Nguyễn Đình Đầu
Nguyễn Đình Đầu
Phần I: Thời Kỳ dựng nước
1. HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC GỌI LÀ VĂN LANG, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG CHÂU, CHIA NƯỚC THÀNH 15 BỘ:
“Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu la XÍCH QUỶ”’1‘. Nước Xích Quỷ bắc giáp hồ Động Đình, đông giáp biển Nam Hải, nam giáp nuớc Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục.
“Vua đầu của họ Hồng Bàng là Kinh Dương Vương, tương truyền là vị vua trước tiên của nước ta, sinh ra Lạc Long Quân… Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra được một trăm người con trai: đó là tổ tiên của Bách Việt, tôn con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi dựng nước gọi là VĂN LANG, đóng đô ở Phong Châu, truyền nhau được mười tám đbi, đều gọi là Hùng Vương”[1]. (Bản đồ 1)
“Khởi đầu chia nước ra mười lăm bộ là[3]:
- Giao Chỉ (sau là Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, Hưng Yên)ễ
- Chu Diên (sau là Sơn Tây).
- Phúc Lộc (sau cũng là Sơn Tây).
- Vũ Ninh (sau là Bắc Ninh).
- Việt Thường (sau là Thuận Hóa, Quảng Nam).
- Ninh Hải (sau là Quảng Yên).
- Dương Tuyền (sau là Hải Duơng).
- Lục Hải (sau là Lạng Sơn).
- Vũ Định (sau là Thái Nguyên, Cao Bằng).
- Hoài Hoan (sau là Nghệ An).
- Cửu Chân (sau là Thanh Hóa).
- Bình Văn (chưa biết ở đâu).
- Tân Hưng (sau là Hưng Hóa, Tuyên Quang).
- Cửu Đức (sau là Hà Tĩnh).
- Văn Lang (là nơi vua đóng đô, tức Phong Châu, sau thuộc hai tỉnh Vĩnh Tưòng và Lâm Thao của tỉnh Sơn Tây).
Nước VĂN LANG gồm mười lăm bộ, ‘ đông giáp Nam Hải, tây liền Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam tiếp nước Hồ Tôn”[4].
Nam Hải tức biển Đông, Hồ Tôn sau là Chiêm Thành. Nước Văn Lang “đông giáp Nam Hải”, “nam tiếp nước Hồ Tôn” là đúng, nhưng “bắc đến hồ Động Đình” và “tây liền Ba Thục” thì sai. Địa bàn đó là quá rộng lớn, bao gồm khắp vùng Hoa Nam, là nơi cư trú của tất cả các dân tộc Bách Việt chứ không phải của riêng người Lạc Việt. Người Lạc Việt cũng chưa bao giờ thống lãnh toàn thể các dân tộc Bách Việt, vả lại, vị trí của 15 bộ đều tập trung ở bắc phần Việt Nam nay.
Sử thần Nguyễn triều đã cẩn án: “Sử cũ chép nước Văn Lang phía tây tiếp Ba Thục, phía bắc đến Động Đình, chẳng là quá sự thật lắm ru?”[5]. Chính Tự Đức cũng đã phê: “Quảng Tây cùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Vân Nam và Tứ Xuyên gần nhau, tức là đất Sở và Thục xưa. Làm sao biết đuợc tới đó? (an tri kỳ sở giới hà như?)a). Ngay như tên 15 bộ cũng có ba danh sách khác nhau và bị Lê Quý Đôn đặt nghi vấn hết: “Tôi ngờ rằng, những tên đó là do các hậu Nho góp nhặt vay mượn chép ra”[6].
Dân số” cuối thời Văn Lang, ở niên đại 3000 trước Công nguyên, có khoảng 500.000 người.
Từ vài chục năm nay, ngành khảo cổ học đã phát hiện ra quá trình liên tục của nền văn minh sông Hồng (hay còn gọi là văn minh Văn Lang, văn minh Đông Sơn)[7]. Quá trình này đuợc giải thích khá rõ: “Văn hóa Đông Sơn không còn là một hiện tượng đột ngột, gián đoạn, mà là kết quả tất nhiên của một quá trình phát triển liên tục từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt. Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gồ Mun là ba giai đoạn phát triển tiền Đông Sơn tiêu biểu cho dòng chủ lưu của vùng trung du và vùng cao châu thổ sông Hồng vốn được coi là “Đất tổ” của các vua Hùng, là trung tâm của nước Văn Lang”(4). Đó là “một quá trình hình thành tại chỗ nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn”. “Quá trình hình thành và phát triển của nền văn minh sông Hồng gắn liền với quá trình liên kết các địa phương thành lãnh thổ Văn Lang, quá trình đấu tranh và dung hợp các bộ lạc, các nhóm dân cư lại thành cộng đồng cư dân Văn Lang, chủ nhân của nền văn minh ấy”[8]. (Bản đồ 2)
Cho nên, tuy vẫn cần tìm hiểu thêm về thời điểm xuất hiện và danh xưng họ Hồng Bàng, về Hùng Vương hay Lạc Vương, về tên gọi các bộ lạc, v.v…, ta đã có thể khẳng định là “nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn” đã ghi dấu giai đoạn hình thành “quốc gia” của 15 bộ tộc Lạc Việt liên kết với nhau dưới quyền một “trưởng thượng” chung. Hình thức quốc gia đó còn sơ sài và lỏng lẻo, nhưng “đồng bào” đã biết khai thác thủy triều lên xuống mà làm ruộng lạc và sống theo những “phong tục thuần hậu, chất phác”.
Những người chép sử xưa thường lẫn nước Văn Lang với nước Xích Quỷ. Theo tục truyền thì “Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nuớc Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp hồ Động Đình, phía nam giáp nuớc Hồ Tôn, phía tây giáp Ba Thục, phía đông giáp bể Nam Hải… về sau, nuớc Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt… Đấy cũng là một điều nói phỏng, chứ không có lấy gì làm đích xác được”[9]. “Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất” (2879 trước CN), mà sử ta cũng lấy năm Nhâm Tuất là đầu đời Hồng Bàng và nuớc
Văn Lang, nên cũng không cần nghiên cứu thêm về địa bàn nước Xích Quỷ nữa. vả lại chưa chắc đã có tên nước Xích Quỷ!
2. THỤC VƯƠNG CHIẾM LẤY VĂN LANG, ĐỔI TÊN NƯỚC LÀ ÂU LẠC, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG KHÊ
Họ Hồng Bàng làm vua “cả thảy hai ngàn sáu trăm hai mươi hai năm (2879-258 trước CN), không biết lấy bằng cứ ở đâu”[10]. Vào năm Quý Mão (258 tr.CN), Thục Phán đem quân chiếm lấy Văn Lang, đổi tên nước là Âu LẠC, đóng đô ở Phong Khê. “Theo sử cũ, vương họ Thục, tên Phán, người nước Ba Thục”[11]. sử thần nhà Nguyễn không tin Phán là người Ba Thục vì nước này cách Văn Lang tới hai ba ngàn dặm, khó mang quân đến lắm, vả lại khi ấy Ba Thục đã bị tiêu diệt rồi, đâu còn vua nữa, nên phỏng đoán: “Hoặc giả ngoài cõi tây bắc, gần nước Văn Lang, còn có một họ Thục khác bèn được nhận là Thục Vương cũng chưa biết được. Nếu nói Thục Vương là người Ba Thục thì không đúng”(3). Mùa xuân, tháng Ba, “vua xây thành ở Phong Khê, rộng một ngàn trượng, xoay quanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa thành” (ở Cổ Loa nay), về nguồn gốc Thục Phán và Ba Thục, còn khá nhiều giả thuyết khác nữa[12].
Một truyền thuyết bằng thi ca của người Tày nói về bộ lạc Nam Cương xưa, có lẽ giúp ta hiểu rõ hơn về Thục Phán và tại sao đặt quốc hiệu là Âu Lạc. “Ớ phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả Giang, về gần nước Văn Lang, có bộ Nam Cương, hùng cứ một phương. Bộ này do Thục Chế tức An Tri Vương đứng đầu, đóng đô ở Nam Bình do chín xứ hợp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần. Chín xứ ấy là: Thạch Lâm, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thạch An, Phúc Hoa, Thượng Lang, Quảng Nguyên, Thái Ninh, Quy Sơn… Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán lên thay”[13]. Người của bộ lạc Nam Cương và các xứ lân cận cũng là một dân tộc Việt mà Trung Quốc gọi là Quỳ Việt hay Tây Âu. Sau này có sắc dân nguời Choang và nguời Tày, chính là hậu duệ của Tây Âu. Khi Thục Phán chiếm đuợc Văn Lang thì hợp nhất hai nhóm dân tộc Âu Việt (cũng gọi là Tây Âu) với Lạc Việt thành một Quốc gia và lấy quốc hiệu là Âu LẠC. Nước Âu Lạc chưa chia ra đơn vị hành chính, mà vẫn giữ các bộ lạc tự trị và cha truyền con nối. Đó là các bộ lạc: (Bản đồ 3)
Mê Linh | Tây Vu | Liên Lâu |
Long Biên | Chu Diên | Bắc Đái |
Kê Từ | An Định | Câu Lậu |
Khúc Dương | Vô Công | Dư Phát |
Tư Phố | Cư Phong | Vô Biên |
Đô Lung | Hàm Hoan |
Bộ lạc Tây Vu là bộ lạc căn bản của Thục Phán, nguyên trước chỉ ở miền thượng lưu sông Lô, bao gồm cả miền thượng lưu sông Gầm và sông Chảy, tức miền Hà Giang và bắc Tuyên Quang ngày nay. Địa bàn này là nơi cư trú chủ yếu của người Tày. Họ cũng ở trên một phần đất của Long Biên nữa[14].
Dân số cuối thời Âu Lạc, ở niên đại 180 trước Công nguyên, có khoảng 600.000 người.
Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc, thì bên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất thiên hạ. Năm 214 trước CN, Thủy Hoàng sai Đồ Thư đi đánh Bách Việt. An Dương Vương đành chịu phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Âu Lạc thành ba đơn vị gọi là:
– Quận Nam Hải (Quảng Đông).
– Quận Quế Lâm (Quảng Tây).
– Tượng Quận (Bắc Việt).
Với những sử liệu phát hiện gần đây, niên đại của nước Âu Lạc đuợc điều chỉnh lại: Nhà Tần đem quân xâm chiếm địa bàn Tây Âu của Thục Phán và Lạc Việt của Hùng Vương năm 214 trước CN. Năm 208 trước CN, Thục Phán đứng đầu cả 2 bộ lạc Tây Âu và Lạc Việt, đuổi được quân nhà Tần, rồi lập ra nước Âu LẠC và xưng là An Dương Vương (208-179 tr.CN)[15], chỉ tồn tại khoảng gần 30 năm. (Bản đồ 4)
[1] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL). In lần thứ 6 – Tân Việt, Sài Gòn, 1958. tr23.
[2] KĐVS, sđd, tr.11-13.
[3] Như trên. tr. 17-23.
[4] KĐLS, sđd, trang 17. – Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch Sử Việt Nam I (LSVN). NXB Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1985. Trang 105, cước chú 2: “Hiện nay có ba danh sách khác nhau về 15 bộ của nước Văn Lang được chép trong những thư tịch xưa nhất của ta. Việt Sử Lược chép là: Giao Chỉ, Việt Thường Thị, Vũ Ninh, Xuân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Nam, Cửu Đức. – Lĩnh Nam Chích Quái chép là: Giao Chỉ, cửu Chần, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Minh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chần, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lầm, Tượng Quận. – Dư địa chí của Nguyễn Trãi và KĐVS ghi lại như trên”.
[5] KĐVS, sđd, trang 19-21.
[6] LSVN, sđd, trang 105.
3.4. Như trên, trang 107-109.
[8] Như trên, trang 107-109.
[9] Trần Trọng Kim, VNSL, sđd. tr.23-24.
[10] KĐVS, sđd, tr.37.
[11] Như trên, tr.37.
[12] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB Khoa Học Hà Nội, 1964. tr.18-20.
[13] Như trên, tr.20.
