dài hơn, hơi thở sẽ đều, chậm và nhẹ hơn, cho đến lúc không còn ý niệm và quên luôn cả hơi thở. Nếu thường xuyên đạt đến tình trạng này, có nghĩa người tập đã tiến được một bước rất dài. Không chỉ là không bệnh tật mà còn là sự tự tin, cảm thông và hoà hợp để dần dần đạt đến điều mà người xưa gọi là thiên nhân hợp nhất.

6. Xả thiền: Sau khi ngồi thiền, trước khi đứng dậy cần làm một số động tác để cơ thể hết tê mỏi và khí huyết lưu thông bình thường. Từ từ buông thõng hai chân, xoay người qua lại nhiều lần, xoay ở vùng hông và vùng cổ. Dùng hai tay vuốt nhẹ hai bên sóng mũi từ đầu mũi xuống chót cằm, vuốt ấm vành tai. Xoa hai lòng bàn tay vào nhau cho ấm rồi áp vào mắt. Dùng hai bàn tay xoa bóp dọc theo hai chân, từ đùi dài xuống bàn chân. Xoa ấm hai lòng bàn chân.

Việc xả thiền tùy thuộc vào mỗi buổi thiền. Nếu chỉ thiền khoảng 15 phút hoặc khi có công việc cần đứng lên gấp thì chỉ cần co duỗi hai chân và xoay người, hoặc lắc cổ qua lại nhiều lần là đủ.

NGỒI THIỀN CÓ GÂY NGUY HIỂM GÌ KHÔNG?

Một vấn đề cuối cùng mà những người mới tập thiền thường thắc mắc là liệu ngồi thiền có gây nguy hiểm gì không? Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào phương pháp và động cơ của việc ngồi thiền. Một số phương pháp thiền có phối hợp với vận khí hoặc có sự hỗ trợ khai mở một số trung tâm lực trong cơ thể nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sinh khí và gia tăng nội lực. Các phương pháp này có thể gây những nguy hiểm đi kèm nếu người tập thiếu những kiến thức về khí công, về y học truyền thống hoặc không có đạo sư hướng dẫn để vận dụng và kiểm soát kịp thời nguồn năng lực mới phát sinh. Trái lại, nếu ngồi thiền để đạt đến sự tĩnh lặng trong tâm trí, để thư giãn thần kinh và tăng cường sức khỏe, không vận khí, không bám víu vào bất cứ ảo giác, âm thanh hoặc hình ảnh nào thì không có gì nguy hiểm./.

01/04/2015

Dụng cụ làm đồ da


Đây là loạt bài [Học làm đồ da] dành cho các bạn đam mê đồ da, muốn bắt đầu, muốn làm đồ da, làm một thứ gì đó bằng da cho mình, cho bạn bè hoặc có thể sau này là bán.

