16/05/2015

ĐỪNG TƯỞNG

(Thơ dân gian)

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ trên là sáng cứ tu là hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc không trông là mù

Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình

Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời
Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than

***
Đừng tưởng cứ nốc là say
Cứ hứa là thật, cứ tay là cầm
Đừng tưởng cứ giặc - ngoại xâm
Cứ bè là bạn, cứ dân là lành
Đừng tưởng cứ trời là xanh
Cứ đất và nước là thành quê hương

Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại, cứ hôn... là chồng
Đừng tưởng chẳng có thì không
Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà
Đừng tưởng chẳng gần thì xa
Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người
Đừng tưởng chẳng khóc thì cười
Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi
Đừng tưởng sau nhất là nhì
Gần quan là tướng, gần suy là hèn
Đừng tưởng cứ sáng là đèn
Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường

Đừng tưởng cứ đẹp là thương
Cứ xấu là ghét, cứ vương là tình
Đừng tưởng cứ ghế là vinh
Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền
Đừng tưởng cứ cố là lên
Cứ lỳ là chắc, cứ bên là gần
Đừng tưởng cứ đều là cân
Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ
Đừng tưởng cứ vần là thơ
Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh
Đừng tưởng cứ vội thì nhanh
Cứ tranh là được, cứ giành thì hơn
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo

Đừng tưởng cứ bến là neo
Cứ suối là lội, cứ đèo là qua
Đừng tưởng chồng mẹ là cha
Cứ khóc là khổ cứ la là phiền
Đừng tưởng cứ hét là điên
Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay
Đừng tưởng cứ rượu là say
Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều
Đừng tưởng tỏ tình là yêu
Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư

***
Đừng tưởng đi là sẽ chơi
Lang thang dạo phố vào nơi hư người
Đừng tưởng vui thì sẽ cười
Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa
Đừng tưởng cứ mực là bia
Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ...
Đừng tưởng cứ gió là mưa
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn...
Đừng tưởng thu là lá tuôn
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.

Đừng tưởng cứ thích là yêu
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng tình chẳng lung lay
Chỉ một giấc ngủ, chẳng may ... có bầu.
Đừng tưởng cứ cầu là hên,
Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.
Đừng tưởng vua là anh minh,
Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng tìm bạn tri âm,
Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm,
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.

***
Đừng tưởng cười nói ân cần,
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao
Đừng tưởng khó nhọc gian lao
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm
Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ
Đừng tưởng mưa gió ầm ì
Ngày thì đã hết trời dần về đêm
Đừng tưởng nắng gió êm đềm
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên
Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn

Đừng tưởng rằm sẽ có trăng
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nước là trong
Cứ than là hắc, cứ sao là vàng
Đừng tưởng cứ củi là than
Cứ quan là có, cứ dân là nghèo
Đừng tưởng cứ khúc là eo
Cứ lúc là mạc, cứ sang là giầu
Đừng tưởng cứ thế là khôn!
Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình
Đừng tưởng lời nói là tiền
Có khi là những oán hận chưa tan
Đừng tưởng dưới đất có vàng
Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời

***
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
Đời người lục thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên...!

14/05/2015

Miền Bắc năm 1965

   Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Italia Romano Cagnoni đã ghi lại những hình ảnh rất sinh động và chân thực trong chuyến thăm miền Bắc Việt Nam 1965.
Các cụ bà bán vòng hoa tang và rau bên bờ hồ Gươm ở Hà Nội.
  Xe bò chạy qua Ngân hàng Nhà nước ở gần bờ hồ.
  Trong cửa hàng bách hóa tổng hợp ở Hà Nội.
  Dân quân thuộc hợp tác xã nông nghiệp Hồng Kỳ: Cụ Lê Văn Thân, cậu học sinh Bùi Văn Nguyên và nữ nông dân Lê Thị Nga. Hầu hết nam thanh niên ở nông thôn miền Bắc đã ra trận, chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em ở nhà.
  Một nhóm dân quân tập luyện quân sự.
  Một đơn vị dân quân tự vệ của miền Bắc Việt Nam.
  Người nông dân miền Bắc vác trên vai mảnh xác máy bay ném bom B-50 của Mỹ.
  Các thợ mỏ nói chuyện với nhau tại mỏ than lộ thiên ở Cẩm Phả.
 Hai vợ chống và đứa con đạp xe qua một khu dân cư bị Mỹ ném bom.
  Người dân và tụ tập quanh mảnh xác máy bay Mỹ vừa bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc.
  Bé gái và cha lấp ló bên miệng hầm trú ẩn.
  Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Phủ Chủ tịch.
  Bức ảnh màu hiếm có về hai nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1965.