[14] Như trên, tr.27.
[15] Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sđd, tr 141-144.
Phần II: Thời kỳ đấu tranh giành độc lập
1. NƯỚC NAM VIỆT (207- 111 TRƯỚC CN)
Nhà Tần đổi nuớc Âu Lạc thành Tượng Quận nhưng không trực trị, họ Thục vẫn làm vua. Chẳng được bao lâu nhà Tần suy, quan úy quận Nam Hải là Triệu Đà nổi lên tự lập, đem quân đánh lấy nước Âu Lạc, lập ra nước NAM VIỆT vào năm 206 tr. CN . Từ đó, nhà Thục chấm dứt và đã làm vua Âu Lạc được 50 năm. Triệu Đà sai hai viên sứ thần coi giữ hai quận Giao Chỉ và cửu Chân (địa bàn Âu Lạc cũ). (Bản đồ 5)
Ở Nam Việt, Triệu Đà xưng đế. Bên Trung Quốc, nhà Hán dứt họ Tần và họ Sở. Nhà Triệu làm vua Nam Việt được 96 năm (207- 111 tr. CN) truyền được 5 đời:
– Triệu Vũ Vương (207- 137 tr.CN).
– Triệu Văn Vương (137-125 tr.CN).
– Triệu Minh Vương (125- 113 tr.CN).
– Triệu Ai Vương (113- 112 tr.CN).
– Triệu Dương Vương (112-111 tr.CN) .
– Triệu Văn Vương (137-125 tr.CN).
– Triệu Minh Vương (125- 113 tr.CN).
– Triệu Ai Vương (113- 112 tr.CN).
– Triệu Dương Vương (112-111 tr.CN) .
2. THUỘC NHÀ TÂY HÁN (111 TR.CN-39 SAU CN) VÀ THỜI TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43)
Năm 111 tr.CN, nhà Hán sai Lộ Bác Đức sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao Chỉ Bộ và chia ra làm 9 quận:
1. Nam Hải (Quảng Đông)
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phô (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ (từ Bắc Việt tới Ninh Bình)
6. Cửu Chân (từ Ninh Bình tới Hoành Sơn)
7. Nhật Nam (từ Hoành Sơn tới Đèo cả)
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) .
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phô (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ (từ Bắc Việt tới Ninh Bình)
6. Cửu Chân (từ Ninh Bình tới Hoành Sơn)
7. Nhật Nam (từ Hoành Sơn tới Đèo cả)
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) .
Địa bàn nước ta khi ấy nằm trên ba quận: Giao chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Dân số” cuối thời thuộc Hán, ở niên đại đầu Công nguyên, có 666.013 nguời.
Dân số” cuối thời thuộc Hán, ở niên đại đầu Công nguyên, có 666.013 nguời.
QUẬN GIAO CHỈ chia ra 10 huyện là: Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. Đào Duy Anh phân tích khá rõ theo Thủy Kinh Chú rồi kết luận: “Quận Giao Chỉ ở đời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền tây-bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc tây- nam tỉnh Ninh Bình bây giờ là địa đầu của quận cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp; lại phải thêm vào dấy một vùng về phía tây-nam tỉnh Quảng Tây”
QUẬN CỬU CHÂN, theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục và Tiền Hán Thư, gồm 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Sách Hậu Hán Thư chỉ kể 5 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên. Bảy huyện trên được phân bố từ phía nam tỉnh Ninh Bình đến Hoành Sơn . (Bản đồ 6)
QUẬN NHẬT NAM gồm 5 huyện: Chu Ngô, Tỷ Anh, Lô Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì năm huyện đó được phân bổ từ phía nam Hoành Sơn tới núi Đại Lãnh (gần đó có núi Đá Bia làm ranh giói giữa Phú Yên với Khánh Hòa nay).
Sách KĐVS đã “chú” khá kỹ địa bàn từng quận huyện một, nhưng đến nay các nhà nghiên cứu địa lý học lịch sử vẫn còn bàn cãi ở một số” nơi chưa nhất trí .
2. TRƯNG VUƠNG TRỊ VÌ BA NĂM, ĐÓNG ĐÔ Ở MÊ LINH, CHƯA ĐẶT QUỐC HIỆU VÀ PHÂN BỐ CUƠNG VỰC
Tháng 2 mùa xuân năm 40, “Trưng Trắc, người con gái quận Giao Chỉ, dấy binh đánh thái thú Tô Định, đuổi hắn, tự lập làm vua”. Vì thù chồng, nợ nước, “Vương bèn cùng em gái Trưng Nhị dấy binh.. Vương đến đâu thì như cỏ rạp theo làn gió… dẹp yên 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh”. Tháng 3 mùa xuân năm 42, “quân Mã Viện đến Lãng Bạc đánh với Trưng Trắc, phá được, Trưng Trắc lui giữ Cẩm Khê… Tháng giêng mùa xuân (năm 43), Trưng Trắc và em gái Trưng Nhị chống cự quân Hán, bị thua mà mất… Mã Viện đuổi đánh tàn quân của Hai Bà… đến huyện Cư Phong (đất ấy nay ở Thanh Hóa)” . Sau đó, Mã Viện kéo quân tới tận Đèo Cả, nơi có núi Đá Bia mới dẹp yên được các cuộc nổi dậy ở khắp địa phương.
Ở phần này, chúng ta chỉ quan tâm đến địa chỉ và địa danh để xác định trên bản đồ, còn phần lịch sử xin lướt qua.
3. NHÀ ĐÔNG HÁN (25-220) ĐỔI GIAO CHỈ THÀNH GIAO CHÂU (203)
Mã Viện đánh được Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ về thuộc nhà Hán như cũ, nay gọi là Đông Hán, đem phủ trị về đóng ở Mê Linh (đến cuối đời Đông Hán mới dời về Long Biên). Đến năm Quý Mùi (203), “Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao Chỉ làm Giao Châu. Vua nhà Hán thuận cho” .
4. NHÀ ĐÔNG NGÔ (222-280) TIẾP QUẢN GIAO CHÂU
Nhà Đông Hán mất ngôi (220) thì Trung Hoa chia ra ba nước gọi là Tam Quốc (220-265), tức Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Châu bấv giờ thuộc về Đông Ngô. Năm 226, Ngô Tôn Quyền “lấy từ Hợp Phố về bắc gọi là Quảng Châu, từ Giao Chỉ về nam gọi là Giao Châu” . Được ít lâu, nhà Ngô lại bỏ Quảng Châu cho hợp lại với Giao Châu như cũ. (Bản đồ 7)
NĂM 248, BÀ TRIỆU THỊ TRINH Nổi LÊN CHỐNG NHÀ NGÔ
Bà là nguời huyện Nông Cống, “có sức mạnh, lại có chí khí và lắm mưu lược…; vì quan lại nhà Ngô tàn ác, Triệu Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận cửu Chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tưóng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ… bà chống nhau với nhà Ngô đuợc năm sáu tháng. Nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi phải thua, bà đem quân đến xã Bồ Điền (sau là xã Phú Điền huyện Mỹ Hóa tỉnh Thanh Hóa) rồi tử tiết. Bấy giờ mới 23 tuổi”.
NĂM 264, NHÀ NGÔ CHIA LẠI ĐẤT GIAO CHÂU
“Nhà Ngô lấy đất Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung (TP Quảng Châu, Trung Quốc nay), lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt châu trị ở Long Biên. Đất Nam Việt của Triệu ngày trưóc thành ra Giao Châu và Quảng Châu từ đấy” . (Bản đồ 8)
5. GIAO CHÂU DƯỚI THỜI NHÀ TẤN (265-420) VÀ NAM BẮC TRIỀU (420-588) (Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương nối tiếp nhau)
Tên Giao Châu vẫn giữ nguyên, nhưng tên và địa bàn huyện thì thay đổi qua mỗi “nhà” đến thống trị. Sau đây là tình hình phân bổ Giao Châu từ cuối Ngô đến Tống:
Giao Chỉ: 14 huyện, 12.000 hộ.
Giao Chỉ: 14 huyện, 12.000 hộ.
Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Liên Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An, Quân Bình (theo Tấn Thư và Tống Thư).
Tân Xương: 6 huyện, 3.000 hộ.
Mê Linh, Gia Hưng, Ngô Định, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo. Nhà Tấn đổi tên quận làm Tân Xương, các huyện thì vẫn giữ theo nhà Ngô.
Vũ Bình: 7 huyện, 3.000 hộ.
Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ Định, Phú Yên, Phong Khê. Nhà Tấn cũng vậy.
Cửu Chân: 7 huyện, 3.000 hộ.
Tư Phô, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Thưòng Lạc, Phù Lạc. Nhà Tấn lập thêm huyện Tùng Nguyên.
Cửu Đức: 8 huyện, không rõ số hộ.
Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Thành, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào, Việt Thường. Nhà Tấn đổi Dương Thành làm Dương Toại, lại tách Dương Toại mà lập Phố Dương, lập thêm Tây An, theo Hà Chí thì còn có huyện Việt Thường, lập từ đời Ngô, sang đời Tấn thì không có.
Nhật Nam: 5 huyện, 600 hộ.
Tượng Lâm, Lô Dung, Chu Ngô, Tây Quyển, Tỷ Ảnh. Nhà Tấn tách Tây Quyển mà đặt Thọ Linh, tách Tỷ Anh mà đặt Vô Lao .(theo Tấn Thư và Tống Thứ).
Tân Xương: 6 huyện, 3.000 hộ.
Mê Linh, Gia Hưng, Ngô Định, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo. Nhà Tấn đổi tên quận làm Tân Xương, các huyện thì vẫn giữ theo nhà Ngô.
Vũ Bình: 7 huyện, 3.000 hộ.
Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ Định, Phú Yên, Phong Khê. Nhà Tấn cũng vậy.
Cửu Chân: 7 huyện, 3.000 hộ.
Tư Phô, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Thưòng Lạc, Phù Lạc. Nhà Tấn lập thêm huyện Tùng Nguyên.
Cửu Đức: 8 huyện, không rõ số hộ.
Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Thành, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào, Việt Thường. Nhà Tấn đổi Dương Thành làm Dương Toại, lại tách Dương Toại mà lập Phố Dương, lập thêm Tây An, theo Hà Chí thì còn có huyện Việt Thường, lập từ đời Ngô, sang đời Tấn thì không có.
Nhật Nam: 5 huyện, 600 hộ.
Tượng Lâm, Lô Dung, Chu Ngô, Tây Quyển, Tỷ Ảnh. Nhà Tấn tách Tây Quyển mà đặt Thọ Linh, tách Tỷ Anh mà đặt Vô Lao .(theo Tấn Thư và Tống Thứ).
‘Theo tình hình các quận huyện như trên thì chúng ta thấy rằng ở thời Tam Quốc và thời Lưỡng Tấn, sau khi nhà Ngô chiaGiao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu thì đất Giao Châu sau này trở thành lãnh thổ của nuớc ta trong thời tự chủ, không còn gồm dải đất ở miền Quảng Tây nữa. Chúng ta lại biết rằng cuối đời Hán, nước Lâm Ấp đã được thành lập tại miền Quảng Nam và đến đời Vĩnh Hòa nhà Tấn (345-356), nước ấy đã chiếm cứ hết đất Nhật Nam cũ mà vươn ra đến Hoành Sơn.
Như vậy thì đất Giao Châu đời Tấn đại khái là tương đương với miền Bắc Bộ và miền Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh của nước ta ngày nay” .