Hy vọng loạt bài hướng dẫn này sẽ giúp được cho các bạn, những người giống như tớ cách đây nửa năm, muốn làm đồ da, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Sẽ giúp cho các bạn đỡ công tự mày mò (mặc dù MÀY MÒ luôn rất cần thiết, để có những kinh nghiệm riêng cho mình, nhưng đã nói rất rõ: đỡ công, bởi vì hay nhất là ta được tiếp thu những kinh nghiệm rồi chọn lọc, học hỏi từ đó, thay cho cứ trải nghiệm để có kinh nghiệm, tốn thời gian 
Biểu tượng cảm xúc smile
Hồi bắt đầu làm, suy nghĩ của tớ vô cùng đơn giản: cắt, đục lỗ, ráp và khâu. Dụng cụ thì: 1 cái dao rọc giấy, 1 cái kéo, 1 cái đục, 2 miếng gỗ (1 to để kê da lên để đục, 1 nhỏ để đập), da và chỉ thì tất nhiên rồi. Xong tớ hay nghĩ: mình đang bắt đầu làm y những công đoạn mà cách đây cả nghìn năm người ta đã làm, như vậy ta đã phát triển thế nào so với cách đây cả nghìn năm? Câu trả lời có lẽ là ở tư duy, tư duy ở thời đại này sẽ giúp ta tiếp thu và thực hiện mọi thứ nhanh và tốt hơn (à, liên quan đến tư duy thì còn là tư chất của mỗi người nữa (!?)).
Hồi bắt đầu làm, cho đến cách đây cỡ 2 tháng (khi Hanoi Craft bắt đầu đi vào hoạt động chính thức), thực ra tớ cũng hoàn toàn không biết 1 anh, 1 chị, 1 bạn nào làm đồ da cả. Mọi kiến thức về làm da cũng gần như bằng 0. Chỉ đến khi ở Hà Nội và Hanoi Craft hoạt động chính thức thì tớ mới lao đầu vào những nguồn hướng dẫn làm đồ da, rồi quen thêm bạn bè cũng làm đồ da, học thêm được rất nhiều điều.
Và các bước chính của làm da vào thời điểm này của tớ cơ bản vẫn y như thế: cắt, đục, ráp, khâu (sẽ hướng dẫn kỹ hơn trong phần sau). Tuy nhiên dụng cụ thì đã được bổ sung thêm nhiều. Hãy bắt đầu từ dụng cụ làm đồ da nhé!
P/s 1: Tớ không dám múa rìu qua mắt thợ, tớ chỉ chia sẻ những gì mình biết, học được. Có gì thiết sót, mong các bạn bỏ qua, nhất là mong các cao thủ góp ý (thay vì góp đá) giúp em và mọi người hoàn thiện.
P/s 2: Thứ tự các dụng cụ trong mỗi ảnh sẽ được đọc theo chiều từ trái qua phải và trên xuống nhé!
Link album hướng dẫn https://www.facebook.com/media/set/…
#1 - ĐỤC
Theo thứ tự là đục lỗ tròn, lỗ quả trám và lỗ dẹt. (Có nhiều người chia thành đục và đột, đột tạo lỗ bằng cách lấy đi 1 phần da, còn đục thì tạo lỗ bằng cách làm rách 1 phần da. Tớ thì gọi tất là đục cho đơn giản!).
1) Đục lỗ tròn:
Có nhiều cỡ (đường kính lỗ) từ 0,5mm, 1mm, 1,5mm cho đến 15cm, hoặc hơn nữa. Tùy thuộc vào yêu cầu mà sử dụng đục nào cho hợp lý. Đục cơ bản làm túi ví cho đường chỉ khâu thì chỉ dùng loại 0,5mm - 1mm (là nhiều nhất). Cỡ lớn hơn để đục lỗ khâu dây da, lỗ để bấm khuy, hay để cắt cong bán nguyệt cho ngăn đựng thẻ ATM trên ví...
Dùng đục tròn đục lỗ khâu sản phẩm, nhất là ba-lô, túi xách to thì cực thôi rồi, Đục hết hơi, từng lỗ một. Cũng có loại gắn mấy đầu, 1 lúc đục được 4 5 lỗ liền, nhưng ít người dùng. Tớ cũng dùng 1 thời gian rồi thôi, vì sau 1 thời gian lỗ đục ra không đều.
2) Đục lỗ dẹt:
Có 3 loại (trong hình thiếu 1 loại) là lỗ quả trám (<> <> <> <>), lỗ dẹt dọc (- - - -) và lỗ dẹt xéo (/ / / /). Một bộ thường gồm có cây 1 răng, 2 răng, 4 răng, 6 răng và 9 răng.
Dùng đục này thì thích, đục đường thẳng, 1 lần được mấy lỗ, đỡ công. Nhưng khi khâu thì khó hơn khâu trên lỗ tròn (khó để đường nó đều hơn, các bạn cứ thử đi rồi biết).
3) Lựa chọn dùng đục nào:
- Ít tiền và nhiều sức thì dùng đục tròn. Vì đục tròn rẻ, dễ kiếm ở Việt Nam. Giá cỡ chục nghìn đến 80 nghìn là cao nhất (cái đục đường kính 5cm).
- Nhiều tiền và ít sức thì dùng đục dẹt. Vì đục dẹt đắt, toàn phải nhập về. Từ Mỹ thì mấy triệu 1 bộ, từ TQ về thì rẻ hơn 1 chút (mấy trăm nghìn).
- Cả ít lẫn nhiều tiền, ít lẫn nhiều sức: chọn dùng đục nào phụ thuộc vào gu, thói quen khâu, yêu cầu sản phẩm. Thế thôi!
#2 - THƯỚC & BẢNG CẮT
1) Thước:
- Thước thẳng inox: bền, không biến dạng sau một thời gian sử dụng như thước nựa.
- Thước nhựa: có lợi thế vì trong, nhìn qua được, tuy nhiên không bền, dùng mau bị mẻ.
- Ê-ke và thước vuông inox: dùng để căn, kẻ và cắt cho vuông góc. Chỉ cần 1 trong 2. Và hoàn toàn không cần cả 2 nếu như có bảng cắt.
- Bảng cắt: giúp bảo vệ dao cắt, cắt da thẳng và nhanh hơn. Có các kích thước A4, A3, A2 và A1. Nên có bảng cắt thay vì cắt trên nền gạch.
#3 - DỤNG CỤ CẮT, GỌT
1) Kéo cắt da: tớ đã dùng nhiều kéo để cắt da, đến cái kéo như trong hình thì mới ưng ý. Lưỡi kéo sắc, 2 lưỡi khít vào nhau và tay cầm vừa. Cắt da rất ngọt. Lời khuyên: nên chọn loại như của tớ.
2) Kéo cắt chỉ: như trong hình, mấy chỗ bán phụ kiện may hay tạp hóa đều bán cả. Giá khoảng 5K.
3) Dao dọc giấy (để cắt da): con dao tớ dùng khá nhỏ, nhưng có võ (vỏ inox, bền và chắc).
4) Dao cắt lưỡi tròn (rottery cutter - không có trong hình): dùng để cắt đường thẳng dài (làm thắt lưng, ba-lô...).
5) Dao xắt da (2 cái ngoài cùng bên phải, 1 của VN, 1 của Nhật): dùng để xắt những phần da ngắn (rất khó để cắt 1 đường dài) và lạng mỏng mép da (kỹ thuật khó nhất khi dùng dao này).
6) Dụng cụ lạng mỏng mép da (không có trong hình): dùng để lạng mỏng mép da, giúp khi ghép 2 miếng da vào mép mỏng hơn, nhìn tinh tế hơn.
#4 - DỤNG CỤ LẤY DẤU & TẠO RÃNH
1) Dụng cụ lấy dấu (dụng cụ số 1): lăn trên da để lấy dấu rồi đục (dùng đục tròn).
2) Dụng cụ tạo rãnh: tạo rãnh theo mép sản phẩm, thay cho cây lấy dấu hoặc dùng bút bạc kẻ đưởng thẳng. Ngoài ra giúp đường chỉ nằm ngang với mặt da, trông nhẹ nhàng và tinh tế hơn.
- Dụng cụ số 2: có 3 chức năng (tạo rãnh, lấy dấu, cắt mép da). Chức năng nào cũng cần thiết để hoàn thiện sản phẩm.
- Dụng cụ số 3: giống cái compa, có ren để chính khoảng cách của 2 chân.
#5 - BÚT
1) Bút xóa vết bút bạc, hàng Tàu, chưa biết ở chỗ nào VN sản xuất cái bút này.
2) Bút bạc viết, vẽ lên da (hàng Việt Nam sản xuất). Dùng để kẻ đường theo mép da, chấm lỗ để đục (khi không có hoặc không muốn dùng nhóm dụng cụ #4).