11/05/2015

PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT ĐỂ ĐƯỢC NHẤT TÂM BẤT LOẠN


(Đã đăng trên báo TẬP SAN VÔ ƯU
của GIÁO HỘI PHẬT GIÁO TỈNH DAKLAK)


Trong kinh Tiểu Bổn A Di Đà, Đức Phật có dạy: “muốn được vãng sanh về Tịnh Độ của Đức PHẬT A DI ĐÀ, người tu phải đáp ứng ba điều kiện dưới đây:

1.-Phước đức và căn lành phải lớn (nguyên văn: Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc).
2.-Niệm Phật cho được “Nhất Tâm Bất Loạn” từ một ngày cho tới bảy ngày. (Nguyên văn: Chấp trì danh hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt “Nhấ t Tâm Bất Loạn”).
3.-Khi sắp lâm chung tâm không điên đảo. (Nguyên văn: Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A DI ĐÀ PHẬT dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo (=không loạn động), tức đắc vãng sanh A DI ĐÀ PHẬT, Cực Lạc quốc độ)”.

Để đáp ứng cho một trong ba điều kiện nêu trên, chúng tôi hân hạnh giới thiệu “Phương pháp niệm Phật để được Nhất Tâm Bất Loạn” như sau:

1.-Ngồi kiết già hay bán già hoặc xếp bằng.
2.-Hai mắt nhắm lại (vừa khít thôi).
3.-Không quán tưởng.
4.-Không nhớ đến Phật và Bồ Tát.
5.-Không lần chuổi.
6.-Trong tâm liên tục mặc niệm (niệm thầm trong tâm) 4 chữ “A DI ĐÀ PHẬT” hay 6 chữ: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, mỗi chữ khoảng một giây đồng hồ.
7.-Trong khi đang mặc niệm 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT, người tu dùng con mắt tâm (tâm nhãn) quan sát trong thân (từ hai vai xuống tới rún) xem coi 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT khởi lên ở chỗ nào. Khi nước tâm (tâm thủy) lóng trong người tu sẽ thấy được Điểm Niệm Phật (chỗ 4 chữ A Di Đà Phật khởi lên).
(Chú ý: Nếu người tu mặc niệm vài ba câu rồi ngừng lại để tìm Điểm Niệm Phật thì không thể thấy được, vì Điểm Niệm Phật đã tan rồi. Phải vừa mặc niệm vừa tìm, mới thấy được).
8.-Khi thấy được Điểm Niệm Phật rồi, người tu tập trung sự CHÚ Ý (CON MẮT TÂM) nhìn thẳng ngay vào Điểm Niệm Phật, giống như con mèo rình chuột vậy, không được lơi lỏng.
9.-Trong khi vừa mặc niệm vừa chú ý, vừa chú ý vừa mặc niệm một cách miên mật (như mèo rình chuột), người tu sẽ phát hiện có ý nghĩ nầy hay ý nghĩ nọ (tạp niệm) khởi lên xen vào, thì nên biết rằng mình Niệm Phật chưa được “Nhất Tâm Bất Loạn”.
10.-Để được “Nhất Tâm Bất  Loạn”, người tu chỉ cần Chú ý kỹ và mạnh hơn một chút, rồi một chút nữa (cái khéo léo của người tu nằm tại chỗ nầy) cho đến khi nào thấy không có một ý nghĩ nào khởi lên hay xẹt ra được nữa, chỉ còn lại 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT mà thôi. Như vậy, là Niệm Phật được “Nhất Tâm Bất Loạn rồi vậy. (Chú ý: Đừng chú ý mạnh quá sau khi nghĩ dụng công sẽ nặng đầu).