Nhà Lương chia Giao Châu làm nhiều châu mới:
1. Ái Châu trên đất quận cửu Chân cũ (Thanh Hóa)
2. Đức Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
3. Lợi Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
4. Minh Châu trên đất miền đông-bắc Giao Châu cũ (Quảng Ninh).
5. Giao Châu thu nhỏ trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ. (Bản đồ 9)
2. Đức Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
3. Lợi Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
4. Minh Châu trên đất miền đông-bắc Giao Châu cũ (Quảng Ninh).
5. Giao Châu thu nhỏ trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ. (Bản đồ 9)
6. NĂM 544, LÝ BÔN XƯNG NAM VIỆT ĐẾ, ĐẶT NIÊN HIỆU LÀ THIÊN ĐỨC, ĐẶT QUỐC HIỆU LÀ VẠN XUÂN
Sau khi thắng địch quân, Lý Bôn đã lập điện Vạn Xuân làm triều nghi, đặt trăm quan, nhưng chưa thấy phân bổ lại cương vực. Các sự kiện lịch sử liên quan đến địa phương nào, thì vẫn dùng địa danh đương thời. Như khi nói “Lý Bôn là người hào hữu quê Thái Bình, tài kiêm văn võ”. Thái Bình đây “thuộc về Phong Châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng không rõ là chỗ nào, chứ không phải là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình” . Đối với các địa danh khác cũng vậy: thành Gia Ninh (sau ở huyện Tiên Lãng tỉnh Phúc Yên), động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), hồ Điển Triệt (tên nôm là Đầm Miêng, thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú), đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hải Hưng) vv… Động Khuất Liêu lại được đọc là động Khuất Lão (là tên một khu đồi hiện nằm giữa hai xã Văn Lang và cổ Tuyết thuộc huyện Tam Nông tỉnh Vĩnh Phú” (Bản đồ 10)
Nước VẠN XUÂN tồn tại được 58 năm, trải qua ba đời vua:
– Lý Nam Đế (Lý Bôn) 544-548.
– Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) 549-571.
– Hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) 571-602.
– Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) 549-571.
– Hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) 571-602.
Dân số nước Vạn Xuân, ở niên đại 544, có khoảng 1.000.000 người.
Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở nước ta, thì vua Văn Đế nhà Tùy thống nhất được Trung Hoa. Năm 602, vua Tùy sai Lưu Phương đem 27 dinh quân sang đánh chiếm Vạn Xuân
7. CƯƠNG VỰC VÀ CÁC CUỘC TRANH ĐẤU DƯỚI CÁC ĐỜI NHÀ TÙY, NHÀ ĐƯÒNG (603-907)
a) NHÀ TÙY (589-617)
sau khi chiếm được Vạn Xuân năm 602, liền chia Giao Châu ra làm 5 quận:
– Quận Giao Chỉ gồm 9 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương, An Nhân.
– Quận Nhật Nam gồm 8 huyện: cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Việt Thường, Kim Ninh, Giao Cốc, An Viễn, Quang An.
– Quận Tỷ Anh gồm 4 huyện: Tỷ Anh, Chu Ngô, Thọ Linh, Tây Quy ển.
– Quận Hải Âm gồm 4 huyện: Tân Dung, Chân Long, Đa Nông, An Lạc.
– Quận Tượng Lâm gồm 4 huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang, Nam Cực.
– Quận Nhật Nam gồm 8 huyện: cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Việt Thường, Kim Ninh, Giao Cốc, An Viễn, Quang An.
– Quận Tỷ Anh gồm 4 huyện: Tỷ Anh, Chu Ngô, Thọ Linh, Tây Quy ển.
– Quận Hải Âm gồm 4 huyện: Tân Dung, Chân Long, Đa Nông, An Lạc.
– Quận Tượng Lâm gồm 4 huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang, Nam Cực.
Ngoại trừ một số” địa điểm còn để nghi vấn, nhà địa lý học lịch sử Đào Duy Anh đã nghiên cứu thỏa đáng cả địa bàn lẫn duyên cách của các châu huyện trên trong thiên khảo luận có giá trị của mình . (Bản đồ 11)
b) NHÀ ĐƯỜNG (618-907)
tiếp nối nhà Tùy “cai trị nước ta khắc nghiệt hơn cả”.
“Nhà Đường sửa lại toặn bộ chế độ hành chính và sự phân chia châu quận. 622, nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản chủ để lãnh quản 12 châu: Giao, Phong, Ái, Tiên, Diễn, Tống, Từ, Hiểm, Đạo, Long, tức là cả miền Bắc nước ta, từ biên giới Việt – Trung đến Hoành Sơn”.
Năm 679, đổi Giao Châu làm An Nam Đô Hộ Phư, cai quản 12 châu, 59 huyện. Nước ta gọi là An Nam khỏi đầu từ đấy.
Năm 757, đổi làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 766, lại đổi làm An Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 866, Nhà Đường thăng An Nam Đô Hộ Phủ lên làm Tình Hái Quân Tiết Độ.
Năm 757, đổi làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 766, lại đổi làm An Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 866, Nhà Đường thăng An Nam Đô Hộ Phủ lên làm Tình Hái Quân Tiết Độ.
An Nam Đô Hộ Phủ chia ra 12 châu như sau: (Bản đồ 12)
1. Giao Châu nay ở đất Hà Nội, Nam Định, có 8 huyện: Tống Bình, Nam Đinh, Thái Bình, Giao Chỉ, Chu Diên, Long Biên, Bình Đạo, Vũ Bình.
2. Lục Châu sau là Quảng Yên, Lạng Sơn, gồm 3 huyện: Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh Hải.
3. Phúc Lộc Châu gồm 3 huyện, có lẽ ở “miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp, Ngọc Ma ở phía tây Hoành Sơn”.
4. Phong Châu gồm 3 huyện: Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương. Sau là Bạch Hạc – Việt Trì.
5. Thang Châu gồm 3 huyện: Thanh Tuyền, Lục Thủy, La Thiều. Nay ở Nam Ninh, Trung Quốc.
6. Trường Châu có 4 huyện, nay thuộc địa phận Ninh Bình.
7. Chi Châu gồm 7 huyện: Hàn Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diệm, Đa Vân, Tụ Long. Nay thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. (Tụ Long trước 1888 thuộc Tuyên Quang, Việt Nam).
8. Võ Nga Châu gồm 7 huyện: Võ Nga, Như Mã, Võ Nghĩa, Võ Di, Võ Duyên, Võ Lao, Lương Sơn. Nay cũng thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
9. Võ An Châu gồm 2 huyện: Võ An, Lâm Giang. Nay ở khoảng phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
10. Ái Châu gồm 6 huyện cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Truòng Lâm. Nay thuộc địa phận Thanh Hóa.
11. Hoan Châu gồm 4 huyện cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài Hoan. Nay thuộc địa phận Nghệ An.
12. Diễn Châu gồm 7 huyện (khuyết danh). Có lẽ tương đương với miền Bắc tỉnh Nghệ An nay, khoảng các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu.
2. Lục Châu sau là Quảng Yên, Lạng Sơn, gồm 3 huyện: Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh Hải.
3. Phúc Lộc Châu gồm 3 huyện, có lẽ ở “miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp, Ngọc Ma ở phía tây Hoành Sơn”.
4. Phong Châu gồm 3 huyện: Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương. Sau là Bạch Hạc – Việt Trì.
5. Thang Châu gồm 3 huyện: Thanh Tuyền, Lục Thủy, La Thiều. Nay ở Nam Ninh, Trung Quốc.
6. Trường Châu có 4 huyện, nay thuộc địa phận Ninh Bình.
7. Chi Châu gồm 7 huyện: Hàn Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diệm, Đa Vân, Tụ Long. Nay thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. (Tụ Long trước 1888 thuộc Tuyên Quang, Việt Nam).
8. Võ Nga Châu gồm 7 huyện: Võ Nga, Như Mã, Võ Nghĩa, Võ Di, Võ Duyên, Võ Lao, Lương Sơn. Nay cũng thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
9. Võ An Châu gồm 2 huyện: Võ An, Lâm Giang. Nay ở khoảng phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
10. Ái Châu gồm 6 huyện cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Truòng Lâm. Nay thuộc địa phận Thanh Hóa.
11. Hoan Châu gồm 4 huyện cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài Hoan. Nay thuộc địa phận Nghệ An.
12. Diễn Châu gồm 7 huyện (khuyết danh). Có lẽ tương đương với miền Bắc tỉnh Nghệ An nay, khoảng các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu.
40 châu ky my. “ở những miền biên giới xa xôi, nhà Đường không đặt châu quận để thống trị trực tiếp đuợc, thì đặt những châu ky my, và để cho các tù trưởng cũ vẫn giữ bộ lạc của họ.. Lệ vào An Nam Đô Hộ Phủ thì có 40 châu ky my, đại khái là ở đất thượng du miền Bắc và miền Đông – Bắc nước ta, như châu Quy Hóa, châu Cam Đường, châu Lâm Tây ở các miền Yên Bái, Lao Cai và thượng du sông Đà; châu Bình Nguyên ở miền Hà Giang; châu Vũ Định, châu Độ Kim ở miền Tuyên Quang; châu Tư Lăng, Lộc Châu, Lạng Châu ở miền Lạng Sơn” . (Bản đồ 13)
Lại còn 18 châu ky my nữa lệ vào Phong Châu Đô Hộ Phủ… “ở khoảng từ Bạch Hạc đến Lào Cai ngày nay, thì cư dân cũng là thuộc về ngành Tày chứ không phải là ngành Thái. Nhưng nếu xét lui lên xa thì người Thái và người Tày cùng người Nùng lại đều là từ một nguồn gốc mà ra, tức là chủng tộc mà người ta thường gọi là Thái, từ thời thượng cổ đã chiếm ở miền Tây Nam Trung Quốc” . (Bản đồ 14) và (Bản đồ 15)
Phủ trị của An Nam Đô Hộ Phủ đặt ở khoảng Hà Nội ngày nay. Địa bàn của nó còn rộng hơn cả Giao Châu ở thời Tam Quốc và thời Nam Bắc Triều. “Nếu không kể các châu ky my ở miền Bắc và miền Đông – Bắc lệ thuộc An Nam Đô Hộ Phủ và các châu ky my ở miền Tây – Bắc lệ thuộc Phong Châu, chỉ kể những châu trực thuộc Đô Hộ Phủ, thì các châu Thang, Chi, Võ Nga, Võ An là thuộc về địa phận tỉnh Quảng Tây ngày nay của Trung Quốc, và các châu Lâm và Ảnh là đặt khống ở miền Nam Hoành Sơn, như vậy là chỉ còn 8 châu: Giao, Lục, Phong, Truông, Ái, Diễn, Hoan và Phúc Lộc là nằm trên đất Giao Châu cũ. Đại khái đó là địa bàn mà đến khi nhà Đường sụp đổ, các triều đại phong kiến đầu tiên của nuớc ta, Ngô, Đinh, Lê, Lý sẽ xây dựng nhà nước tự chủ của ta .
Vậy thì những địa danh như Nam Định, Thái Bình, Long Biên, Diễn Châu… đã tồn tại từ 13 thế kỷ nay. Nếu nghiên cứu kỹ, có lẽ còn nhiều địa danh gốc từ Lạc Việt đã có từ trên 20 thế kỷ rồi, đặc biệt là các địa danh Nôm. Địa danh học cũng là một bộ môn hỗ trợ đắc lực cho khảo cổ học vậy
Phần 3 : Thời Kỳ độc lập tự chủ
1. HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP VÀ HỌ NGÔ DỰNG NGHIỆP (907-959)
Lợi dụng trong khi năm họ tranh giành nhau bên Trung Quốc, dân chúng bên ta bèn cử Khúc Thừa Dụ (906-907) làm Tiết độ sứ để cai trị Tĩnh Hải Quân. Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (Ninh Giang – Hải Hưng nay) là nhà hào phú có tính khoan hòa và thương người. Trung Quốc phải chịu nhận. Thừa Dụ chết, Khúc Hạo (907-917) lên thay làm Tiết độ sứ rồi lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại . Sau Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ (917-923). Năm 923, nhà Nam Hán chiếm lại Tĩnh Hải Quân. Năm 931, Dương Diên Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo nổi lên, tự xưng Tiết độ sứ. Được sáu năm, bị nha tướng là Kiều Công Tiễn giết và cướp quyền. Khi ấy có Ngô Quyền (quê ở Đường Lâm, Sơn Tây) là con rể Dương Diên Nghệ đang cai trị Ái Châu, đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Tiễn cầu cứu nhà Nam Hán. Thái tử Hoằng Thao đem quân sang đánh Ngô Quyền, bị đại bại trên sông Bạch Đằng (938).