Vết bút bạc có thể xóa được bằng... bút xóa vết bút bạc. Tuy nhiên, nên thử trên 1 mẩu da bỏ đi trước khi vẽ lên tấm da, vì nhiều miếng da bị vàng vết bút xóa (cây số 1) sau khi xóa vết bút bạc đi (kinh nghiệm xương máu, tớ đã dính 1 lần).
3) Bút máy, loại nét thanh nét đậm: dùng để viết name card và thiệp cho khách hàng. Dụng cụ này không nhất thiết phải có (phụ thuộc và phong cách của bạn).
#6 - DỤNG CỤ BẰNG GỖ
1) Búa gỗ: dùng để đập lên cái đục giúp tạo ra lỗ trên mặt da 
Biểu tượng cảm xúc pacman
Có thể thay thế cây búa này bằng búa nhựa (không phải cao su) hoặc sắt (không nên lắm!). Búa nhựa sẽ ít tạo tiếng ồn khi đục hơn. Ngoài ra nên sắm thêm 1 cây búa cao su để đập cho chỉ xẹp xuống khi khâu xong.
2) Cây mài cạnh da: có rãnh các cỡ để mài cạnh da, giúp cạnh da bóng và đẹp. Phần đầu dạng nón dùng để phết đều CMC lên da và luồn vào mặt trong của túi, ví tách 2 miếng da bị dính vào nhau bởi keo.
#7.1 - DỤNG CỤ KHẮC LÊN DA (CARVING)
Là các cây thép có các họa tiết ở đầu. Sử dụng với da mộc là chính (da thô, dày, chưa sơn, sau khi carving xong, khâu sản phẩm xong thì mới được sơn lên). Sản phẩm đẹp xấu sau khi carving phụ thuộc vào tài hoa của người carving, không phụ thuộc vào dụng cụ lắm!
#7.2 - DAO KHẮC LÊN DA (CARVING)
Dùng để tạo nét chính cho 1 tác phẩm carving trước khi dùng các cây carving để hoàn thiện bức tranh trên da.
#8 - DỤNG CỤ ĐÓNG ĐINH TÁN & NÚT BẤM
Chức năng như tên gọi. Hướng dẫn sử dụng thì cứ làm vài lần là biết.
#9 - KEO DÁN
Keo dán được sử dụng để dán, cố định các miếng da lại với nhau, trước khi đục và khâu. Tuy nhiên tùy trường hợp mà nên dán trước hay sau khi khâu. Tùy phong cách mà có dán hay không 
Biểu tượng cảm xúc pacman
Keo dán tốt nhất và rẻ nhất là X-66 (keo con chó). Ngoài ra cũng có keo chuyên để dán da. Tuy nhiên khá đắt.
Lọ ngoài cùng bên phải là dung dịch pha loãng X-66 khi nó bị đặc lại quá.
* Lưu ý: nên đeo khẩu trang khi phết keo, kẻo hít nhiều keo con chó quá, tăng động.
* Nên: mua cả hộp X-66 to, tiết kiệm hơn mua hộp nhỏ.
#10 - CHỈ KHÂU DA
- Chỉ tròn: Dùng khâu đường thằng liền mạch, tạo cảm giác thẳng thớm, nghiêm túc cho sản phẩm.
- Chỉ dẹt: Dùng khâu đường vắt chéo, vắt ngang, vắt dọc, tạo cảm giác trẻ trung và cá tính hơn cho sản phẩm.
Ngoài ra tớ phân loại chỉ theo chất liệu. Theo cách phân loại của tớ thì có 2 loại là chỉ tổng hợp (sợi nilon) và chỉ tự nhiên (sợi gai). Chỉ tự nhiên lên đẹp và bụi bặm hơn, nhưng giấu mối vất vả. Chỉ tổng hợp do đốt cháy như nhựa nên giấu mối dễ hơn (chỉ việc đốt, chấm cho đầu chỉ dính vào lỗ).
Tuy nhiên dùng chỉ loại tròn hay dẹt, màu gì và chất liệu gì cũng phụ thuộc vào mỗi người. Chả ai bắt ai được.
#11 - DỤNG CỤ BỔ TRỢ
1) Diêm, bật lửa (quẹt): dùng để đốt đầu chỉ tổng hợp. Ngoài ra dùng để đốt xem... da có phải da thật hay không.
2) Kẹp: dùng để kẹp giữ các miếng da lại khi khâu.
3) Lọ keo dán giấy: để dán giấy bọc sản phẩm của tớ.

31/03/2015

7 Luân Xa trên cơ thể

Các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu. Mỗi Luân xa liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, tâm linh, phong thủy

Tìm hiểu về 7 Luân Xa trên cơ thể

   7 Luân xa hay còn gọi là chakra

   Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người. và hoàn toàn là có thật
   Chúng được xem là các điểm chứa năng lượng sống, mỗi Luân Xa thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác.
Như đã nói, toàn thân mỗi người đều có 7 vùng Luân xa năng lực; người Tây Tạng gọi đó là những điểm xoáy “Chakra”, trong khi người Hindu (Ấn Độ) gọi là “Luân Xa”.
   Có 7 luân xa căn bản và 21 trung tâm nhỏ hơn. 7 vùng Luân xa này có chứa năng lượng hào quang khu trú tại nhiều phần khác nhau trên cơ thể, đều có gốc là cột sống lưng, trừ luân xa xương trán ở trên đỉnh đầu (não bộ).
   Tuy chúng ta không thể thấy, nhưng 7 vùng luân xa này là những điện trường cực mạnh và hoàn toàn có thực (nên những người có nhân điện cao luôn làm chủ được Luân xa thứ 7). Mỗi luân xa tập trung vào một trong số 7 tuyến nội tiết của cơ thể và nhiệm vụ của nó là kích thích sự sản xuất hóc-môn. Chính những hóc-môn này điều hành toàn bộ các chức năng của các cơ quan nội tạng trong người, nên nó mang cả tiến trình cho chúng ta sự sống và cái chết qua các giai đoạn “sinh bệnh lão tử”, vì thế theo thời gian chúng sẽ lão hóa dần đi tương ứng với tuổi thọ con người.


Muladhara (Luân Xa Số 1) vùng sinh dục

   Muladhara hay là luân xa gốc liên quan đến bản năng, sự an toàn, sự sống còn và các tiềm năng cơ sở của con người. Trung tâm này nằm ở vùng giữa cơ quan sinh dục và hậu môn. Mặc dù không có cơ quan nội tiết nào nằm ở nơi đây, nó được nói là liên quan đến tuyến thượng thận ở bên trong (inner adrenal glands), gọi là adrenal medulla, chịu trách nhiệm chống trả khi sự sinh tồn bị đe dọa. Trong khu vực này có một cơ điều khiển việc xuất tinh. Một sự song song được đưa ra giữa các tế bào tinh trùng và tế bào trứng, nơi mã di truyền nằm cuộn xoắn lại, và là nơi chứa kundalini. Ký hiệu bằng hoa sen với 4 cánh. Màu: Đỏ
   Theo các thánh thư, Luân xa 1 được xuất phát từ “Bà mẹ vũ trụ”. Tuy nhiên năng lực từ vùng này có thể làm tổn thương cột sống.

   Luân xa 1 tạo thành nền tảng cho sự sống tức cơ quan sinh dục, nếu Luân xa 1 hoạt động yếu, lập tức con người trở nên trầm uất, bạc nhược và có thể dẫn đến tình trạng ngất xỉu hôn mê.
   Nhờ tính chất năng động, Luân xa 1 tạo ra khả năng thấy rõ quá khứ và vị lai.