Pháp niệm Phật nầy còn có tên khác là “Pháp Cột  Tâm Một Chỗ” (Chế tâm nhứt xứ) dù là người mới bắt đầu lần thứ nhứt, chỉ cần một thời gian ngắn là có thể đạt đến chỗ “Nhất Tâm Bất Loạn”.

Pháp nầy có hai tác dụng: thu hút vọng tưởng tạp niệm và tẩy rửa tâm linh sạch sẽ. Do đó, người mới bắt đầu tu tập mỗi lần dụng công chừng nữa giờ (30 phút), ngày vài lần, cộng chung lại khoảng hai, ba tiếng đồng hồ là được. Còn những người đã từng ngồi được từ một tiếng đồng hồ trở lên, thì mỗi lần dụng công từ 50 đến 60 phút, tổng cộng đúng 3 giờ hay 4 giờ, dành cho một ngày.

Đã có rất nhiều người nhờ tu pháp nầy mà được lợi ích thiết thực trong việc tu hành. Nếu như có vị nào không tin, hãy tu thử vài tuần lễ xem sao, vì đâu có tốn đồng xu cắc bạc nào mà sợ.

------
GHI CHÚ:
-Mặc niệm hay niệm thầm trong tâm là tu trong tâm. Còn mở miệng niệm Phật là lìa tâm mà tu.
-Nhắm mắt thấy tâm, mở mắt thấy cảnh.

Thiền Sư THÍCH THANH PHƯỚC

NHƯ THẾ NÀO LÀ THÀNH ĐẠO?

 (Đã đăng trên báo NỘI SAN VÔ ƯU năm Tân Tỵ 2001
của GIÁO HỘI PHẬT GIÁO TỈNH DAKLAK )



Để trả lời câu hỏi nêu trên, trước hết xin mời các bạn lưu ý câu chuyện Thái Tử Sĩ Đạt Ta thành Đạo như sau:



-Cách đây 2544 năm, Thái Tử sĩ Đạt Ta (shiddharta) con Vua Tịnh Phạn, lìa bỏ tất cả, trốn khỏi hoàng cung vào ở trong rừng để tu hành, vì những lý do như sau:



1.-Thấy biết rõ “ngũ dục lạc thế gian (Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy) không bao giờ làm cho con người thỏa mãn được. Bởi vì “nước dâng thuyền cao”.
2.-Thấy Sanh – Lão – Bệnh – Tử là những nỗi thống khổ của con người, không có một ai tránh khỏi!
3.-Chỉ có tu hành mới mở được cái “Gút Chết” của Sanh – Lão – Bệnh – Tử, để cứu mình và cứu người thoát ly biển khổ sanh tử mà thôi.



Sau khi cạo bỏ râu tóc, Thái Tử đã lặn lội khắp nơi để tìm thầy học Đạo, nhưng không gặp được một vị cao nhân nào cả! Cho đến một hôm, Thái Tử tình cờ gặp được năm anh em ông Kiều Trần Như. Do nhân duyên đó, Thái Tử bắt đầu tu tập khổ hạnh bằng cách mỗi ngày chỉ ăn có một hạt mè mà thôi!
Theo kinh sách để lại, vì Thái Tử tu tập khổ hạnh như vậy, nên thân thể của Thái Tử chỉ còn da bọc xương, hễ rờ trước bụng là đụng sau lưng, còn rờ sau lưng là đụng trước bụng! Thế mà, Thái Tử vẫn không chút sờn lòng nản chí trong công việc tiến tu!



Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, từ ngày Thái Tử xuất gia tính đến nay đã gần 6 năm rồi! Một hôm, nghe có hai vị đạo sư nổi tiếng đương thời: Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, Thái Tử liền lập tức tìm đến nơi, học hỏi với ông Alara Kalama không bao giờ là chứng đạt được Vô Sở hữu xứ. Kế đó, Ngài đang học với ông Uddaka Ramaputta cũng chỉ với thời gian ngắn là chứng đạt được Phi tưởng phi phi tưởng xứ.