Tiền Ngô Vương (939-945). Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở cổ Loa, đặt quan chức, chế triều nghi, nhưng chưa định quốc hiệu và phân bố lãnh vực. Được sáu năm thì mất. Em rể là Dương Tam Kha (935- 950) lên tiếm ngôi. Hai con Ngô Quyền là Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập trở lại hạ được Dương Tam Kha rồi cùng cai trị nước, sử gọi là Hậu Ngô Vương (950- 956). về cương vực nhà Ngô: “Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu mà cư dân là con cháu người Lạc Việt, tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc Bộ cùng miền trung du và miền đồng bằng Thanh Nghệ, còn miền thuợng du là các châu ky my của nhà Đuờng trước kia thì có lẽ còn do các tù truởng giữ mà độc lập” .
2. CƯƠNG VỰC BỊ CHIA CẮT DƯỚI THỜI THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)
Từ khi Dương Tam Kha tiếm vị, thổ hào các nơi xướng lên độc lập tự xưng sứ quân. Khi có Hậu Ngô rồi, các sứ quân vẫn không về thần phục. Con cháu nhà Ngô yếu thế, trở thành như một sứ quân. Cương vực bị chia cắt, dân tình đói khổ. Sau đây là 12 sứ quân với vùng cát cứ:
1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Khoái Châu, Hưng Yên).
2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai).
3. Trần Lãm giữ Bô” Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).
7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lũ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).
10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
11. Kiều Thuận giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Hưng Yên) .
2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai).
3. Trần Lãm giữ Bô” Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).
7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lũ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).
10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
11. Kiều Thuận giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Hưng Yên) .
3. CƯƠNG VỰC DƯỚI THỜI ĐINH – LÊ, QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT 86 NĂM (968-1054)
Đinh Tiên Hoàng (968-979), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, “chia nước làm 10 đạo, hiện nay không rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào. Duy nhất sử cũ vẫn chép tên các châu đời Đường, như Ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu, thì biết rằng danh hiệu các châu đời Đường bấy giờ vẫn được dùng” . Nhà Tống chỉ phong cho Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.
Đinh Phế Đế (979-980) tức Đinh Tuệ lên ngôi mới có sáu tuổi.
Lê Đại Hành (980-1005) tức Lê Hoàn, thay ngôi nhà Đinh, “đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu”. Nay vẫn chưa tìm ra danh hiệu và vị trí những đơn vị hành chính đó, mà các tên châu huyện đời Đường còn được nhắc đến trong sử cũ. Năm 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm Thành, phải qua kênh Xước ở Thanh Hóa và kênh Sắt ở Nghệ An (đó là kênh mà sau này Nguyễn Trường Tộ đào nắn lại cho dễ thông thương hơn). Nhà Tống cũng chỉ phong cho Lê Đại Hành là Giao Chỉ quận vương, rồi gia phong là Nam Bình Vương, cố ý coi nước ta là quận Giao Chỉ hay An Nam đô hộ phủ mà thôi.
Tiếp nối Lê Đại Hành Là Lê Trung Tông (1005) rồi Lê Long Đĩnh (1005 – 1009), cương vực vẫn tới Hoành Sơn nhưng Chiêm Thành phải sang triều cống. Quốc hiệu Đại Cồ Việt vẫn tồi tại.
Dân số nước Đại cồ Việt, ở niên đại 968, có khoảng 2.000.000 người.
4. CƯƠNG VỰC VÀ QUỐC HIỆU DƯỚI ĐỜI LÝ, NƯỚC ĐẠI VIỆT, 748 NĂM (1054-1802)
Lý Thái Tổ tức Lý Công uẩn (1010-1028) tiếp ngôi nhà Lê, dời đô về La Thành, lấy tên mới là thành Thăng Long, “chia nước làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại” , mới chắc chắn có tên 12 lộ do KĐVS ghi chép:
Thiên Trường Hoàng Giang Thanh Hóa
Khoái Hồng Kiến Xương
Trường Yên Hải Đông Bắc Giang
Quốc Oai Long Hưng Diễn Châu
Còn 12 lộ nữa thì Đào Duy Anh phỏng tính là:
Phủ Đô Hộ Phủ ứng Thiên Phủ Phú Lương
Phủ Thiên Đúc Phủ Nghệ An Châu cổ Pháp
Châu Phong Châu Lạng Châu Chân Đăng
Châu Bố Chính Châu Địa Lý Châu Ma Linh
Khoái Hồng Kiến Xương
Trường Yên Hải Đông Bắc Giang
Quốc Oai Long Hưng Diễn Châu
Còn 12 lộ nữa thì Đào Duy Anh phỏng tính là:
Phủ Đô Hộ Phủ ứng Thiên Phủ Phú Lương
Phủ Thiên Đúc Phủ Nghệ An Châu cổ Pháp
Châu Phong Châu Lạng Châu Chân Đăng
Châu Bố Chính Châu Địa Lý Châu Ma Linh
Hoàng Xuân Hãn đã định được vị trí các châu lộ ở phía bắc và Đào Duy Anh đã phỏng định vị trí các châu phủ lộ còn lại . Ngoài lộ, châu, phủ nhà Lý còn chia ra các đơn vị hành chính là hương, giáp, trại, động.
Dân số” nước Đại Việt, ở niên đại 1054, có khoảng 2.200.000 người.
(Bản đồ 16)
Dân số” nước Đại Việt, ở niên đại 1054, có khoảng 2.200.000 người.
(Bản đồ 16)
Lý Thái Tông (1028-1054) đem quân chinh phạt Chiêm Thành (1044) tiến chiếm quốc đô Phật Thệ (làng Nguyệt Bầu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên).
Lý Thánh Tông (1054-1072) khi lên ngôi liền đổi quốc hiệu là Đại Việt. Năm 1069, đem quân đánh Chiêm Thành. Chế Củ xin chuộc tội bằng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (sau là Quảng Bình, Quảng Trị).
Lý Nhân Tông (1072-1127) sai Lý Thuợng Kiệt đi trấn giữ (1076) ở phía bắc và đi kinh lý ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính ở phía nam.
Sau đó là các vua Lý Thần Tông (1128-1138)
Lý Anh Tông (1138-1175)
Lý Anh Tông (1138-1175)
Năm 1164, nhà Tống đổi Giao Chỉ quận làm An Nam quốc, Lý Anh Tông là vua đầu tiên của nước ta được phong là An Nam quốc vương. Vua cuối cùng nhận phong tước hiệu này là Nguyễn Tây Sơn cảnh Thịnh (1792-1802).
Lý Cao Tông (1176-1210)
Lý Huệ Tông (1211-1225)
Lý Chiêu Hoàng (1225)
Lý Huệ Tông (1211-1225)
Lý Chiêu Hoàng (1225)
Cương vực và quốc hiệu vẫn thế.
5. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI ĐỜI TRẦN VÀ ĐỜI HỒ(1225-1413)
Trần Thái Tông (1225-1258) “chia nước ra làm 12 lộ”, đặt xã quan để cai trị ở địa phương. Nhưng sử cũ lại chép tới 15 lộ:
Thiên Trưòng Hồng Lạng Giang
Tam Giang An Khang Truòng Yên
Khoái Tam Đới Bắc Giang
Long Hưng Diễn Sơn Nam
Quốc Oai An Tiêm Đà Giang
Thiên Trưòng Hồng Lạng Giang
Tam Giang An Khang Truòng Yên
Khoái Tam Đới Bắc Giang
Long Hưng Diễn Sơn Nam
Quốc Oai An Tiêm Đà Giang
Sách An Nam Chí Lược chép 15 lộ khác, trong đó có 9 lộ mà danh sách trên thiếu. Nếu cộng lại ta sẽ có tên 24 lộ. Sau đây là 9 lộ bổ túc:
Đại La Thành
Quy Hóa Giang
Tuyên Hóa Giang
Lạng Châu
Đại Hoàng
Nam Sách Giang
Như Nguyệt Giang
Nghệ An
Phủ Bố Chính Châu
Quy Hóa Giang
Tuyên Hóa Giang
Lạng Châu
Đại Hoàng
Nam Sách Giang
Như Nguyệt Giang
Nghệ An
Phủ Bố Chính Châu
Năm 1397, Lê Quý Ly làm thái sư, đổi các lộ phủ ra làm trấn: Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, Đà Giang làm trấn Thiên Hưng, Nghệ An làm trấn Lâm An, Trường Yên làm trấn Thiên Quan, Diễn Châu làm trấn Vọng Giang, Lạng Sơn phủ (truóc là Lạng Sơn) làm trấn Lạng Sơn, Tân Bình phủ (trước là Bố Chính Châu) làm trấn Tân Bình… Quý Ly chiếm thêm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đặt làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, gộp lại làm lộ Thăng Hoa, tức là miền Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay
(Bản đồ 17)
(Bản đồ 17)
0. Lộ Đông Đô
1. Lộ Bắc Giang
2. Lộ Lạng Giang
3. Lộ Lạng Sơn
4. Phủ lộ Thiên Truờng (Sơn Nam)
5. Lộ Long Hưng
6. Lộ Khoái Châu
7. Phủ lộ Kiến Xương
8. Lộ Hoàng Giang,
Phủ Kiến Hưng
9. Trấn Thiên Quan
10. Phủ lộ Tân Hưng
11. Lộ Hải Đông
12. Phủ lộ Kiến Xương
13. Trấn Quảng Oai
14. Trấn Thiên Hưng
15. Trấn Thanh Đô
16. Trấn Vọng Gỉang
17. Trấn Tây Bình
18. Trấn lộ Thanh Hóa
19. Lộ Thăng Hoa
1. Lộ Bắc Giang
2. Lộ Lạng Giang
3. Lộ Lạng Sơn
4. Phủ lộ Thiên Truờng (Sơn Nam)
5. Lộ Long Hưng
6. Lộ Khoái Châu
7. Phủ lộ Kiến Xương
8. Lộ Hoàng Giang,
Phủ Kiến Hưng
9. Trấn Thiên Quan
10. Phủ lộ Tân Hưng
11. Lộ Hải Đông
12. Phủ lộ Kiến Xương
13. Trấn Quảng Oai
14. Trấn Thiên Hưng
15. Trấn Thanh Đô
16. Trấn Vọng Gỉang
17. Trấn Tây Bình
18. Trấn lộ Thanh Hóa
19. Lộ Thăng Hoa
Sau khi Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần liền đặt tên nuớc là Đại Ngu rồi đổi phủ Thanh Hóa (trấn Thanh Đô) làm phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu (trấn Vọng Giang) làm phủ Linh Nguyên, phủ Kiến Xương làm phủ Kiến Ninh . Duyên cách thật phức tạp và các danh xưng lộ – phủ – trấn vẫn còn xen kẽ chưa phân biệt rạch rồi.(Bản đồ 18)
Danh sách các vua triều Trần sau Trần Thái Tông:
Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ Tông (1374-1377)
Trần Phế Đế (1377-1388)
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Nhà Hồ thoán ngôi với hai đời vua:
Hồ Quí Ly (1400-1401)
Hồ Hán Thương (1401-1407)
Nhà Trần trở lại gọi là Hậu Trần với hai đời vua:
Giản Định Đế (1407-1409)
Trần Quí Khoách (1403-1413)
Dân số Đại Việt ở niên đại 1407 có khoảng 3.129.500 người.
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ Tông (1374-1377)
Trần Phế Đế (1377-1388)
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Nhà Hồ thoán ngôi với hai đời vua:
Hồ Quí Ly (1400-1401)
Hồ Hán Thương (1401-1407)
Nhà Trần trở lại gọi là Hậu Trần với hai đời vua:
Giản Định Đế (1407-1409)
Trần Quí Khoách (1403-1413)
Dân số Đại Việt ở niên đại 1407 có khoảng 3.129.500 người.
6. CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI THỜI THUỘC MINH (1414-1427)
Vua Nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang chiếm nước ta rồi lại gọi nước ta là Quận Giao Chỉ và chia lãnh thổ nước ta ra làm 15 phủ với 5 châu lớn, đó là:
(Bản đồ 19) và (Bản đồ 20)
Vua Nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang chiếm nước ta rồi lại gọi nước ta là Quận Giao Chỉ và chia lãnh thổ nước ta ra làm 15 phủ với 5 châu lớn, đó là:
(Bản đồ 19) và (Bản đồ 20)
1. Phủ Giao Châu 11. Phủ Lạng Sơn
2. Phủ Bắc Giang 12. Phủ Tân Bình
3. Phủ Lạng Giang 13. Phủ Diễn Châu
4. Phủ Tam Giang 14 Phủ Nghệ An
5. Phủ Kiến Bình 15. Phủ Thuận Hóa
6. Phủ Tân Yên 16. Châu Thái Nguyên
7. Phủ Kiến Xương 17. Châu Tuyên Hóa
8. Phủ Phụng Hóa 18. Châu Gia Hưng
9. Phủ Thanh Hóa 19. Châu Qui Hóa
10. Phủ Trấn Man 20. Châu Quảng Oai
2. Phủ Bắc Giang 12. Phủ Tân Bình
3. Phủ Lạng Giang 13. Phủ Diễn Châu
4. Phủ Tam Giang 14 Phủ Nghệ An
5. Phủ Kiến Bình 15. Phủ Thuận Hóa
6. Phủ Tân Yên 16. Châu Thái Nguyên
7. Phủ Kiến Xương 17. Châu Tuyên Hóa
8. Phủ Phụng Hóa 18. Châu Gia Hưng
9. Phủ Thanh Hóa 19. Châu Qui Hóa
10. Phủ Trấn Man 20. Châu Quảng Oai
Đại khái “họ theo tên các lộ trấn phủ châu của thời Trần – Hồ, duy có thay đổi như sau: đổi phủ Long Hưng làm phủ Trấn Man, phủ Kiến Hưng làm phủ Kiến Bình, phủ Thiên Trường làm phủ Phụng Hóa, phủ Tân Hưng làm phủ Tân Yên, châu Quốc Oai làm châu Tuyên Man (?), châu Tuyên Quang làm châu Tuyên Hóa” .
Ở địa phương thì nhà Minh chia ra phường, tương, lý, giáp, “ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung quanh thành phố thì gọi là tương, ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia ra giáp. Cứ 110 hộ làm 1 lý và 10 hộ làm 1 giáp. Lý thì có lý trưởng, thế giáp thì có giáp thủ. Mỗi một lý, một phuòng hay một tương, có một quyển sách để biên tất cả số đinh, số điền vào đấy… ở đầu quyển sách lại có cái địa đồ” . (Bản đồ 21)
7. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI TRlỀU LÊ (1428-1527)
Lê Thái Tổ (1428-1433) thắng quân Minh rồi đóng đô ở Thăng Long khi ấy gọi là Đông Đô (gồm 2 huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương). Năm 1430, đổi Đông Đô là Đông Kinh (từ đó người Tây phương phiên là Tongkinh hay Tonkin), và đổi Tây Đô (Lam Sơn) thành Tây Kinh. Lại chia cả mước làm 5 đạo gồm 19 trấn hay lộ:
1. Bắc Đạo (Lạng Giang, Bắc Giang, Thái Nguyên).
2. Tây Đạo (Tuyên Quang, Hưng Hóa, Gia Hưng, Tam Giang).
3. Đông Đạo (An Bang, Hồng Sách Thượng, Hồng Sách Hạ).
4. Nam Đạo (Ly Nhân, Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Truờng).
5. Hải Tây Đạo (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa). Đạo này mới đặt năm 1428, bốn đạo trên đặt từ thời chống quân Minh.
2. Tây Đạo (Tuyên Quang, Hưng Hóa, Gia Hưng, Tam Giang).
3. Đông Đạo (An Bang, Hồng Sách Thượng, Hồng Sách Hạ).
4. Nam Đạo (Ly Nhân, Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Truờng).
5. Hải Tây Đạo (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa). Đạo này mới đặt năm 1428, bốn đạo trên đặt từ thời chống quân Minh.
Lê Thái Tông (1434- 1442), Lê Nhân Tông (1443- 1459), vẫn giữ cách phân bổ hành chính như trên.
Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị vua anh minh, đã nâng cao phẩm chất văn hóa và đạo lý cho nhân dân, lại mở mang thêm bờ cõi và tổ chúc quản trị lãnh thổ rất chu đáo. Năm 1466, Thánh Tông chia nước ra làm 12 đạo hay thừa tuyên:
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Thuận Hóa
4. Thiên Trường
5. Nam Sách
6. Quốc Oai
7. Bắc Giang
8. An Bang
9. Hưng Hóa
10. Tuyên Quang
11. Thái Nguyên
12. Lạng Sơn
2. Nghệ An
3. Thuận Hóa
4. Thiên Trường
5. Nam Sách
6. Quốc Oai
7. Bắc Giang
8. An Bang
9. Hưng Hóa
10. Tuyên Quang
11. Thái Nguyên
12. Lạng Sơn
Năm 1471, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam, đưa biên giới nước ta tới núi Đá Bia trên Đèo Cả.
Năm 1490, lập bản đồ Hồng Đức để tổng kết tình hình phân bố lãnh thổ và vẽ bản đồ toàn quốc cũng như từng thừa tuyên.
Sau đây là danh sách Kinh Đô và các đạo thừa tuyên với số phủ, châu, huyện:
Trung Đô có phủ Phụng Thiên và 2 huyện.
Năm 1490, lập bản đồ Hồng Đức để tổng kết tình hình phân bố lãnh thổ và vẽ bản đồ toàn quốc cũng như từng thừa tuyên.
Sau đây là danh sách Kinh Đô và các đạo thừa tuyên với số phủ, châu, huyện:
Trung Đô có phủ Phụng Thiên và 2 huyện.
1. Sơn Nam gồm 11 phủ, 42 huyện.
2. Kinh Bắc gồm 4 phủ, 20 huyện.
3. Sơn Tây gồm 4 phủ, 24 huyện.
4. Hải Dương gồm 3 phủ, 14 huyện.
5. Yên Bang (sau là Quảng Yên) gồm 1 phủ, 3 huyện, châu.
6. Lạng Sơn gồm 1 phủ, 6 châu.
7. Ninh Sóc (tức Thái Nguyên) gồm 3 phủ, 8 huyện, 6 châu.
8. Tuyên Quang gồm 1 phủ, 2 huyện, 5 châu.
9. Hưng Hóa gồm 3 phủ, 17 châu.
10. Thanh Hóa gồm 4 phủ, 16 huyện, 4 châu.
11. Nghệ An gồm 4 phủ, 27 huyện, 3 châu.
12. Thuận Hóa gồm 2 phủ, 7 huyện, 3 châu.
13. Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện.
(Bản đồ 22)
2. Kinh Bắc gồm 4 phủ, 20 huyện.
3. Sơn Tây gồm 4 phủ, 24 huyện.
4. Hải Dương gồm 3 phủ, 14 huyện.
5. Yên Bang (sau là Quảng Yên) gồm 1 phủ, 3 huyện, châu.
6. Lạng Sơn gồm 1 phủ, 6 châu.
7. Ninh Sóc (tức Thái Nguyên) gồm 3 phủ, 8 huyện, 6 châu.
8. Tuyên Quang gồm 1 phủ, 2 huyện, 5 châu.
9. Hưng Hóa gồm 3 phủ, 17 châu.
10. Thanh Hóa gồm 4 phủ, 16 huyện, 4 châu.
11. Nghệ An gồm 4 phủ, 27 huyện, 3 châu.
12. Thuận Hóa gồm 2 phủ, 7 huyện, 3 châu.
13. Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện.
(Bản đồ 22)
Năm 1490, đổi tên thừa tuyên làm xứ. Như vậy cả nước có 13 xứ, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 37 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Mỗi xã thường không có quá 500 hộ, khi quá số này khoảng 100 hộ, lại chia làm 2 xã .
Dân số Đại Việt ở niên đại 1490 có khoảng 4.000.000 người.
Các đời vua sau Lê Thánh Tông:
Lê Hiến Tông (1497-1504)
Lê Túc Tông (1504)
Lê Uy Mục (1505-1509)
Lê Tương Dực (1510-1516)
Lê Chiêu Tông (1516-1522)
Lê Cung Hoàng (1522-1527)
Dân số Đại Việt ở niên đại 1490 có khoảng 4.000.000 người.
Các đời vua sau Lê Thánh Tông:
Lê Hiến Tông (1497-1504)
Lê Túc Tông (1504)
Lê Uy Mục (1505-1509)
Lê Tương Dực (1510-1516)
Lê Chiêu Tông (1516-1522)
Lê Cung Hoàng (1522-1527)
Các vua này vẫn giữ nền tảng hành chính như cũ. (Bản đồ 23)
8. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI NAM BẮC TRlỀU (1528-1592)
Năm 1527, Mạc Đăng Dung thoán ngôi nhà Lê. Cựu thần nhà Lê không chịu: Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm suy tôn Lê Trang Tôn lên ngôi từ năm 1533 bên đất Lào, rồi đem quân về lấy lại Nghệ An và Thanh Hóa. Trong thời gian trên 60 năm, từ Thanh Hóa vào Nam thuộc về nhà Lê, gọi là Nam Triều. Từ Sơn Nam ra Bắc thuộc về nhà Mạc, gọi là Bắc Triệu.
Nam Triều có các vua:
Nam Triều có các vua:
Lê Trang Tông (1533-1548)
Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Anh Tông (1556-1573)
Lê Thế Tông (1573-1599)
Bắc Triều có các vua:
Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Mạc Phúc Hải (1541-1546)
Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
Mạc Mậu Hợp (1562-1592).
Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Anh Tông (1556-1573)
Lê Thế Tông (1573-1599)
Bắc Triều có các vua:
Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Mạc Phúc Hải (1541-1546)
Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
Mạc Mậu Hợp (1562-1592).
9. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH (1600-1771)
Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm muốn giữ hết quyền bèn cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa (1588) nhưng buộc vẫn thường phải về chầu vua Lê và đem binh ra giúp họ Trịnh để dứt nhà Mạc. Năm 1593, Trịnh Tùng có sự tiếp tay của Nguyễn Hoàng lấy lại Thăng Long nhưng vẫn muốn giữ Nguyễn Hoàng không cho về hẳn Thuận Hóa. Mãi năm 1600, Nguyễn Hoàng mới trốn được vào Nam và mưu tính lập căn cứ lâu dài chống lại họ Trịnh. Từ đó, các chúa Nguyễn tìm cách phát triển lãnh thổ cả về phía nam lẫn phía tây và phía biển Đông trên các quần đảo xa xôi nữa.
Sau đây là các đời chúa Nguyễn:
Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1558-1613) tổ chức cai trị thêm từ đèo Cù Mông tới núi Đá Bia, lập phủ Phú Yên hồi năm 1611
Nguyễn Phước Nguyên tức Chúa Sãi (1613-1635) hình như có gả “công nữ” Ngọc Vạn cho Chey Ghetta II, vua Chân Lạp hồi 1619.
Nguyễn Phước Lan tức Chúa Thượng (1635-1648) tổ chức cai trị và khai khẩn từ núi Đá Bia tới sông Phan Rang hồi năm 1635.
Nguyễn Phước Tần tức Chúa Hiền (1648-1687) cho quân sang U Đông và Nam Vang để cản ngăn việc quân Xiêm chiếm đóng hồi 1658-1672, lại cho người Minh Hương đến khẩn hoang ở Mỹ Tho và Biên Hòa hồi 1679. (Bản đồ 24)
Nguyễn Phước Trăn tức Chúa Ngãi (1687-1691) cho quân chinh phạt nguời Minh Hương là Hoàng Tiến hồi năm 1689.
Nguyễn Phước Chu tức Chúa Minh (1691-1725) “đặt phủ Bình Thuận, vẫn để vua Chiêm cai trị người Chiêm như cũ” hồi năm 1697. Năm 1698 phái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, đăt phủ Gia Đinh và hai huyện Tân Bình (Sài Gòn), Phước Long (Biên Hòa).