Swadhisthana (Luân Xa Số 2) Vùng bụng dưới

   Swadhisthana hay là luân xa xương cùng được xem là ở vùng háng, và liên qua đến các tình cảm cơ bản, tình dục và sự sáng tạo. Luân xa này được nói là tương ứng với tinh hoàn hay buồng trứng, sản xuất ra nhiều loại nội tiết tố tình dục khác nhau có trong chu kì sinh sản, có thể tạo ra những đảo lộn tâm trạng đáng kể. Hình tượng hóa bởi một hoa sen với 6 cánh. Màu: Da cam 
   Đây là Luân xa rất mạnh vì có thể kiểm soát được đời sống sinh dục từ Luân xa 1. Tuyến thượng thận (Luân xa 3) có liên hệ với vùng này, rất cần thiết cho sự sống, nên nếu ta cắt bỏ tuyến thượng thận, con người sẽ chết ngay.

   Về mặt chiêm tinh học, Luân xa 2 có liên hệ với mặt trăng, nó thu nhận năng lượng của mặt trời và trung tâm trái đất rồi chuyển hoá thành thể khí chất cho chúng ta.
   Người khoẻ mạnh sẽ chống lại các ảo tưởng, sự ghê tởm, xa xỉ, nghi ngờ, lãnh đạm và thường phát triển lòng thương yêu tất cả mọi sinh vật.

7 Luân Xa

Manipura (Luân Xa Số 3) vùng thượng thận

   Manipura hay là luân xa búi mặt trời có liên quan đến sự chuyển đổi từ nền đến các tình cảm cao hơn, năng lượng, sự tiêu hóa và đồng hóa, và được cho là liên quan đến vai trò của tuyến tụy (pancreas) và các tuyến thượng thận nằm phía bên ngoài (adrenal glands), và vỏ thận. Những tuyến này đóng những vai trò quan trọng trong sự tiêu hóa, sự chuyển đổi từ thức ăn thành năng lượng cho cơ thể. Được hình tượng hóa bởi một hoa sen với 10 cánh. Màu: Vàng 
   Đặc tính của Luân xa 3 là sức nóng vì vậy nó tượng trưng cho Lửa, còn được gọi là nơi ” tổng hợp”, do tập trung tất cả các năng lượng bên dưới trước khi được đưa lên các phần bên trên của cơ thể.

   Trong khoa chiêm tinh, Luân xa 3 tương ứng với sao Hoả và cho chúng ta thấy nó cộng hưởng với đời sống cảm xúc. Cho nên các tu sĩ theo “sa man giáo” có thể đi chân đất trên đám lửa hồng mà không cảm thấy đau đớn hoặc bị bỏng là vậy.
   Muốn làm chủ được vùng trung tâm dương, con người phải thanh tẩy thói hư tật xấu, cương quyết chống lại mọi sự quyến rũ, kiêu căng, giận dữ, biếng nhác và sợ hãi.


Anahata (Luân Xa Số 4) vùng ngực

   Anahata hay là luân xa tim liên quan đến những tình cảm cao hơn, lòng từ bi, tình yêu, sự cân bằng, và tình trạng hạnh phúc. Nó liên quan đến thymus, nằm trong ngực. Cơ quan này là một phần của hệ miễn dịch, cũng như là một phần của hệ nội tiết. Nó sản xuất ra những tế bào T chịu trách nhiệm đánh trả bệnh tật, và bị ảnh hưởng xấu bởi tâm trạng căng thẳng. Được hình tượng hóa bởi một hoa sen với 12 cánh. Màu: Xanh lá cây
   Luân xa 4 cho người chúng ta khả năng đọc được tâm tư nguyện vọng của người khác, đồng thời cũng biết rõ ham muốn và khả năng thực hiện ham muốn đó của chính mình. Trong quá trình thanh lọc tính vị kỷ, kiêu căng, tham lam, do dự và phát triển tình thân ái, vị tha, Luân xa 4 sẽ hoạt động tốt làm cho người tập luyện có được biệt tài chữa lành bệnh cho người khác, nhưng phải đạt trình độ “rung động siêu thức” mới làm được.

   Luân xa 4 nhận được từ vũ trụ tia sáng màu Xanh lá cây đem năng lượng và sự nhịp nhàng đến cho quả tim hoạt động.Tia sáng màu xanh lá cây này làm quay Luân xa tim, đem máu đi nuôi khắp cơ thể.
   Trong khoa chiêm tinh, Luân xa 4 tương ứng với sao Thuỷ, được kết hợp với không khí, thuộc về trực giác tâm linh.


Luân Xa Là Gì

Vishuddha (Luân Xa Số 5) vùng cổ

   Vishuddha hay là luân xa cuống họng được nói là liên quan đến sự truyền đạt thông tin và sự phát triển, và của việc diễn đạt ý tưởng. Luân xa này song song với tuyến giáp (thyroid), một tuyến cũng nằm trong cuống họng, sản xuất nội tiết tố (hormone) điều khiển sự lớn lên và trưởng thành của cơ thể (thyroid hormone). Hình tượng hóa bằng một hoa sen có mười sáu cánh. Màu: Xanh da trời.
   Luân xa 5 ở tại vùng họng, đằng sau cổ, tượng trưng cho ý thức sáng tạo. Đây là điểm quan trọng nhất của thanh quản. Khi một người muốn diễn tả một điều bằng tư tưởng, lời nói hoặc hành động, phải đi qua trung tâm hầu họng. Thái độ chỉ trích hận thù, kết án, nói xấu người khác là nguyên nhân sinh ra bệnh tật đều nằm ở Luân xa 5.

   Luân xa 5 tương ứng với sao Thổ và đại diện cho thể khí quang của vũ trụ (tiếng phạn Akasha). Khi Luân xa này Rung động sẽ đạt đến trạng thái siêu thức, người tập luyện có khả năng nghe được các giọng nói, hơi thở và cả tiếng nhạc từ xa vọng đến. Và khi Luân xa này phát triển hoàn toàn, sẽ cho chúng ta nhớ lại tiền kiếp, biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai của chính mình và người khác.

Ajna (Luân Xa Số 6)  nằm giữa hai chân mày và đáy sống mũi

   Ajna hay là con mắt thứ ba, luân xa giữa hai chân mày được nối với tuyến tùng (pineal gland). Ajna là luân xa của thời gian và nhận thức về ánh sáng. Tuyến tùng là một tuyến rất nhạy với ánh sáng, sản sinh ra nội tiết tố (hormone) melatonin, điều khiển các bản năng ngủ là thức tỉnh. Nó cũng được phỏng đoán là cũng sản xuất một lượng nhỏ hóa chất tạo cảm giác lâng lâng là dimethyltryptamine. Hình tượng hóa bởi một hoa sen hai cánh. Màu sắc: chàm (xanh đậm).
   Luân xa 6 ở tại gốc mũi, giữa hai mắt và lông mày, báo cho chúng ta biết hai trung tâm trên cùng này hoàn toàn khác với các trung tâm mà chúng ta đã nghiên cứu trên đây. Chủ yếu giúp con người phát triển về mặt tinh thần. Chức năng chính của Luân xa 6 liên quan đến việc phát triển nhân cách thực sự của mỗi con người.

   Trong trường hợp người đó không tự phát triển được nhân cách của mình, thì họ tìm cách bắt chước nhân cách của người khác, thậm chí ngay cả đến tư tưởng, lý tưởng và điệu bộ bên ngoài nữa. Một người như thế rất dễ bị ảnh hưởng từ môi trường xã hội chung quanh, sẽ tạo cơ hội thể hiện đời sống của mình theo những hiện tượng thấy từ bên ngoài, từ đó nảy sinh vấn đề tôn sùng thần tượng, chứng tỏ rằng trung tâm trán của người đó không hoạt động hoặc hoạt động rất ít.
   Khi Luân xa 6 bắt đầu đạt đến trạng thái “rung động siêu thức”, người ta nhận thấy có những biến đổi sâu sắc trong tư duy và hành động. Một đôi khi sự phát triển của Luân xa 6 đem đến một số biểu hiện mới tạo ra rối loạn chẳng hạn như nhức đầu, rối loạn về tai, mắt. Vì đừng quên rằng Luân xa 6 là trung tâm thiên nhãn cho thấy rõ mọi vấn đề. Não và nhất là trán có thể bị nhiễu loạn vì luân xa trán hoạt động mạnh quá.
   Luân xa 6 tương ứng với sao Kim nằm ở đáy não, dưới tầng não thứ ba, nhằm mục đích tái sinh các mô và tế bào đã hao mòn, đồng thời giữ cho cơ thể luôn ở trạng thái hài hoà.
   Một khi Luân xa 6 đạt được trạng thái vô thức, con người có khả năng thấy rõ mọi sự, mọi vật, mọi người khác và có thể xoá bỏ nghiệp chướng mắc phải do lỗi lầm của mình. Đồng thời cũng cần biết rõ là có nhiều nguy hiểm đang chờ (giác quan thứ sáu).


Luân Xa

Sahasrara (Luân Xa Số 7) (Cao nhất, tập trung tại tuyến yên, nơi đáy trước của não.)

   Sahasrara hay là luân xa vương miện được cho là luân xa của nhận thức, luân xa chủ lực điều khiển tất cả các luân xa khác. Vai trò của nó giống như vai trò của tuyến yên (pituitary gland), tiết ra các nội tiết tố (hormone) để điều khiển phần còn lại của hệ thống các tuyến nội tiết, và cũng nối với hệ thần kinh trung ương thông qua vùng não điều khiển thân nhiệt, đói, khát,...(hypothalamus). Vùng não này (thalamus) được cho là có một vai trò quan trọng trong cơ sở vật lý của nhận thức. Hình tượng hóa bằng hoa sen với ngàn cánh. Màu sắc: Tím hoặc Trắng bạc.
   Luân xa 7 nằm trên đỉnh sọ, tượng trưng cho cái thóp của thể khí quang (não hào quang). Nó giống như mặt trời toả ra hàng ngàn tia lửa lấp lánh ánh vàng. Đây là trung tâm lớn nhất và toả sáng nhiều nhất gồm 12 cánh hoa lớn màu trắng ánh vàng kim và 960 cánh hoa nhỏ hơn bao bọc chung quanh. Mỗi khi con người đạt đến cảnh giới của sự “rung động siêu thức”, Luân xa 7 trở nên hoạt động mạnh và bấy giờ chúng ta có thể thông suốt mọi điều. Với đặc tính năng động, Luân xa 7 ban cho con nguời thực hành khả năng kích động tất cả các huyệt Luân xa khác cũng như mọi quyền lực tinh thần.

   Luân xa 7 là trạm cuối cùng, là trình độ tâm thức cao nhất, luôn là biểu tượng của quyền năng của con người trong thế giới siêu nhiên.
   Về mặt chiêm tinh học, sao Thổ ngự trị luân xa này. Đây cũng là trung tâm ý chí của tinh thần. Cũng nên biết thêm rằng, đây là nơi giúp cho con người trực tiếp gặp gỡ các linh hồn, và còn giữ vai trò khá quan trọng trong thần giao cách cảm.


   Tuy nhiên việc "mở" được  các luân xa , hay nói cách khác là có thể cảm nhận và điều khiển chúng là một điều vô cùng khó . Phải trải qua quá trình luyện tập lâu dài hoặc thân thể bẩm sinh . Bạn nên tìm người có kinh nghiệm để  tham khảo thêm trước khi có ý định nghiên cứu vấn đề này