Nhưng, lúc bấy giờ Thái Tử lại nhận thấy pháp tu của vị thầy nói trên không có đủ khả năng mở cái “Gút Chết” của Sanh – Lão – Bệnh – Tử, nên Thái Tử lại bỏ ra đi, đến vùng núi Dungsiri thuộc vùng Uruvela , ngồi dưới gốc cây Pippala (Bồ Đề) tự mình dụng công để thân chứng cho được những ảo bí trong tâm. Thái Tử cứ tu tập như vậy cho đến ngày thứ 49, vào buổi sáng sớm ngày mùng 8 tháng chạp (12) năm 544 trước Công Nguyên. Ngài liền được Đại Ngộ (Triệt Ngộ) khi Sao Mai vừa mới mọc ở phĩa Đông. Thế là Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã được Thành Đạo (= thành Phật), Ngài trịnh trọng tuyên bố rằng:



Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai. Nhưng vì Vọng tưởng chấp trước nên không chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì Vô sư Trí, Nhứt Thiết Trí… sẽ hiện bày, tha hồ mà thọ dụng”.



Sao? Giờ đây, đọc lại câu chuyện nói về việc Thành Đạo của Thái Tử Sĩ Đạt Ta, các bạn thấy thế nào và có cảm nghĩ gì?



Có phải chăng, Thái Tử Sĩ Đạt Ta nhờ Tọa Thiền (Tu Tâm) nên được Ngộ Đạo, Chứng Đạo và Thành Đạo (Thành Phật)? Vì lý do gì hay nguyên nhân nào mà Đức Thế Tôn mở bày chỉ rõ cho mọi người biết chỗ tu chứng của Ngài, vừa khi Thành Đạo?



Cũng xin được hỏi, tại sao bốn chúng Phật tử thời nay đều nói mình Tu Tâm, nhưng khi được hỏi, “Tâm là cái gì và ở đâu” thì ít có ai trả lời cho người hỏi được hài lòng toại ý!? Giả sử các bạn không biết Tâm là cái gì và ở đâu, thử hỏi các bạn phải tu làm sao đây!?



Thực ra, muốn biết Tâm là cái gì và ở nơi nào, đâu có gì khó. Các bạn chỉ cần bắt chước Thái Tử Sĩ Đạt Ta tìm một nơi thanh vắng ngồi yên, nhắm hai con mắt thịt lại rồi dùng con mắt tâm (tâm nhãn) hướng vào trong Thân quan sát cho thật kỹ, các bạn sẽ thấy trong đó có đủ thứ như: có nói, cười, có la khóc, có hội chợ, đua thuyền, đá banh, nhảy múa, ca hát, nghĩ nầy nghĩ nọ, nghĩ bậy tưởng bạ, có thầy trò Tam Tạng đi thỉnh kinh và công chúa Hoàn Châu… lăng xăng lộn xộn, thì thì thầm thầm, rối rối rít rít suốt cả ngày lẫn đêm, không bao giờ chịu ngừng dứt! Thế là các bạn đã thấy biết được cái Tâm Vọng tưởng điên đảo của chính mình rồi vậy.



Nói Tu tâm là tu cái Tâm Vọng tưởng điên đảo nầy đấy. Thay vì nói “Tu Tâm”, chúng tôi nói là: “Trị tâm bệnh”. Vậy , Tâm của các bạn có bệnh không? Nếu như thấy có bệnh, cần phải được chữa trị ngay càng sớm càng tốt. Tại sao? Tại vì, kinh có nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe” . do đó, nếu như không khéo hiểu biết, thì một kiếp được làm người trôi qua rất uổng!?



Nhưng “Tu Tâm” hay “Trị Tâm Bệnh” như thế nào mới được Ngộ Đạo, Chứng Đạo và Thành Đạo?