Năm 1708, chúa cho Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên.
Nguyễn Phước Trú tức Chúa Ninh (1691-1738)đặt chức Điều Khiển để coi việc quân toàn miền Nam.
Nguyễn Phước Khoát tức Chúa Võ (1738-1765) hoàn chỉnh việc chia cắt phủ huyện trên toàn cõi miền Nam. Năm 1744, Đàng Trong chia ra làm 12 dinh và 1 trấn
Chính dinh (Phú Xuân).
- Cựu dinh (Ái Tử, Quảng Trị).
- Quảng Bình dinh tục gọi dinh Trạm.
- Lưu Đồn dinh cũng gọi dinh Mười (Võ Xá, Quảng Bình).
- Bố Chính dinh tục gọi dinh Ngói.
- Quảng Nam dinh tục gọi dinh Chiêm.
- Phú Yên dinh.
- Bình Khang dinh (sau là Khánh Hòa).
- Bình Thuận dinh.
- Trấn Biên dinh (sau là Biên Hòa)
- Phiên Trấn dinh (sau là tỉnh Gia Định).
- Long Hồ dinh (sau là Vĩnh Long và An Giang).
- Hà Tiên trấn.
Dân số Đàng Trong, ở niên đại 1750, có khoảng 1.500.000 người.
Nguyễn Phước Thuần tức Chúa Định (1765-1776) sai Nguyễn Cửu Đàm giải phóng Cao Miên khỏi tay quân Xiêm chiếm đóng (1772). Đầu năm 1776, quân Tây Sơn vào chiếm miền Nam, sau khi làm chủ Qui Nhon[1].
Nguyễn Anh (1776-1802) tái chiếm Gia Định từ tay Tây Sơn, xây thành Bát Quái rồi theo gió mùa lần hồi lấy lại Phú Xuân và cả Đàng Ngoài.
(Bản đồ 25)
Có lẽ chính quyền nuớc ta chưa bao giờ phân tán như trong thời gian 30 năm này, ngoại trừ thời Thập Nhị Sứ Quân. Năm 1771, anh em Tây Sơn dấy binh rồi chiếm thành Qui Nhơn. Năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc vào chiếm Phú Xuân. Chúa Định cùng Nguyễn Ánh chạy vào Nam. Năm 1776, Tây Sơn vào chiếm Nam Bộ. Từ đó đến năm 1778, Nam Bộ bị giành giật bảy tám lần giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Năm 1786, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lấy Thuận Hóa, rồi thừa thắng đem quân ra lấy Bắc Hà với danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê. Trịnh Khải tự tử, chấm dứt nghiệp chúa của họ Trịnh kéo dài 216 năm (1576-1786) với 10 đời chúa là:
Trịnh Tùng (1570-1670)
Trinh Tráng (1623-1657)
Trịnh Tạc (1657-1682)
Trịnh Căn (1682-1709)
Trịnh Cương (1709-1729)
Trịnh Giang (1729-1740)
Trịnh Doanh (1740-1767)
Trịnh Sâm (1767-1782)
Trịnh Cán (1782)
Trịnh Khải (1783-1786).
Lấy được Bắc Hà rồi, nhà Tây Sơn phân quyền lại: Nguyễn Nhạc làm Trung ương Hoàng Đế đóng đô ở Qui Nhon, Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ở đất Thuận Hóa, lấy đèo Hải Vân làm giới hạn. Riêng nhà Tây Sơn đã chia làm “ba nuớc”. Nhưng Nguyễn Lữ ở Gia Định thì không bao giờ vững và Nguyễn Ánh vẫn tự coi là chúa chính thống, còn Quy Nhơn và Thuận Hóa thì hiềm khích, có lúc Nguyễn Huệ đã kéo quân vào đánh Nguyễn Nhạc. Trong khi ấy, vua Lê còn thoi thóp ở Thăng Long và dùng Trịnh Bồng làm chúa. Lên được tấm bản đồ phân ranh hành chính của nước ta trong thời kỳ lắm vua nhiều chúa này thật không dễ[2].(Bản đồ 26)
Năm 1787, Nguyễn Huệ dứt bỏ nhà Lê nhưng vẫn đặt Giám quốc “để giữ tông miếu tiền triều”. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc xin cầu viện. Nhà Lê làm vua cả thảy được 360 năm (1428-1788). Tiếp theo Lê Thế Tông (đã chép ở một đoạn trên) là các vua:
Lê Kính Tông (1600-1619).
Lê Thần Tông (1619-1643) lần thứ nhất.
Lê Chân Tông (1643-1649).
Lê Thần Tông (1649-1662) lần thứ hai.
Lê Huyền Tông (1663-1671).
Lê Gia Tông (1672-1675).
Lê Hi Tông (1676-1705).
Lê Dụ Tông (1706-1729).
Lê Duy Phương (1729-1732).
Lê Thuần Tông (1732-1735).
Lê Ý Tông (1735-1740).
Lê Hiển Tông (1740-1786).
Lê Mẫn Đế (1787-1788) tức Chiêu Thống.
Đó là những vị vua ngồi làm vì, còn quyền bính đều trong tay họ Trịnh quyết đoán. Họ Trịnh suy thì nhà Lê cũng tàn.
Dân số Đàng Ngoài, ở niên đại 1750, có khoảng 4.000.000 người.
Quang Trung (1788-1792). Khi được tin quân Thanh mượn tiếng cứu Lê để xâm chiếm nước ta, Nguyễn Huệ tức vị xưng đế rồi đem quân ra Bắc để phá quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị bỏ hết ấn tín mà chạy (1789). Thắng mà không kiêu, Nguyễn Huệ biết lượng sức mình đối với Trung Quốc to gấp mấy chục lần nước ta, nên tạm hoãn binh và xin cầu phong. “Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho Quang Trung làm An Nam Quốc Vương[3]. Đó là tuóc hiệu mà “thiên triều” vẫn dùng để phong cho vua nuớc ta. Tuy ta tự xưng nước là Đại Việt nhưng Trung Quốc chỉ gọi ta là An Nam. Trên danh nghĩa, tước hiệu An Nam Quốc Vương là làm vua toàn quốc từ Nam chí Bắc, song thực tế thì lúc đó Nguyễn Ánh đã làm chủ Nam Bộ và Trung ương Hoàng Đế (tức Nguyễn Nhạc) vẫn còn làm chủ ở phía Nam Trung Bộ tới đèo Hải Vân.
Cảnh Thịnh (1792-1802) tức Nguyễn Quang Toản, lên nối ngôi cha, còn nhỏ tuổi không làm được gì, chứng kiến từ thất trận này đến thất trận khác, từ Nam ra Bắc và chỉ tồn tại được 10 năm. (Bản đồ 27) Và (Bản đồ 28)
[1] Phan Khoang, Xứ Đàng Trong 1558-1777. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Tr. 131-130
[2] Lê Thành Khôi, Le VietNam, histoire et civilisation. Les editions de Minuit. Paris, 1955. Bản đồ Le Đạí Việt en 1790, trang 528.
[3] Trần Trọng Kim, sdd, tr. 376.
Phần IV : Thời kỳ thống nhất lãnh thổ với quốc hiệu Việt Nam
1. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI TRlỀU NGUYỄN (1802-1945)
a. Giai đoạn độc lập (1802-1862)
Gia Long (1802-1819) tức Nguyễn Ánh, sau khi dứt được Tây Sơn, liền phái Lê Quang Định sang Trung Quốc cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt. Nhà Thanh chỉ nhận đổi quốc hiệu là Việt Nam và phong cho Nguyễn Anh là Việt Nam Quốc Vương (1804) . (Bản đồ 29)
Toàn quốc khi ấy chia làm 23 trấn và 4 dinh:
Bắc Thành gồm 11 trấn:
5. nội trấn:
1. Sơn Nam Thượng
2. Sơn Nam Hạ
3. Sơn Tây
4. Kinh Bắc
5. Hải Dương
1. Sơn Nam Thượng
2. Sơn Nam Hạ
3. Sơn Tây
4. Kinh Bắc
5. Hải Dương
6. ngoại trấn:
1. Tuyên Quang
2. Hưng Hóa
3. Cao Bằng
4. Lạng Sơn
5. Thái Nguyên
6. Quảng Yên
1. Tuyên Quang
2. Hưng Hóa
3. Cao Bằng
4. Lạng Sơn
5. Thái Nguyên
6. Quảng Yên
Gia Định Thành gồm 5 trấn:
1. Phiên An (địa hạt Gia Định)
2. Biên Hòa
3. Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang)
4. Định Tưòng
5. Hà Tiên
1. Phiên An (địa hạt Gia Định)
2. Biên Hòa
3. Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang)
4. Định Tưòng
5. Hà Tiên
Miền Trung gồm 7 trấn:
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Quảng Ngãi
4. Bình Định
5. Phú Yên
6. Bình Hòa (sau là Khánh Hòa)
7. Bình Thuận
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Quảng Ngãi
4. Bình Định
5. Phú Yên
6. Bình Hòa (sau là Khánh Hòa)
7. Bình Thuận
Kinh Kỳ thống quản 4 dinh:
1. Quảng Đức dinh (sau là Thừa Thiên)
2. Quảng Trị dinh
3. Quảng Bình dinh
4. Quảng Nam dinh
(Bản đồ 30)
1. Quảng Đức dinh (sau là Thừa Thiên)
2. Quảng Trị dinh
3. Quảng Bình dinh
4. Quảng Nam dinh
(Bản đồ 30)
Từ năm 1805, bắt đầu công cuộc lập địa bạ cho mỗi xã thôn trên toàn quốc, làm từ Bắc vào Nam. Đây là một công việc vĩ đại.
Dân số Việt Nam, ở niên đại 1802 đầu đời Gia Long, có khoảng 5.780.000 người.
Minh Mệnh (1820-1840) chủ trương tập quyền, chia cương vực ra làm 30 tinh và 1 phủ Thừa Thiên thuộc Kinh Kỳ.
1. Phủ Thùa Thiên
2. Lạng Sơn
3. Quảng Yên
4. Cao Bằng
5. Tuyên Quang
6. Thái Nguyên
7. Bắc Ninh
8. Hải Dương
9. Hưng Hóa
10. Sơn Tây
11. Hà Nội
12. Nam Định
13. Hưng Yên
14. Ninh Bình
15. Thanh Hóa
16. Nghệ An
17. Hà Tĩnh
18. Quảng Bình
19. Quảng Trị
20. Quảng Nam
21. Quảng Ngãi
22. Bình Định
23. Phú Yên
24. Khánh Hòa
25. Bình Thuận
26. Biên Hòa
27. Gia Định
28. Định Tường
29. Vĩnh Long
30. An Giang
31. Hà Tiên.
Đến năm 1836 thì Minh Mệnh hoàn thành công cuộc lập địa bạ trên toàn quốc (hiện còn lưu giữ được 10.044 tập gồm khoảng 15.000 quyển Địa bạ). Đó là một sưu tập vô giá để mô tả cương vục nuớc ta ở từng ngôi làng, từng mảnh ruộng đất.
Năm 1838, Minh Mệnh đổi tên nuớc là Đại Nam hoặc Đại Việt Nam .
Dân số Việt Nam ở cuối đời Minh Mệnh năm 1840 có khoảng 7.764.128 người.
2. Lạng Sơn
3. Quảng Yên
4. Cao Bằng
5. Tuyên Quang
6. Thái Nguyên
7. Bắc Ninh
8. Hải Dương
9. Hưng Hóa
10. Sơn Tây
11. Hà Nội
12. Nam Định
13. Hưng Yên
14. Ninh Bình
15. Thanh Hóa
16. Nghệ An
17. Hà Tĩnh
18. Quảng Bình
19. Quảng Trị
20. Quảng Nam
21. Quảng Ngãi
22. Bình Định
23. Phú Yên
24. Khánh Hòa
25. Bình Thuận
26. Biên Hòa
27. Gia Định
28. Định Tường
29. Vĩnh Long
30. An Giang
31. Hà Tiên.
Đến năm 1836 thì Minh Mệnh hoàn thành công cuộc lập địa bạ trên toàn quốc (hiện còn lưu giữ được 10.044 tập gồm khoảng 15.000 quyển Địa bạ). Đó là một sưu tập vô giá để mô tả cương vục nuớc ta ở từng ngôi làng, từng mảnh ruộng đất.