Theo lời dạy của Đức Thế Tôn khi vừa mới Thành Đạo, trong Tâm Linh của bất cứ người nào cũng có chứa đựng vô số năng lực phước huệ (Công Đức) như: Vô Sư Trí, Phật Tri Kiến, Tam Minh, Ngũ Nhãn, Lục Thông… chỉ vì Vọng tưởng Tạp niệm làm chướng ngại phủ kín che lấp, nên không hiển lộ được.



Cho nên, muốn đạt được của báu vô giá, điều cơ bản nhất là, các bạn phải có một Pháp tu  cho tốt để tiêu diệt Vọng tưởng Tạp niệm mới thấy được vật báu vô giá trong vũ trụ là: “Chân Như”. Mà thấy được Chân Như tức là Ngộ Đạo, vì Chân Như hay Đạo, Chơn Tâm, Phật Tánh, Pháp Thân, Vô Sư Trí, Phật Trí Kiến, Bản Lai Diện Mục… là căn bản của muôn pháp, nguồn gốc của vạn vật.



Nhưng, Vọng tưởng  Tạp niệm là cái gì, và phải dùng pháp tu nào mới có thể tiêu diệt được chúng?



Vọng tưởng Tạp niệm là những thứ Tự ngôn Tự ngữ, mơ mơ hồ hồ, chợt có chợt không, ở trên đã nói sơ sơ rồi. Chính nó và Tam chướng (Nghiệp chướng, Báo chướng, Phiền não chướng)… đều là sản phẩm của Vô minh (=Hoặc + Nghiệp + Khổ), là động cơ dẫn dắt chúng sanh trôi lăn trong 3 cõi 6 đường từ vô thỉ nhẫn nay! Nếu đem so sánh với bom nguyên tử, thì nó còn nguy hiểm hơn bom nguyên tử gấp muôn vạn lần! Nếu không diệt sạch nó mà muốn thoát ra khỏi sức hút của Vũ Trụ Cảm Giác hay ra khỏi vòng Luân hồi để được tự tại giải thoát, thì chẳng khác gì “trèo cây bắt cá” vậy!



Chính vì thế cho nên, các bạn phải có một Pháp Tu có đủ khả năng tiêu diệt Vô Minh mới có thể mở được cánh cửa giải thoát . nhưng, trong kinh sách Phật giáo chỉ thấy nói, Thái Tử Sĩ Đạt Ta ngồi dưới cội cây Bồ Đề, hướng vào trong tâm dụng công 49 ngày là được Dại Ngộ (nắm bắt được Chân Như), chớ không thấy nói tới việc Ngài dụng công như thế nào, hoặc dùng phương pháp gì để tiêu diệt Vọng tưởng Tạp niệm cả! Cho nên, người tu theo Phật xưa nay, phải lâm vào cảnh dở khóc dở cười, vì tiến cũng không được mà lùi cũng không xong!!. Có thể nói, điều đó là lý do để bốn chúng Phật tử “kính trọng Thiền, mà phải xa lánh Thiền” quay sang tu theo Tịnh độ, cầu đức Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp cho họ một tay!?



Chỉ có Diệu Pháp Giải Thoát, mới là chiếc thuyền từ rộng lớn độ khắp chúng sinh thoát ly biền khổ. Nếu, các bạn đủ niềm tin vào nó, thì sẽ được cứu, chắc chắn không nghi. Bằng cớ là trong thời gian gần đây, đã có rất nhiều huynh đệ nhờ dùng nó để hạ thủ công phu, nên được giáp mặt với “Chân như” hay thấy được Pháp thân. Nói cách khác là được Ngộ Đạo hay Kiến Tánh hoặc thấy được đầu đường về Niết Bàn! Nếu các bạn chưa tin, hãy tu thử một thời gian chừng 5 đến 7 tháng xem sao, chỉ tốn mất thời gian  chớ đâu có tốn đồng xu cắt bạc nào mà sợ!?



Nói tóm lại, giáo pháp duy nhất của Đức Thế Tôn, là để dạy cho chúng sanh biết cách tiêu diệt Vọng tưởng Tạp niệm khó trị trong Tâm Linh. Nếu, các bạn biết cách dụng công “không gấp không hướn, có làm có nghĩ, bám chặt không bỏ dở”. Nghĩa là, vận dụng pháp tu một cách linh hoạt, sinh động cho tăng dần số lần và thời lượng thấy được Chân Như hay Pháp Thân (=bản thể của vạn vật), để rồi luôn sống với nó (=thể nhập). Sau đó, các bạn cũng là Chân Như hay là Pháp Thân, có năng lực biến cải vạn vật rồi sinh ra muôn vật…!!



Thiền Sư THÍCH THANH PHƯỚC

TU THIỀN LÀ TRỊ TÂM BỆNH

 (Đã đăng trên báo TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC 
của TRUNG ƯƠNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM)


Mỗi một con người chúng ta đều có hai thân: Nhục thân và Pháp thân.

- Nhục thân là cái thân tứ đại vật chất có hình tướng, nên ai nấy đều thấy biết dễ dàng. Còn Pháp Thân hay là Chân Như, Chơn Tâm, Phật Tính, Vô Sư Trí, Bạch Tịnh Thức, Tự Kỹ và Phật Tri Kiến… là những thuật ngữ trong nhà Phật dùng để chỉ cái “Bản Lai Diện Mục” (bộ mặt thật xưa nay) của chúng ta. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn, Pháp thân (Tâm Linh) là cái thân chân thật của chúng ta, nhưng vì nó không có hình tướng, lại còn ở ngay trong cái thân tứ đại vật chất nầy, nên ít có ai thấy (nhận ra) được sự hiện diện của nó. star

Quả thật, chúng ta có hai cái thân. Nếu như có để ý, chúng ta sẽ thấy Nhục thân và Pháp thân cùng kết hợp với nhau hết sức chặt chẽ, khít khao và tinh tế đến nỗi, người kém trí tuệ không thể nào rõ biết được mình lại có cái thân không có hình tướng như thế!

Để chứng minh sự thực đó, người xưa có nói:
Lòng buồn sanh bệnh,
Bệnh sanh lòng buồn!”

Tuy nhiên, có một điều hơi khó hiểu là khi cái thân tứ đại vật chất (là cái của TA, chẳng khác gì cái nhà, chiếc xe hay cái áo…) có bệnh, là có sợ hãi khổ đau phiền não không mời mà đến, nên người ta lập tức tìm thầy chạy thuốc để chửa trị. Nếu cần phải chụp hình, hoặc rọi kiếng, siêu âm, nội soi hoặc mổ xẻ gì gì đó… dù có tốn hao bao nhiêu tiền của, công sức cũng cam tâm chấp nhận, miễn sao hết bệnh hết khổ không chết là được! Trong khi đó, “Pháp thân” hay “Tâm Linh” là cái thân chân thật (Chân thân) đã và đang lâm trọng bệnh (mất chính thường) từ vô thỉ kiếp đến nay, và có thể nói đó là một chứng bệnh nan y cực kỳ nguy hiểm nữa kìa, thế mà người ta vẫn bình chân như vại, coi như không có việc gì xảy ra cả. Tại sao lại có việc bất công như thế chứ!?

Có phải chăng, người ta không biết cái Tâm Linh hay cái thân chân thật của họ đã và đang lâm trọng bệnh?

Đức Phật nói: “Chúng sinh điên đảo”. Vậy, chúng ta có điên đảo không? Nếu tâm chúng ta không bệnh hay không điên đảo, thì làm gì có cái chuyện giả mà cho là thật, khổ mà cho là vui, vô thường mà tưởng là Thường… thậm chí không tự biết được mình là cái gì và ở đâu, để phải đam mê đắm chấp vào cái thân tứ đại vật chất giả hợp huyễn có nầy, cho đó là TA…!? (**)

Muốn biết cái Tâm của mình có bệnh, có điên đảo hay không, các bạn khỏi phải nhờ thầy thuốc hay bác sĩ chẩn đoán, rọi kiếng hay siêu âm hay nội soi gì cả, mà chỉ cần đợi người nhà ai nấy đều đi ngủ hết rồi. Các bạn vào trong màn ngồi xếp bằng, đừng suy nghĩ gì cả, nhắm kín hai con mắt thịt lại, đồng thời dùng con mắt tâm (tâm nhãn) hướng vào bên trong thân quan sát cho thật kỹ, xem coi trong đó im lặng như tờ hay ồn ào náo nhiệt như cái chợ một thứ!? Nếu như các bạn phát hiện trong đó có đủ thứ hết, như: tàu bè, xe cộ, núi sông, nói, cười, chửi, mắng, đua thuyền, đá banh, nghĩ bậy tưởng bạ hoặc ba thầy trò Tam Tạng trên đường đi thỉnh kinh, thì thì thầm thầm rối rối rít rít không bao giờ chịu ngừng nghỉ… thì các bạn nên biết rằng Tâm mình đã bị mất chính thường hay có bệnh đang phát cuồng đấy!?

Dĩ nhiên, thứ tâm bệnh nầy không phải là thứ “bệnh tâm thần” mà những người bị điên hoặc mất trí nhớ đang điều trị tại bệnh viện Chợ Quán hay biên Hòa mắc phải đâu. Xin chớ có lẫn lộn.

Các bạn cũng nên biết, những hình bóng lúc ẩn lúc hiện cũng như những thứ tự ngôn tự ngữ, tự nói tự rằng, nghĩ bậy tưởng bạ… như đã nói ở trên, Phật học gọi đó là “Vọng tưởng”, “Tạp niệm” hay “Hoặc + Nghiệp + Khổ”. Mà “Hoặc +Nghiệp + Khổ” hay là Vọng tưởng Tạp niệm cũng chỉ là tên khác của “Vô minh”.

Lại nữa, sáu cái nguyên nhân đem lại khổ đau và phiền não cho chúng sanh là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Tà kiến cùng những Tam chướng là: Nghiệp chướng, Báo chướng và Phiền não chướng cũng chỉ là sản phẩm hoặc tên khác của Vô minh! Do đó, chúng ta có thể nói, Vô minh hay Hoặc + Nghiệp + Khổ là một thứ vi khuẩn cực kỳ nguy hiểm hơn vi trùng HIV, vi trùng bệnh AIDS kể cả bom nguyên tử gấp  muôn vạn lần. Bởi vì, bệnh HIV, AIDS hoặc bom nguyên tử dù có nguy hiểm đến đâu cũng chỉ có thể tiêu diệt một đời hoặc một kiếp của chúng ta mà thôi, chớ còn vô minh hay Hoặc + Nghiệp + Khổ đã âm thầm giết hại và làm cho chúng ta phải khổ đau phiền não từ vô thỉ nhẫn nay, khó mà có ai tính nổi là bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!?

Đã là người học Phật, chắc ai cũng biết: Vô Minh sinh Hành, Hành sinh Thức, Thức sinh Danh Sắc, Danh Sắc sinh Lục Nhập, Lục Nhập sinh Xúc, Xúc sinh Thọ, Thọ sinh Ái, Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu, Hữu sinh Sinh, Sinh sinh Lão Tử (Sinh khởi môn).

Chính vì thế cho nên, không có một chúng sinh nào mà không mắc phải tâm bệnh. Chúng ta hãy nghe Đức Lục Tổ Huệ Năng mở bày chỉ rõ (khai thị) như sau:
Phật nói tất cả pháp
Để trị tất cả tâm
Ta không tất cả tâm
Đâu cần tất cả pháp”.

Kinh Pháp Hoa cũng có nói Đức Phật là một ông thầy thuốc Vua của các thầy thuốc (Đại Y Vương). Như vậy, rõ ràng tu hành theo Phật đạo là Trị Tâm Bệnh. Bởi vì, Tâm có bệnh là Ta Bà khổ ải, còn Tâm hết bệnh (chính thường) tức là Tâm Thanh Tịnh mới được tự tại giải thoát, Liểu sinh thoát tử, ra khỏi vòng Luân hồi hay thành Phật làm Tổ.

Muốn Trị Tâm Bệnh các bạn phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ câu nói sau đây của Đức Thế Tôn:
Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sinh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng được. Nếu lìa Vọng Tưởng, thì vô Sư Trí, Nhất Thiết Trí… sẽ hiện bày, tha hồ mà thọ dụng”.

Qua lời dạy nêu trên của Đức Phật, chúng ta thấy:
-Đức tướng trí tuệ Như Lai là chỉ cho Pháp Thân, Pháp Giới Tính, Chân Tâm, Phật Tính, Vô Sư Trí, Tự Kỹ và Phật Tri Kiến…
-Có phải chăng, “Vọng tưởng” là “Tạp niệm”, là những thứ “Tâm ngữ” không hơi không tiếng rối rối rít rít không chịu ngừng dứt như đã nói ở trên, chính là Vô Minh hay Hoặc + Nghiệp + Khổ?
-Có phải chăng, khi lìa được Vọng tưởng Tạp niệm thì sẽ giáp mặt, nắm bắt được Vô Sư Trí, Chân Tâm mà Thiền tông gọi là Kiến Tính, Ngộ Đạo hoặc thấy được Đầu đường về Niết Bàn?
-Có phải chăng chúng ta lìa Vọng tưởng hay tiêu diệt Hoặc + Nghiệp + Khổ là vì: có Lão Tử bởi có Sinh, có Sinh bởi có Nghiệp, có Nghiệp là bởi có Vô Minh? (Hoàn diệt môn trong Thập Nhị Nhân Duyên).

Mà Vô Minh chính là “Hoặc + Nghiệp + Khổ”. Quán sát kỹ Hoặc + Nghiệp + Khổ, chúng ta sẽ thấy chúng có ba mà một, tuy một mà ba. Chúng chuyền níu nhau dẫn dắt chúng ta trôi lăn trong vòng luân hồi không có ngày dừng! Nếu như Nghiệp (Vô Minh) bị diệt sạch, thì Hoặc và Khổ cũng theo đó mà tan biến. Tâm bệnh đã trở nên chính thường, động cơ dẫn dắt đi tái sinh đã không còn nữa, thì làm gì còn có Sinh và Lão Tử nữa chứ!?

Thế mới biết, có thân là có khổ, không thân thì có lo gì!

Quả thật tu hành theo Phật là “Trị Tâm Bệnh”, nhưng tu hành như thế nào mới có thể trị được Tâm Bệnh, hành giả cần phải có con mắt sáng mới được? Nếu không khéo sẽ uổng phí thời giờ một cách vô ích! Thành thật mà nói, ai muốn tu pháp môn nào thì cứ mà tùy ý, nhưng khi nghe thấy nhiều người phát biểu: “Phật pháp có tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn, muốn tu pháp nào mà không được”, tôi không khỏi chấn động sợ hãi! Có phải chăng, “con đường nào cũng về tới Thủ đô!?”

Muốn trị tâm bệnh cho có kết quả tốt, tôi dám quả quyết rằng, chỉ có tu thiền của Phật mới là “Tẳng, Mau, Rõ, Đúng”. Còn việc muốn ngừng dứt hay tiêu diệt cho được Hoăc + Nghiệp + Khổ hay là lìa Vọng Tưởng Tạp niệm, để cho hành giả Kiến  Tính hay Ngộ Đạo dễ dàng, thì chỉ có Diệu Pháp giải thoát (***) mới có đủ khả năng giúp cho các bạn được mãn nguyện mà thôi!?

Tâm sinh thì các pháp sinh. Tâm bình thì thế giới bình!

--------
Ghi chú:
(*)Ai giáp mặt hay tìm ra nắm bắt được Pháp Thân là người Ngộ Đạo hay Kiến Tính.
(**)Cái thân vật chất nầy chỉ là một dụng cụ của TA, chằng khác gì cái áo, cái nhà…
(***)Trước đây có tên là Nhiếp Hóa Pháp, và Vô Niệm Pháp.

Thiền Sư THÍCH THANH PHƯỚC