Năm 1838, Minh Mệnh đổi tên nuớc là Đại Nam hoặc Đại Việt Nam .
Dân số Việt Nam ở cuối đời Minh Mệnh năm 1840 có khoảng 7.764.128 người.
Thiệu Trị (1841-1847).
Tự Đức (1847-1883). Về đại thể, cho đến năm 1862, vẫn giữ nguyên tổ chức hành chính như trên.
b. Từ khi bị Pháp đô hộ (1862-1945)
Quân Pháp đánh phá Đà Nang năm 1858, chiếm Sài Gòn năm 1859. Huế phải ký nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Năm 1883, Pháp chiếm Bắc Kỳ, rồi Huế và miền Trung. Các ngôi vua triều Nguyễn sau Tự Đúc đều mất quyền tự chủ, việc chính trị phải theo Pháp xếp đặt:
1. Dục Đức (1883)
2. Hiệp Hòa (1883)
3. Kiến Phước (1884)
4. Hàm Nghi (1884-1885)
5. Đồng Khánh (1885-1888)
6. Thành Thái (1889-1907)
7. Duy Tân (1907-1916)
8. Khải Định (1916-1925)
9. Bảo Đại (1925-1945)
2. Hiệp Hòa (1883)
3. Kiến Phước (1884)
4. Hàm Nghi (1884-1885)
5. Đồng Khánh (1885-1888)
6. Thành Thái (1889-1907)
7. Duy Tân (1907-1916)
8. Khải Định (1916-1925)
9. Bảo Đại (1925-1945)
Pháp bỏ quốc hiệu Việt Nam, Đại Nam hay Đại Việt Nam, và chia cương vực nước ta thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Đó là:
Annam hay Trung Kỳ
Tonkin hay Bắc Kỳ
Cochinchine hay Nam Kỳ
Tonkin hay Bắc Kỳ
Cochinchine hay Nam Kỳ
Bắc Kỳ gồm 27 tỉnh và 2 thành phố:
1. Thành phố Hà Nội
2. Thành phố Hải Phòng
3. Bắc Giang
4. Bắc Ninh
5. Hà Đông
6. Hải Dương
7. Hà Nam
8. Hưng Yên
9. Kiến An
10. Nam Định
11. Ninh Bình
12. Phúc Yên
13. Phú Thọ
14. Quảng Yên
15. Sơn Tây
16. Thái Bình
17. Thái Nguyên
18. Tuyên Quang
19. Vĩnh Yên
20. Yên Báy
21. Bắc Cạn
22. Cao Bằng
23. Hà Giang
24. Hòa Bình
25. Lạng Sơn
26. Lào Kay
27. Lai Châu
28. Móng Cáy
29. Sơn La
Trung Kỳ gồm 16 tỉnh:
1. Nghệ An
2. Hà Tĩnh
3. Thanh Hóa
4. Quảng Trị
5. Quảng Bình
6. Thừa Thiên
7. Quảng Ngãi
8. Bình Định
9. Phú Yên
10. Nha Trang
11. Phan Rang
12. Quảng Nam
13. Phan Thiết
14. Đồng Nai Thượng
15. Kontum
16. Darlac
2. Thành phố Hải Phòng
3. Bắc Giang
4. Bắc Ninh
5. Hà Đông
6. Hải Dương
7. Hà Nam
8. Hưng Yên
9. Kiến An
10. Nam Định
11. Ninh Bình
12. Phúc Yên
13. Phú Thọ
14. Quảng Yên
15. Sơn Tây
16. Thái Bình
17. Thái Nguyên
18. Tuyên Quang
19. Vĩnh Yên
20. Yên Báy
21. Bắc Cạn
22. Cao Bằng
23. Hà Giang
24. Hòa Bình
25. Lạng Sơn
26. Lào Kay
27. Lai Châu
28. Móng Cáy
29. Sơn La
Trung Kỳ gồm 16 tỉnh:
1. Nghệ An
2. Hà Tĩnh
3. Thanh Hóa
4. Quảng Trị
5. Quảng Bình
6. Thừa Thiên
7. Quảng Ngãi
8. Bình Định
9. Phú Yên
10. Nha Trang
11. Phan Rang
12. Quảng Nam
13. Phan Thiết
14. Đồng Nai Thượng
15. Kontum
16. Darlac
Nam Kỳ gồm 20 tỉnh, 3 thành phố và 1 khu đảo:
1. Thành phố Sài Gòn
2. Thành phố Chợ Lớn
3. Thành phố Vũng Tàu
4. Khu đảo Côn Lôn
5. Rạch Giá
6. Hà Tiên
7. Gò Công
8. Châu Đốc
9. Sóc Trăng
10. Gia Định
11. Long Xuyên
12. Vĩnh Long
13. Tây Ninh
14. Sa Đéc
15. Chợ Lớn
16. Thủ Dầu Một
17. Cần Thơ
18. Bạc Liêu
19. Biên Hoa
20. Mỹ Tho
21. Trà Vinh
22. Bà Rịa
23. Tân An
24. Bến Tre.
1. Thành phố Sài Gòn
2. Thành phố Chợ Lớn
3. Thành phố Vũng Tàu
4. Khu đảo Côn Lôn
5. Rạch Giá
6. Hà Tiên
7. Gò Công
8. Châu Đốc
9. Sóc Trăng
10. Gia Định
11. Long Xuyên
12. Vĩnh Long
13. Tây Ninh
14. Sa Đéc
15. Chợ Lớn
16. Thủ Dầu Một
17. Cần Thơ
18. Bạc Liêu
19. Biên Hoa
20. Mỹ Tho
21. Trà Vinh
22. Bà Rịa
23. Tân An
24. Bến Tre.
Tính chung Bắc Kỳ có 37 phủ, 88 huyện, 38 châu. Phủ không còn quản huyện như xưa. Nơi nào to gọi là phủ, nơi nhỏ gọi huyện. Châu cũng như huyện, nhưng ở các vùng có dân tộc thiểu số. Gồm 1.264 tống, 10.105 xã, 29 mường, 2.141 bản. Mường và bản cũng chỉ đặt ở những nơi có đồng bào dân tộc. Trên vùng biên giới lại có 4 đạo quan binh.
Tính chung ở Trung Kỳ có 3 đạo (đạo cao hơn phủ), 33 huyện, 58 huyện, 541 tổng và 9.093 xã. Có 6 thành phố là Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng (nhượng cho Pháp), Qui Nhơn và Đà Lạt.
Tính chung ở Nam Kỳ có 78 quận (không còn chia ra làm hai cấp phủ huyện như ở Bắc và Trung Kỳ), 197 tổng Kinh và 10 tổng Thượng, 1.470 xã (không phân biệt thôn và xã nữa) .
Đó là tình hình nước ta: không còn quốc hiệu, và cương vực thì bị chia cắt thiếu thống nhất, suốt thời gian bị Pháp thống trị.
Dân số nước Việt Nam thời thuộc Pháp:
Dân số nước Việt Nam thời thuộc Pháp:
Năm 1870 có khoảng 10.000.000 người
Năm 1901 – 13.000.000 người
Năm 1943 – 22.600.000 người
Năm 1901 – 13.000.000 người
Năm 1943 – 22.600.000 người
2. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
Sau Cách mạng mùa thu, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945. Đầu năm 1946, họp Quốc hội và thành lập nuớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hiệu Việt Nam lại xuất hiện rạng rỡ hơn hổi đầu thế kỷ 19. Nhưng từ 23-9-1945, thực dân Pháp xua quân đánh chiếm Sài Gòn và một số địa điểm khác ở miền Nam. Cuối năm 1946, Pháp đánh chiếm Hà Nội và một số địa điểm khác trên toàn quốc. Cuộc kháng chiến bắt đầu trên phạm vi cả nước. Cương vực nước ta phải cắt thành những “khu” và “liên khu” quân sự để đáp ứng nhu cầu kháng chiến. Những tỉnh, phủ, huyện cũ đuợc chia cắt hoặc dồn nhập cho thích ứng với các khu và quân khu. Tình hình diên cách lúc này hết sức phức tạp, muốn nghiên cứu kỹ, thường phải dựa trên những tư liệu hồi ký, vì thiếu các văn bản pháp qui liên tục.
Hiệp định Genève 1954 lấy sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời cho việc chuyển quân và dự tính đến năm 1956 thì Hiệp Thương thống nhất đất nước. Nhưng miền Nam với chiến lược của Hoa Kỳ, không thi hành Hiệp định và tổ chức chính quyền riêng với danh xưng Việt Nam Cộng hòa, tồn tại tới năm 1975. Sau đây là tình hình phân ranh hành chính của hai miền trong thời gian đó:
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Thủ đô: Hà Nội
Khu tự trị Việt Bắc, 6 tỉnh:
1. Hà Giang
2. Bắc Cạn
3. Cao Bằng
4. Thái Nguyên
5. Tuyên Quang
6. Lạng Sơn
Khu tự trị Thái-Mèo, 2 tỉnh:
1. Lai Châu
2. Sơn La
Khu đặc biêt, 1 tỉnh:
1. Hồng Quảng
Thành phố trực thuộc Trung ương:
2. Hải Phòng
Các tỉnh trực thuộc Trung ương, 21 tỉnh:
1. Lào Cai
2. Bắc Ninh
3. Hà Đông
4. Yên Bái
5. Bắc Giang
6. Hòa Bình
7. Phú Thọ
8. Hải Ninh
9. Hà Nam
10. Sơn Tây
11. Hải Dương
12. Thái Bình
13. Vĩnh Phúc Yên
14. Hưng Yên
15. Kiến An
16. Ninh Bình
17. Thanh Hóa
18. Hà Tình
19. Nam Định
20. Nghệ An
21. Quảng Bình
Trên đây là tình hình phân ranh ở miền Bắc hồi 1962. Cũng ở thời điểm đó, miền Nam tình hình phân ranh hành chính như sau:
Thủ đô: Hà Nội
Khu tự trị Việt Bắc, 6 tỉnh:
1. Hà Giang
2. Bắc Cạn
3. Cao Bằng
4. Thái Nguyên
5. Tuyên Quang
6. Lạng Sơn
Khu tự trị Thái-Mèo, 2 tỉnh:
1. Lai Châu
2. Sơn La
Khu đặc biêt, 1 tỉnh:
1. Hồng Quảng
Thành phố trực thuộc Trung ương:
2. Hải Phòng
Các tỉnh trực thuộc Trung ương, 21 tỉnh:
1. Lào Cai
2. Bắc Ninh
3. Hà Đông
4. Yên Bái
5. Bắc Giang
6. Hòa Bình
7. Phú Thọ
8. Hải Ninh
9. Hà Nam
10. Sơn Tây
11. Hải Dương
12. Thái Bình
13. Vĩnh Phúc Yên
14. Hưng Yên
15. Kiến An
16. Ninh Bình
17. Thanh Hóa
18. Hà Tình
19. Nam Định
20. Nghệ An
21. Quảng Bình
Trên đây là tình hình phân ranh ở miền Bắc hồi 1962. Cũng ở thời điểm đó, miền Nam tình hình phân ranh hành chính như sau:
VIỆT NAM CỘNG HÒA
Đô thành: Sài Gòn
Trung nguyên Trung Phần, 10 tỉnh:
1. Quảng Trị
2. Bình Định
3. Thừa Thiên
4. Phú Yên
5. Quảng Nam
6. Khánh Hòa
7. Quảng Tín
8. Ninh Thuận
9. Quảng Ngãi
10. Bình Thuận
Đô thành: Sài Gòn
Trung nguyên Trung Phần, 10 tỉnh:
1. Quảng Trị
2. Bình Định
3. Thừa Thiên
4. Phú Yên
5. Quảng Nam
6. Khánh Hòa
7. Quảng Tín
8. Ninh Thuận
9. Quảng Ngãi
10. Bình Thuận
Cao nguyên Trung Phần, 7 tỉnh:
1. Kontum
2. Quảng Đúc
3. Pleiku
4. Tuyên Đúc
5. Phú Bổn
6. Lâm Đồng
7. Darlac
Miền Đông Nam Phần, 11 tỉnh:
1. Bình Tuy
2. LongKhánh
3. Phước Thành
4. Phước Long
5. Bình Long
6. Biên Hòa
7. Phuớc Tuy
8. Gia Định
9. Bình Duong
10. Tây Ninh
11. Côn Sơn
Miền Tây Nam Phần, 13 tỉnh:
1. Long An
2. Kiến Tưòng
3. Định Tường
4. Kiến Phong
5. Kiến Hòa
6. Vĩnh Long
7. An Giang
8. Vĩnh Bình
9. Phong Dinh
10. Chưong Thiện
11. Kiên Giang
12. Ba Xuyên
13. An Xuyên
1. Kontum
2. Quảng Đúc
3. Pleiku
4. Tuyên Đúc
5. Phú Bổn
6. Lâm Đồng
7. Darlac
Miền Đông Nam Phần, 11 tỉnh:
1. Bình Tuy
2. LongKhánh
3. Phước Thành
4. Phước Long
5. Bình Long
6. Biên Hòa
7. Phuớc Tuy
8. Gia Định
9. Bình Duong
10. Tây Ninh
11. Côn Sơn
Miền Tây Nam Phần, 13 tỉnh:
1. Long An
2. Kiến Tưòng
3. Định Tường
4. Kiến Phong
5. Kiến Hòa
6. Vĩnh Long
7. An Giang
8. Vĩnh Bình
9. Phong Dinh
10. Chưong Thiện
11. Kiên Giang
12. Ba Xuyên
13. An Xuyên
Ở Trung Phần bắt đầu bỏ các danh xưng phủ huyện mà dùng đơn vị quận như ở Nam Kỳ dưới thời Pháp. Tính chung miền Nam khi ấy chia ra 228 quận, 339 tống, 2.547 xã và 16.243 ấp . Có thể dễ dàng nhận thấy cấp tổng để lơi lỏng, cấp xã và ấp mất dần quyền tự trị.
Ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, từ 1960 đến 1975, tình hình phân bổ hành chính không giữ nguyên như bảng kê trên mà thay đổi khá nhiều, cần có thêm những bảng thống kê và chú thích hơn nữa mới nắm hết được quá trình diên cách.
Năm 1962, dân số Việt Nam có khoảng 31.275.000 người (miền Bắc có 17.000.000 và miền Nam có 14.275.000 người).
Năm 1962, dân số Việt Nam có khoảng 31.275.000 người (miền Bắc có 17.000.000 và miền Nam có 14.275.000 người).
3. CƯƠNG VỰC NƯỚC CỘNG HỔA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Ngày 30-4-1975 giải phóng Sài Gòn, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cuối năm, tiến hành Hiệp thương Thống nhất. Đầu năm 1976, quốc hội khóa VI thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó đến nay, nhiều tên và địa phận các đơn vị hành chính đã đuợc thay đổi. Như từ năm 1976, cả nuớc chia ra 40 tỉnh, năm 1992 chia ra 53 tỉnh, năm 1997 chia ra 61 tỉnh và từ năm 2003 chia ra 64 tỉnh (59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương). Dưới đây là thống kê 64 tỉnh thành vừa kể:
(Bản đồ 31)
(Bản đồ 31)
DIỆN TÍCH, DÂN SỐ, MẬT ĐỘ DÂN CƯ CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ
Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi truòng và Tổng cục Thông kê năm 2003.
Số liệu các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Hậu Giang, Lai Châu, Cần Thơ, Lào Cai, theo Nghị quyết 22/2003/QH 11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội
STT
|
Tên tỉnh
|
Diện tích (km2)
|
Dân số (nghìn người)
|
Mật độ
dân số
|
CẢ NƯỚC. | 329.314,56 | 80.930,200 | 246 | |
1. | VÙNG TÂY BĂC | |||
1 | Lai Châu | 9.065,12 | 313,511 | 35 |
2 | Điện Biên | 9.554,10 | 440,300 | 46 |
3 | Sơn La | 1.4055,00 | 955,400 | 68 |
4 | Hòa Bình | 4.662,54 | 792,300 | 170 |
II. | VÙNG ĐÔNG BẮC | |||
5 | Hà Giang | 7.884,37 | 648,100 | 82 |
6 | Cao Bắng | 6.690,72 | 503,000 | 75 |
7 | Lào Cai | 6.357,08 | ■ 547,106 | 86 |
8 | Yên Bái | 6.882,92 | 713,000 | 104 |
9 | Phú Thọ | 3.519,65 | 1.302,700 | 370 |
10 | Tuyên Quang | 5.868,00 | 709,400 | 121 |
11 | Băc Cạn | 4.857,21 | 291,700 | 60 |
12 | Thái Nguyên | 3^42,64 | 1.085,900 | 307 |
13 | Lạng Sơn | 8.305,21 | 724,300 | 87 |
14 | Băc Giang | 3.822,70 | 1.547,100 | 405 |
1′, | Quảng Ninh | 5.899,58 | 1.055,600 | 179 |
III. | VÙNG ĐỒNG BẮNG SÔNG HỐNG | |||
16 | Thành phố Hà Nội | 920,98 | 3.007,000 | 3.265 |
17 | Thành phố Hải Phòng | 1.526,30 | 1.754,100 | 1.149 |
18 | Vĩnh Phúc | 1.371,41 | 1.142,900 | 833 |
19 | Há Tây | 2.192,08 | 2.479,400 | 1.131 |
20 | Bắc Ninh | 807,57 | 976,700 | 1.209 |
21 | Hưng Yên | 923,09 | 1.112,400 | 1.205 |
22 | Hải Dương | 1.648,37 | 1.689,200 | 1.025 |
23 | Hà Nam | 852,17 | 814,900 | 956 |
24 | Thái Bình | 1.545,42 | 1.831,100 | 1.185 |
25 | Nam Định | 1.641,33 | 1.935,000 | 1.179 |
26 | Ninh Bình • | 1.383,72 | 906,000 | 655 |
IV. | VÙNG BẮC TRUNG BỘ | |||
27 | Thanh Hóa | 11.116,34 | 3.620,300 | 326 |
28 | Nghệ An | 16.487,39 | 2.977,300 | 181 |
29 | Há Tĩnh | 6.055,64 | 1.283,900 | 212 |
30 | Quảng Bình | 8.051,86 | 818,300 | 102 |
31 | Quảng Trị | 4.745,74 | 608,500 | 128 |
32 | Thừa Thiên-Huế | 5.053,99 | 1.101,700 | 218 |
V. | VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ | |||
33 | Thành phố Đà Nắng | 1.255,53 | 747,100 | 595 |
34 | Quảng Nam | 10.407,42 | 1.438,800 | 138 |
35 | Quảng Ngãi | 5.137,62 | 1.250,300 | 243 |
36 | Bình Định | 6.025,06 | 1.530,300 | 254 |
37 | Phú Yên | 5.045,31 | 836,700 | 166 |
38 | Khánh Hòa | 5.198,21 | 1.096,600 | 211 |
39 | Ninh Thuận | 3.360,07 | 546,100 | 163 |
40 | Bình Thuận | 7.828,46 | 1.120,200 | 143 |
VI. | VÙNG TÂY NGUYÊN | |||
41 | Kon Tum | 9.614,50 | 357,400 | 37 |
42 | Gia Lai | 15.494,88 | 1.075,200 | 69 |
43 | Đắk Lắk | 13.062,01 | 1.666,854 | 128 |
44 | Đắk Nông | 6.514,38 | 363,118 | 56 |
45 | Lâm Đồng | 9.764,79 | 1.120,100 | 115 |
VII. | VÙNG ĐÔNG NAM BỘ | |||
46 | Thành phố Hồ Chí Minh | 2.095,24 | 5.554,800 | 2.651 |
47 | Bình Phước | 6.857,35 | 764,600 | 112 |
48 | Tây Ninh | 4.029,60 | 1.017,100 | 252 |
49 | Bình Dương | 2.695,55 | 851,100 | 316 |
50 | Đống Nai | 5.894,78 | 2.142,700 | 363 |
51 | Bà Rịa-Vũng Tàu | 1.982,25 | 884,900 | 446 |
VIII. | VÙNG ĐỐNG BĂNG SỐNG cửu LONG | |||
52 | Thảnh phô’ cần Thơ | 1.389,60 | 1.112,121 | 800 |
53 | Long An | 4.491,22 | 1.392,300 | 310 |
54 | Đổng Tháp | 3.246,07 | 1.626,100 | 501 |
55 | An Giang | 3.406,23 | 2.146,800 | 630 |
56 | Tiến Giang | 2.366,63 | 1.660,200 | 702 |
57 | Bến Tre | 2.321,62 | 1.337,800 | 576 |
58 | Vĩnh Ị.ong | 1.475,20 | 1.036,100 | 702 |
59 | Kiên Giang | 6.268,17 | 1.606,600 | 256 |
60 | Hậu Giang | 1.607,73 | 766,105 | 477 |
61 | Trà Vinh | 2.215,15 | 1.002,600 | 453 |
62 | Sóc Trăng | 3.223,30 | 1.234,300 | 383 |
63 | Bạc Liêu | 2.525,74 | 775,900 | 307 |
64 | Cà Mau | 5.201,53 | 1.181,200 | 227<[1]> |
Vậy là cả nước có 59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung Ương.
[1] Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hà Nội, 2005.
LỜI TỰAKhi soạn thảo tập sách nhỏ này với nhan đề Việt Nam Quốc Hiệu và Cương Vực qua các thời đại ngoài các bộ Chính sử, tôi mạn phép sử dụng tư liệu đã công bố của các nhà sử học lớn như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Phan Khoang, Phan Huy Lê, Lê Thành Khôi, Bửu Cầm, v.v…Đây là dề tài cần nhiều bản đồ hay sơ đồ minh họa, đặc biệt khi nói về cương vực. Tôi chỉ vẽ thêm những sơ đồ thiết yếu mà các sử gia trên chưa vẽ, -hoặc có sửa chữa đôi ba địa danh không thích hợp với tình thế hiện đại. Đường biên giới trong các sơ đồ hầu hết là phỏng định, đôi khi dùng đường biên giới ‘lịch sử” ngày nay cốt để dễ nhận định vị trí. Xin độc giả coi đây là những sơ đồ chỉ mang tính hưóng dẫn đại khái, nhất là đối với những sơ đồ vẽ theo tỷ lệ quá nhỏ.Cũng xin độc giả thông cảm cho: trong tập này chúng tôi không đề cập đến các mặt lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội hay văn hóa dẫu có liên quan gần xa tới vấn đề Quốc Hiệu và Cương Vực. Tuy nhiên tất cả các họ cầm quyền, các vua chúa trị vì, các chế độ chính trị, từ thời Hồng Bàng đến nay, đều được ghi chép theo diễn biến thời gian.Dân số là vấn đề cực kỳ nan giải trong quá trình phát triển của dân tộc ta. Chúng tôi đã dựa vào những thống kê được lập chủ yếu từ đầu thế kỷ XX rồi ngược dòng lịch sử để phỏng tính rất đại khái ở mỗi thời điểm về trước.Nay xin trình bày với quý học giả và độc giả tập sách nhò này. Chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Tôi thành thật cám ơn quý vị sẽ chỉ bảo cho những gì còn sai sót hay cần bổ sung.TP.HCM, mùa thu năm 1999NGUYỄN ĐÌNH ĐẦUCHỮ VIẾT TẮT
Đại Nam thực lục ĐNTL Khâm Định Việt sử KĐVS Việt Nam Sử lược VNSL Lịch sử Việt Nam 1 LSVN Đào Duy Anh ĐDA Bửu Cầm BC Lê Thành Khôi LTK Trần Trọng Kim TTK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét