10/08/2015

Mô tả Danh và Sắc qua Kinh Bát Nhã

   Giữa mô tả và thực tế, sự khác biệt nhau là hoàn toàn. Mô tả là điều con người có thể hiểu, có thể thấy, còn thực tế là điều con người không thể thấy, không thể hiểu được.

Mô tả là thế nào? 
Mô tả là dùng trí óc nhận thức và diễn tả bằng ngôn ngữ, âm thanh hay hình ảnh, chữ viết. Đối tượng của mô tả là gì ? Là Danh và Sắc . Danh bao gồm các khái niệm, tư tưởng, tình cảm, lời nói, chữ viết. Sắc là vật chất bao gồm các hạt cơ bản, nguyên tử, phân tử, cấu trúc, hình dáng, màu sắc, khối lượng, số lượng.

Thực tế là thế nào ? 
Thực tế là sự thật, là chân lý, mà xưa nay con người nói rất nhiều mà không thể mô tả được, ngay cả đức Phật hay những bậc giác ngộ khác cũng đều không thể mô tả được. Tất cả mọi mô tả đều không phải là thực tế.
Trong suốt cuộc đời mình, đức Phật đã giảng rất nhiều về Phật pháp. Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ tư, khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt, lời giảng của Phật lần đầu tiên được viết thành văn bản trên lá bối thành các bộ kinh. 
Nhưng dù diễn tả bằng lời nói hay viết thành kinh sách, kinh điển cũng chỉ là mô tả, không phải là chân lý. Vấn đề này Phật đã có tuyên bố rõ ràng trước lúc nhập diệt rằng : “Trong suốt 49 năm qua, ta chưa hề nói một chữ”
Trong Kinh Kim Cang, Phật nói với Tu Bồ Đề : “若人言如來有所說法即為謗佛。不能解我所說故。須菩提。說法者無法可說。是名說法” Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng Phật. Bất năng giải ngã sở thuyết cố. Tu Bồ Đề, thuyết pháp giả vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp (Nếu ai nói Phật có thuyết pháp là phỉ báng Phật, không thể hiểu ý ta nói . Này Tu Bồ Đề, thuyết pháp tức là không pháp có thể thuyết. Đó mới là thuyết pháp).
Như vậy, nếu nói các kinh điển không phải do Phật thuyết là mô tả không đúng, vì những kinh điển đó đều do Phật thuyết trong suốt quá trình truyền đạo 49 năm.
Còn nói những kinh điển đó là do Phật thuyết thì không đúng với thực tế, vì sự thật là Phật không thuyết pháp, không pháp nào có thể thuyết được cả, kinh điển không phải là chân lý, chỉ là chiếc bè dùng tạm để qua sông, qua được rồi thì phải bỏ chiếc bè.
Kinh điển mô tả rằng Đức Phật đã chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác dưới gốc cây Bồ Đề vào khoảng năm 593 Trước Công nguyên, sau đó Ngài đi khắp nơi ở miền bắc Ấn Độ (ngày nay là hai bang Uttar Pradesh và Bihar) giảng pháp trong 49 năm, vào khoảng năm 543 TCN, Ngài nhập diệt tại Câu Thi Na (拘尸那, sa. kuṣinagara). Mô tả đó dựa vào sự thật lịch sử, ngày nay cũng còn dấu tích, ví dụ, vườn Lâm Tỳ Ni là nơi Phật Đản sinh:
Nhưng khi Phật giảng Bát Nhã Tâm Kinh, Phật nói với Xá Lợi Phất:
3/舍利子,是諸法空相,不生不滅、不垢不淨、不增不減。是故空中無色、無受想行識、無眼耳鼻舌身意、無色聲香味觸法、 無眼界、乃至無意識界
XÁ LỢI TỬ! THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH BẤT DIỆT, BẤT CẤU BẤT TỊNH, BẤT TĂNG BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, VÔ NHÃN, NHĨ, TỶ, THIỆT, THÂN, Ý, VÔ SẮC THINH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP, VÔ NHÃN GIỚI NÃI CHÍ VÔ Ý THỨC GIỚI :
Này Xá Lợi Phất! các pháp đều là hiển thị của tánh không : không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm; như vậy trong tánh không, không có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có thế giới của hình tướng, màu sắc (nhãn giới) cho đến không có thế giới của tư tưởng ý thức (ý thức giới).
4/ 無無明、亦無無明盡、乃至無老死、亦無老­死盡
VÔ VÔ MINH, DIỆC VÔ VÔ MINH TẬN, NÃI CHÍ VÔ LÃO TỬ, DIỆC VÔ LÃO TỬ TẬN:
Không có vô minh, cũng không có già chết nên cũng không có hết vô minh, hết già chết.
無苦集滅道  VÔ KHỒ, TẬP, DIỆT, ĐẠO:
Vì không có vô minh, không có già chết luân hồi sinh tử, nên cũng không có khổ, không có lý do hay nguyên nhân đau khổ, không có hết đau khổ, không con đường giải thoát : Khổ, Tập, Diệt, Đạo. 
Phật đã nói rõ với Xá Lợi Phất rằng tất cả những câu chuyện trên thế gian đó chỉ là mô tả chứ không phải thực tế, thực tế chỉ là tính không chứ không có gì cả.
Tất cả những chuyện sinh lão bệnh tử và tu hành giải thoát, khổ tập diệt đạo, chỉ là mô tả theo tưởng tượng của bộ não của loài người thế gian chứ không phải sự thật.

 Trong lịch sử cuộc đời của Đức Phật cũng có kể về việc Phật đi tới những cõi giới khác.
Trong bản đồ thánh tích Phật giáo, chúng ta thấy có địa danh Sankasya (Tăng Già Thi 僧伽施 gần New Delhi ngày nay), địa danh này tương đối ít được biết. 


Đó là nơi Đức Phật dùng thần thông lên trời Đạo Lợi 忉利天 thuyết pháp cho mẹ là hoàng hậu Ma Da nghe, Phật lên cõi trời chỉ một buổi thôi, nhưng người trần gian thấy là ba tháng, sau ba tháng Phật mới trở về trần thế, có Đế Thích và Phạm Thiên theo hầu. Điều đó cũng tương tự như pháp sư Khoan Tịnh đến viếng cõi Tây phương Cực lạc chỉ trong 20 giờ thôi, nhưng người đời thấy là 5 năm 6 tháng.
Con người không làm chủ được mình, số phận của mình. Con người chỉ có ảo tưởng về độc lập, tự do, dân chủ, không biết họ bị lệ thuộc hoàn toàn vào cái bản ngã vô minh với vô số sở tri chướng, bị cuốn trôi trong lục đạo luân hồi sinh tử vô cùng khổ sở. Kiếp súc sinh, trâu, bò, gà, heo, chó, tôm, cá…bị bắt làm thịt. Kiếp ngạ quỷ, địa ngục thì khỏi nói rồi, đó là đau khổ triền miên. Ngay cả kiếp người cũng không ít thảm cảnh mà chúng ta thấy hàng ngày trên truyền thông.
Con người giác ngộ ắt không hoàn toàn tin tưởng vào mô tả mà phải cảnh tỉnh, phải tìm cách làm chủ được số phận. Thế nào là làm chủ số phận? Ta làm chủ được số phận khi ngôi nhà của mình không bao giờ bị thiên tai; chiến tranh bạo lực, áp bức, bất công cũng không chạm được vào mình; bản thân mình không bị bệnh nan y, không chết bất đắc kỳ tử; thân nhân con cái của mình không bị chìm tàu, rớt máy bay hay tai nạn, cũng không bị bệnh nan y. Tại sao được như vậy? Vì không gây ra nghiệp bất thiện. Và cuối cùng, quan trọng nhất là sinh tử tự do. Ta có thể quyết định lúc nào mình nhập diệt, có tái sinh hay không và nếu có thì sẽ sinh ở đâu. Trên đời có ai làm chủ được như thế chăng? Hãy quan sát cuộc sống đời thường chung quanh bạn, không phải có nhiều người may mắn, hạnh phúc, xinh đẹp, giàu có đó sao? Nói cho cùng đó cũng chỉ là mô tả, thực tế là điều không thể nghĩ bàn.
Nói tóm lại, chúng ta đang sống trong mê muội, trong thế giới mô tả. Thế giới mô tả không phải là thực tế, chúng ta nên hướng tới giác ngộ, giác ngộ rồi thì tự do, muốn tịch diệt hay muốn tái sinh trong cảnh giới nào cũng tùy hỉ, sống trong thế lưu bố tưởng 世流布想 nhưng không sinh ra chấp trước tưởng 執着想.


07/08/2015

LUẬN VỀ TAM NGHIỆP

"Mượn" của anh Tiến Ngốc
Sinh ra ở đời, con người dầu muốn dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào môt chữ ĐẠO, đạo của con người kêu bằng Đạo-Nhân và nó là một con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết.
Muốn làm tròn Nhân-Đạo, phải giữ vẹn tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam-nghiệp và chừa Thập-ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ.
Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây:
Thân nghiệp: (tội lỗi do xác thân gây nên);
Khẩu nghiệp: (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên);
Ý nghiệp: (tội lỗi do ý tưởng gây nên).
Ba nghiệp-chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây:
Thân nghiệp sinh ba điều ác:
1.-Sát-sinh
2.-Đạo-tặc
3.-Tà-dâm

Khẩu nghiệp sinh 4 điều ác:
1.-Lưỡng-thiệt.
2.- Ỷ-ngôn.
3.-Ác-khẩu
4.-Vọng-ngữ.

Ý nghiệp sinh 3 điều ác:
1.-Tham-lam
2.-Sân-nộ
3.-Mê-si

SÁT SINH.
Con người mới sinh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế-giới người hung tàn bạo-ngược, tánh nết liền ô-nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc-ác dữ dằn.
 Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi-danh, vì quyền-thế, vì thù hềm, vì háo thắng... nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã-hội, của một quốc-gia; họ muốn tiêu-diệt tất cả nhân-loại, không một ai có quyền sống sinh cùng họ cả.
Tại trào-nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương-tàn tương-sát. Ngoài lê-thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương-tàn rất thường xảy ra trong nhân-loại không ngoài các lý-do đã kể trên. Đó là người đối với người.
Người đối với thú cầm, sinh-vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị-đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sinh vật (gà, vịt, heo..,) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sinh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vào đúng theo sự nhu-cầu cần thiết của các món thực-phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy-sinh nó, nếu sự hy-sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhất là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sinh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn-hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai nạn qua khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa-hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu và khônng chịu ăn-năn chừa lỗi, tạo-tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.
Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú-vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sinh vật cũng có linh hồn, cùng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loại vậy.
Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhất là đối với các gia-súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo... chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sinh hoạt hằng ngày.
Tóm lại, không có sự sát sinh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn.

ĐẠO TẶC.
Câu “Bần cùng sinh đạo-tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô đạo. Những kẻ nầy ngày vẩn-vơ đầu đường xó-chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn-bã của xã-hội nầy, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an-ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của đoạt giựt tài-sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ-hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần-lao kiệm-tiết, là nguyên-nhân của sự nghèo sự khó, họ phá-hoại hạnh phúc của con người.
Cơ-hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân-chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân-xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành-vi đen tối, nếu họ không chịu-ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi nghĩa.

TÀ DÂM.
"Muôn việc lành hiếu-thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước". Sách sử thường bảo như thế.
Lần dở xem sử-sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn khắp nơi, từ trào-nội cho đến thứ-dân, từ trong gia-đình cho đến kẻ xa người lạ, nó là mầm gây ra biết bao thảm-trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi-Tử, An-lộc-Sơn với Dương-quí-Phi há chẳng còn lưu-liên hậu thế? Giàu ỷ của hiếp-dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ từ xưa đến nay luôn luôn đều có.
Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, nuốn giữ-gìn tiếng tăm của gia-thế, phải đừng để dục tình lôi-cuốn, bắt trước gương xưa trau dồi lòng hiếu trung trinh-tiết.

LƯỠNG-THIỆT.
Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng-thiệt nầy đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi-vã, gây-gổ sinh oán sinh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn-kết, tình thân yêu giữa nhân-loại. Nó cũng là nguồn-cội của bao nhiêu bất-hòa, hiềm-khích.
Để giải-trừ những tai-vạ ấy, phải giữ cho lời nói  mình được thành thật, chánh đáng ; được vậy trong hương-đảng mới bớt rầy-rà, ngoài xã-hội không điều xích-mích và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt-khinh của kẻ khác.

Ỷ NGÔN.
Nói đến tội nầy tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xỉ người nghèo, kẻ xảo-quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn ngoan dùng lời nói hạ nhục người dốt nát.
Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ-từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội lỗi.

ÁC KHẨU.
Những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi mắng tục tằn làm ra tội nầy; con chưởi mẹ mắng cha không kể luân-thường thảo hiếu; mạnh bạo hăm he đánh giết những kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác.
Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia-đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long-cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chập.
Hãy bỏ những tiếng tục-tằn thô-lỗ làm cho đời sống được êm dịu thanh bay hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm-chỉnh. Đối với con cháu trong nhà không nên nói những điều ác đức; phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng.

VỌNG-NGỮ.
Thêm thừa huyễn-hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng-ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân-loại.
Thương người nào kiếm cách bào-chữa giấu-giếm sự quấy và thêu-thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Khoe-khoang, tự- đắc, xảo-trá đa-ngôn, những kẻ điêu-ngoa làm cho thiên-hạ khinh-khi miệt-thị.
Muốn tránh những điều khiến cho tư-cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân-chánh, bỏ lối láo xược trớ trêu. Chẳng nên tráo-trác với người, bỏ tiếng xảo-ngôn và phải dùng lời chơn-chất.

THAM-LAM.
Tánh tham-lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: Chiến-tranh, cướp bóc, giết người... Tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế... Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt, gây nên những thảm họa tầy trời. Những tấn tuồng giặc giã cướp của sát nhơn, những vụ hối lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sinh điêu-linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự-sát chỉ vì sự ham muốn không được thực-hiện, người ta quyên-sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận...
Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung hăng bạo-ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sư khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch-Sùng, Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích-đáng lắm ru? Thế nên hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị-kỷ tham lam, lo vun-trồng phước đức, bố thí cho kẻ nghèo hèn, rán công-phu sám-hối để có thể yên vui nơi miền Cực-Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần nầy.

SÂN-NỘ.
Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những chuyện bất-công sái phép, chém-giết oán-thù nhau. Kẻ thắng kiêu-hãnh, người bại hổ ngươi, nên sự hềm thù càng lan rộng. "Giận mất khôn", cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ-dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công-bình, lẽ phải trái.
Diệt được nó, tâm ta được thảnh-thơi, trí ta được thong-thả. Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm-lỗi. Hãy nhẫn nhịn và chẳng nên cãi cọ, tranh luận hơn thua làm cho nảy sinh ra những điều hiềm-khích.

MÊ-SI.
Tội ác nầy do sự thiếu óc phán-đoán, thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo-bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chơn-lý. Suốt cả đời ngu-muội, chỉ biết mê man theo những vật nhỏ nhen, mau tan, mau rã, chỉ biết tin hướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải-thoát.
Hãy xóa bỏ các điều mê-tín, qui-thuận theo tinh thần đạo-đức, lánh chốn mê lầm, tỉnh cơn mộng-huyễn phá tan màn vô-minh che mờ tâm-trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ Bất-diệt, Bất-sinh.

06/08/2015

Chuyện mới Hà Nội

"Mượn" của Cao Thị Uyên.
Tôi đi Hà Nội một tháng, gặp một số chuyện “độc” chỉ có ở thủ đô, mang về làm quà kể cho bạn nghe. Kể từng chuyện nhé.

Niềm tin & quốc tịch

Chồng chị là đảng viên. Chị cũng đảng viên, cả hai đều là đảng viên thứ gộc. Họ làm ăn rất tài và phất rất nhanh. Hết mua bán đất đến mua bán nhà, rồi mua bán chung cư, rồi đến chơi chứng khoán. Đầu tư quả nào trúng ngay quả đó.

Một hôm, chị nói với tôi rằng, “Chị vừa mua thêm căn hộ ở Singapore, em ạ.” Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chị nói như thế. Trước đây, tôi có nghe kể rằng chị đã mua một ngôi nhà ở Australia và một ngôi nhà nữa ở Mỹ, bang Cali hẳn hoi. Nghĩa là cho con đi du học ở xứ nào thì chị mua nhà cho chúng ở xứ đó. Trước để khỏi phải tốn tiền thuê nhà, khi học xong thì cũng vừa trả xong tiền nợ, và giá trị căn nhà cũng tăng đủ để sinh lời. Tuy vậy, tôi hỏi thêm cho rõ, “Nhưng chị đã có nhà ở Úc và ở Mỹ rồi thì mua thêm ở Sing làm gì?”

Chị bình thản chia sẻ thật với tôi, “Chị đầu tư mà em. Vả lại vốn vay tại Singapore cực rẻ. Chị sẽ chuyển toàn bộ tài sản ra nước ngoài luôn. Cái quy chế có chừng nửa triệu đô thì được nhập tịch ở Canada rất thoáng, nhà chị đang lo. Như thế sẽ an toàn hơn. Ở mình, giờ nhìn đâu cũng thấy bóng dáng thần chết. Từ thực phẩm cho đến xe cộ, sơ sảy chút là không toàn mạng. Thậm chí, tháng nào bọn chị cũng bay qua Singapore mua thực phẩm rồi đem về Hà Nội sử dụng dần dần. Mấy cái siêu thị ở đây cũng không thể tin được. Làm sao mà biết chắc rằng chúng không bán hàng đểu cho mình. Ăn bậy vào nếu không ngộ độc thì cũng ung thư.”

Chị lại khuyên, “Mấy đứa nhỏ ở nhà ráng lo cho chúng đi du học hết đi. Ngày xưa thì hết tỵ nạn chính trị đến tỵ nạn kinh tế, còn bây giờ thì phải kể thêm tỵ nạn giáo dục nữa. Mà thật ra thì thời buổi này, ở cái đất nước này, mọi chuyện đều phải tính hết, không thể ù lì chờ nước tới chân mới nhảy. Em cố gắng mà chạy cho được thêm cái quốc tịch. Dù sao có hai cái quốc tịch vẫn hơn. Lỡ có chuyện gì... thì... bay hơn tiếng đã đến Singapore.”

Trời ơi, cỡ làng nhàng dân ngu khu đen như tôi thì làm sao mà... chạy thêm cái quốc tịch? Quốc tịch chứ có phải là mớ rau ế mua ở chợ chiều đâu mà dễ chạy vậy ta? Làm sao mà sống tiếp đây? Chẳng lẽ, cái xứ này đến hồi vận mạt rồi sao?

Tôi tình thật hỏi tiếp luôn, “Vậy anh chị nghĩ sao về cái vụ đảng viên của mình chứ? Đảng viên mà còn tính như thế thì dân đen như em phải làm sao? Niềm tin đặt vào chỗ nào đây?” Chị đáp, “Chị có còn sinh hoạt đảng gì nữa đâu, có cái thẻ thì giữ cho có để khỏi bị chúng hà hiếp. Ngó tới thêm nhục! Còn ông ấy thì phải giữ vì còn phải làm việc trong bộ. Rồi cũng tới lúc phải vất thôi. Chị còn nghe thằng bé nhà chị ở Mỹ nó nói là, ở nước ngoài các chính phủ họ căng với đảng viên lắm. Thậm chí khi thi quốc tịch ở Mỹ nó còn hỏi người ta khai ra có phải là đảng viên Phát-xít và Cộng sản hay không, nếu có là phăng-teo luôn.”

Tôi thầm nghĩ, trời ơi, làm sao mà sống tiếp đây? Các đại gia, các nhà tư sản đỏ mới có điều kiện để trở thành người tiêu dùng thông thái, nhà đầu tư thông minh như thế. Ai ai cũng thủ thế và chuẩn bị bài chuồn để bảo toàn mạng sống và của cải. Thường thường bậc trung như mình, nghĩ thì cũng nghĩ tới đấy nhưng chẳng thể làm được. Thôi thì có chết thì chết chung với nhau, chết chùm cả nước, chứ có riêng gì mình. Lỡ có chuyện gì thì làm ơn... lỡ sớm sớm giùm một chút.



Cái gì cũng “đéo”

Ngày nay hầu như ở Hà Nội người ta không còn, hay rất hiếm, nói từ “không”, mà thay bằng từ “đéo”. Ra phố thì cái gì cũng “đéo”. Từ già cho tới trẻ, nam hay nữ gì cũng vậy, cũng nói “đéo” thay cho “không”. Thậm chí, có khi bạn còn nghe “đéo” trong các môi trường lẽ ra rất lành mạnh như nhà trường. Cái gì cũng “đéo”. Nghĩa là, “đéo có cái gì mà không đéo”. Giả dụ, ở sạp báo, bạn hỏi, “Ông ơi, có báo Nhân Dân không?” / “Đéo có Nhân Dân, chỉ có Hà Lội Mới thôi!”. Kinh!



Thịt heo tự nuôi, cho nó lành!

Xem ti-vi, thấy một chị tre trẻ ở Hà Nội đặt họ hàng ở quê nuôi heo để ăn dần cho nó an toàn, bảo đảm là heo nuôi với nguồn thực phẩm tự nhiên, không có chất “tạo nạc”. Ai muốn ăn thịt heo thì phải ghi tên trước 8 tháng. Nhà đài VTV tường thuật như thể chị chàng kia thông minh lắm, như muốn khuyến khích mọi người theo cái gương đấy. Mình nghĩ, không chừng chắc rồi cũng tới cái lúc dân ta quay lại như thời bao cấp, cái thời nhà nhà nuôi heo, tự cung tự cấp, ủn ỉn ụt ịt trong mọi nhà, trên mọi hành lang chung cư, cho nó lành.



“Sĩ”

Ra đây một thời gian ngắn tôi nhận ra được cái tính “sĩ” của dân thủ đô. Tôi gặp một số người cho rằng mình là người Hà Nội chính gốc, có tổ tiên hằng bao nhiêu đời làm quan của triều nhà Hồ, nhà Lê. Những người này có niềm kiêu hãnh về dòng dõi của mình, và họ khinh đám dân nhập cư từ Nghệ An, Thanh Hóa, hay các xứ khác đến sống ở Hà Nội ra mặt. Nếu không khinh ra mặt được thì họ cũng ngấm ngầm tự hào về cái khả năng không nói ngọng nghịu, lẫn lộn hai âm “nờ” và “lờ”, và tự hào về cái giọng thanh tao (nhưng tôi nghe thì có khi chua lét) của họ, chứ không nặng chình chịch và quê mùa của người nhập cư. Họ cho rằng như thế mình mới là “sĩ”, là “kẻ sĩ”; nghĩa là, có thể nghèo, nhưng vẫn sang trọng, một cách nào đó, trong nhân cách thừa kế được từ dòng dõi nhiều đời trước.

Cao Thị Uyên

Cấp cứu bệnh nhân đau tim


Tại một tiệc cưới năm 2011, một cụ ông đang ngồi bỗng nhiên thở ngắt quãng và ngất xỉu. Nhìn ông có vẻ bị lên cơn đau tim. Có ai đó đã gọi xe cứu thương. Bỗng nhiên có một người tới xắn tay áo ông cụ lên và bắt đầu vỗ mạnh vào mặt trong khuỷu tay của cụ (khoảng hõm dưới bắp tay). Người đó cũng yêu cầu người thân của ông cụ vỗ mạnh vào khuỷu của cánh tay còn lại. Sau vài lần vỗ mạnh, cụ ông đã bắt đầu có phản ứng. Ông đã thoát khỏi cơn nguy kịch.
Y học cổ truyền tin rằng “Khí hàn gây huyết ứ, máu lưu thông kém”. Sự hình thành và loại bỏ cục máu đông diễn ra giống như của dầu đậu phộng: dầu kết lại khi nhiệt độ thấp và tan chảy trở lại khi nhiệt độ tăng. Các dòng năng lượng của tim và màng tim (Kinh Thủ Thiếu Âm) tại khuỷu tay nối thẳng đến tim. Khi bạn vỗ mạnh hai đường kinh này ở hai bên cánh tay, “sự lưu thông của khí (năng lượng)” được thúc đẩy, vậy là máu được lưu thông. Điều này giúp người bệnh ấm lên và đổ mồ hôi. “Khí dương” gia tăng giúp loại bỏ huyết khối và thông thoáng các mạch máu.

Ai cũng có thể tự trang bị kỹ năng đơn giản này mà không cần phải huấn luyện. Hàng ngày vỗ vào mặt trong khuỷu tay giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch và làm giảm huyết áp. Điều này giúp giảm nguy cơ bị lên cơn đau tim (nhồi máu).
Hàng ngày vỗ mạnh vào mặt trong khuỷu tay giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch và giảm huyết áp.
Những vết thâm trên cánh tay sau khi bị vỗ mạnh lại có thể giúp chẩn đoán xem người đó có vấn đề về tim không. Độ chính xác của phương pháp chẩn đoán này cao hơn việc dùng thiết bị y học hiện đại. Sau khi vỗ, nếu có vết thâm tím xuất hiện trên ở khuỷu tay, bạn nên tiếp tục vỗ cho tới khi vết bầm chuyển sang màu đỏ. Bất kỳ một vấn đề tim mạch nào cũng sẽ thuyên giảm, thậm chí là loại bỏ. Phương pháp điều trị này được gọi là “trị tận gốc”. Tiếp tục vỗ vào những đường kinh lạc khác (dòng năng lượng) trong cơ thể bạn, hay những nơi cảm thấy đau khi vỗ vào có thể chữa một số bệnh mà bình thường không chữa được.

05/08/2015

TƯỢNG ĐÀI LÒNG DÂN

H1

Bạn có biết kiến trúc cũ kỹ và xấu xí này là gì? Đó là đài tưởng niệm Tổng thống George Washington! Tên chính thức là Washington Monument, đài tưởng niệm vị tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nằm cách Boonsboro thuộc hạt Washington (bang Maryland) vài trăm mét.
Chuyện kể rằng, hôm đó, ngày 4-7-1827, lúc 7 giờ sáng, hầu hết trong 500 cư dân của thị trấn nhỏ Boonsboro bắt đầu tập trung tại quảng trường. Sau đó, dưới lá cờ Mỹ bay phần phật và tiếng trống dồn dập, họ ôm cuốc xẻng và cùng bước đều hai dặm lên dốc núi để đến vị trí xây đài. Rồi họ làm việc đến khi mặt trời lên đỉnh. Sau khi nghỉ trưa, họ lại làm tiếp tới chiều. Đến 4 giờ, đài tưởng niệm đã cao 4,5 m với mặt đế rộng 16,4 m. Buổi làm việc kết thúc với việc đọc Bản Tuyên ngôn độc lập và ba loạt súng được khai hỏa từ các cựu binh Cách mạng.
Vì bận vụ mùa nên hai tháng sau (tháng 9), họ mới trở lại làm nốt. Lúc hoàn thành, Washington Monument cao 9,1 m. Năm 1920, Hội sử học hạt Washington mua 4.000 m2 quanh Washington Monument và hiến tặng làm công viên vào năm 1934. Ngày 3-11-1972, Washington Monument được đưa vào danh sách Những địa điểm lịch sử quốc gia.
Nhân tiện nói thêm, nếu không kể trong khuôn viên đại học, nhà thờ, viện bảo tàng, thư viện…, khắp nước Mỹ chỉ có khoảng 20-30 tượng đài George Washington đặt tại nơi công cộng mà một số đài tưởng niệm nổi tiếng thế giới được dựng chỉ như một kiến trúc mang tính biểu tượng, chẳng hạn “Washington Monument” tại công viên quốc gia National Mall ở Washington DC (được xem là kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới, bắt đầu xây vào năm 1877).
Tương tự Washington Monument-Boonsboro, Washington Monument-National Mall cũng là kiến trúc tưởng niệm mang tính tinh thần chứ không phải tôn sùng cá nhân dù Washington là một vĩ nhân. Kiến trúc tưởng niệm Washington nổi tiếng nữa là Mount Rushmore National Memorial tại Keystone (South Dakota) nhưng nó được tạc không chỉ Washington mà còn có ba tổng thống khác (Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln).
H1
     Tại đài tưởng niệm Washington Monument-Boonsboro, người ta thấy một bảng đá ghi “Erected in memory of Washington, July 4th 1827, by the citizens of Boonsboro”. Đơn giản, không rườm lời mà rất sâu sắc. Bởi, nó được tạc từ lòng dân!

04/08/2015

Kiếm pháp

Kiếm là loại binh khí ngắn hai lưỡi, được tôn xưng là “Vua của trăm binh khí có lưỡi”. Sách sử chép rằng kiếm xuất hiện rất sớm từ thời xa xưa.

Trong thời kỳ cổ đại, trừ việc dùng kiếm để chiến đấu và luyện tập võ nghệ, kiếm còn là vật tượng trưng cho quyền lực, địa vị của vua chúa, phân định đẳng cấp lễ nghi trong xã hội. Kiếm được các vị đạo sư, đạo sĩ dùng làm “pháp khí” trong tôn giáo với quan niệm cho rằng kiếm là vật có thể “ẩn thân, hàng yêu, trừ quỷ”. Ngoài ra kiếm cũng còn được coi là một vật trang sức phong nhã, nên văn nhân, học sĩ đeo kiếm để tỏ ra mình là người cao nhã, không dung tục.
Kết cấu của kiếm chia ra làm hai bộ phận chính gồm thân kiếm và cán kiếm. Thân do lưỡi kiếm, sống kiếm, mũi kiếm cấu tạo thành. Cán do vành chắn để bảo vệ tay, tay nắm, đốc kiếm, ngoài ra còn có bao kiếm, tua kiếm. Đo dài của kiếm xưa nay khác nhau không thống nhất. So sánh các vật cổ, người ta thấy rằng kiếm thường khoảng 100 đến 105 cm, trường kiếm dài đến 140 cm. Phong trào võ thuật hiện đại, độ dài của kiếm theo “quy tắc thi đấu võ thuật” qui định khi thi vận động viên cắp ngược kiếm thõng hẳn tay xuống thì mũi kiếm chấm đến vành tai là chuẩn.
Kiếm đi thức đẹp, kiếm tựa gió bay, kiếm như rồng lượn. Tĩnh kiếm như trinh  nữ, động kiếm tựa rồng bay, kiếm hoa như phụng vũ.

Kiếm pháp:
Theo võ lý, yếu quyết của người dùng đao, dùng kiếm là “Đơn đao khán thủ, Bảo kiếm khán đàm”. Nghĩa là để đánh giá trình độ của người sử dụng đơn đao, người ta nhìn vào tay không cầm đao xem có phối hợp “ăn ý” với tay cầm đao không. Đối với kiếm, xem tay “kiếm chỉ” trong các kỹ thuật kiếm, tay “kiếm chỉ” có để đúng với đàm kiếm không. Đàm kiếm là phần từ vành chắn trở về sau đốc kiếm.
Sách viết và phân tích về binh khí Võ cổ truyền hiện nay không nhiều. Việc nghiên cứu, tìm hiểu, tập luyện kiếm phải tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu trong nước và nước ngoài. Kiếm pháp của các môn phái võ cổ truyền có thể tổng hợp theo thứ tự:
– Áp: Đè kiếm lên, ngăn giữ.
– Băng: Vạch kiếm.
– Cách: Gạt kiếm đứng qua trái hoặc phải.
– Đề: Nâng kiếm.
– Điểm: Đâm mũi kiếm.
– Đới: Đưa kiếm thẳng từ dưới lên, thanh kiếm nằm ngang.
– Kích: Đánh, phóng kiếm nhanh tới.
– Khuấy: Ngoáy kiếm, đâm lắc bằng cổ tay xoay tròn trên một điểm nhỏ.
– Loang: Múa hoa.
– Phách: Bổ, chém kiếm thẳng xuống.
– Sí: Giăng kiếm ngang tầm vai như cánh chim.
– Tiễn: Người và kiếm cùng lao tới.
– Tiệt: Khảm, chặt kiếm để chặn phá thế.
– Trừu: Kéo kiếm xuống, cứa, rọc.

Yếu chỉ kiếm thuật:
– Hư lãnh đỉnh khinh: đầu óc trống không, (tư tưởng an nhiên, tự tại).
– Hàm hung bạt bối: co lưng thóp bụng.
– Trầm khiên thuỳ chẩu: trầm vai buông chỏ.
– Tùng eo hoạt uyển: eo hông tự nhiên.
– Khí trầm đan điền: khí xuống đan điền.
– Khinh do tích phát: buông lỏng toàn thân.

Phép cầm kiếm:
Tay cầm kiếm phải thong thả linh hoạt, không nên nắm chặt lấy cán kiếm, vì như thế làm cản trở kỹ thuật của kiếm chiêu. Chỉ cần dùng ngón cái, ngón giữa cùng ngón áp út của bàn tay để nắm lấy cán kiếm, còn ngón trỏ và ngón út nên thong thả, buông lỏng, lòng chưởng cũng để trống không như cầm bút lông vậy.
Kiếm thực là kiếm tập luyện, thi đấu, hay chiến đấu, tùy theo người tập luyện thuận tay nào mà kiếm thực được cầm ở tay phải hoặc tay trái. Kiếm chỉ hay còn gọi là kiếm pháp hay kiếm quyết, là tay không cầm kiếm, hình thức 2 ngón trỏ và ngón giữa áp sát nhau chỉ thẳng, ngón đeo nhẫn và ngón út gập xuống, ngón cái đè lên đầu ngón tay đeo nhẫn. Kiếm chỉ hoa theo đường nét, chiêu thức của kiếm thực, hỗ trợ sự cân bằng, linh động và nghệ thuật trong kiếm pháp.
Cũng có nhiều trường hợp, bài bản yêu cầu một tay cầm kiếm thực, tay còn lại thay vì là kiếm chỉ thì cầm bao kiếm, bao kiếm được làm bằng vật liệu gỗ hoặc kim loại có thể trợ chiến gạt đỡ, phòng thủ khi lâm trận.

Đạo dùng kiếm:
Kiếm là loại binh khí nghệ thuật, tài hoa, ngoài công dụng chiến đấu, còn có kiếm đạo mang tinh thần triết lý Đông phương cao cả, nhất là ý vị của Thiền tông. Đạo dùng kiếm là thiên biến vạn hóa, là bách kiếm hóa nhất, thiên kiếm hóa nhất, vạn kiếm hóa nhất. Nhất điểm phát vạn thù, vạn thù quy nhất điểm. Hiểu được bí quyết trong đó là có thể tự chủ, an nhiên nhàn hạ mà ứng biến.
Tuyệt nghệ trong kiếm pháp là vô chiêu thắng hữu chiêu, nhìn bề ngoài có vẻ như không có gì nhưng bên trong là tuyệt kỹ, bởi vì người và kiếm đã hòa cùng một thể. Đó cũng là điều mà Lão Tử đã dạy: “Thông minh duệ trí thủ chi dĩ ngu. Dũng lực chấn thế thủ chi dĩ khiếp”.
Kiếm có thần kiếm, người giác ngộ dụng kiếm hòa cùng thần kiếm, chiêu thức kiếm ở trong ý kiếm, lúc ấy đánh đông trúng đông, đánh tây trúng tây, mặt trời, mặt trăng cùng xuất kiếm, cùng hợp nhất thành một chiêu. Đất Trời cùng hợp lại với nhau thành Một. Đến lúc ấy cũng không còn có ta và cũng không còn có kiếm.

Những câu chuyện kiếm đạo của Thiền:
1. Một người lính tên là Nobushige, mang kiếm đến hỏi Thiền sư Hakuin: “Thật có thiên đường và địa ngục không?”
Hakuin hỏi lại: “Anh là ai?”
Người lính đáp: “Tôi là một samurai”.
Hakuin kêu lên: “Hứ! Anh mà cũng là lính à, mặt anh trông không khác gì một tên ăn mày”.
Nobushige giận dữ, anh ta chuẩn bị rút kiếm nhưng Hakuin đã tiếp: “Anh mà cũng có kiếm à! Có lẽ kiếm của anh vô dụng không cắt nổi đầu của tôi đâu”.
Nobushige thực sự tuốt kiếm.
Hakuin nói: “Đây hãy mở cửa địa ngục đi!”
Nghe lời này, tâm Nobushige như tỉnh ngộ, nhận thức được sự chỉ giáo của Thiền sư Hakuin, cho kiếm vào vỏ và cúi đầu đảnh lễ.
Hakuin nói: “Đây hãy mở cửa thiên đường!”
2. Thời Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji Tenno) trị vì Nhật Bản (1867 – 1912), có đôi bạn thân, sau khi rời ghế nhà trường, mỗi người quyết tâm theo đuổi chí hướng của riêng mình.
Bakufu xuất gia tu học Phật trở thành Thiền sư, sống ẩn dật trong một sơn cốc xa xôi, hẻo lánh.
Yukichi theo nghiệp võ, ngày đêm chuyên cần luyện tập. Vốn tư chất thông minh, khả năng thiên bẩm cùng với lòng kiên trì quyết tâm rèn luyện và lại được thầy hết lòng chỉ dạy, nên chỉ một thời gian sau Yukichi đã vượt qua các cuộc tỉ thí trở thành đệ nhất kỳ nhân kiếm thuật không có đối thủ.
Tuy vậy, Yukichi vẫn cảm thấy trong lòng thiếu vắng một điều gì. Ông quyết định tiếp tục lên đường tìm thầy học đạo. Nghĩ đến người bạn cũ năm xưa, nay khoác áo Thiền sống trong sơn cốc, Yukichi đến thăm từ giã đồng thời bày tỏ ý nguyện của mình.
Sau khi mời trà, Bakufu nói với Yukichi không cần phải tìm thầy ở đâu xa, ông có quen một người có thể dạy cho Yukichi đạo dùng kiếm. Yukichi ngạc nhiên lẫn mừng rỡ xin được giới thiệu. Bakufu lấy tay chỉ vào ngực mình và nói rằng: “Người thầy ấy chính là tôi đây”.
Yukichi không tin, ngỡ rằng bạn mình đùa vui, vì từ thưở nhỏ đến giờ chưa bao giờ Bakufu dùng kiếm. Thế nhưng Bakufu như một kiếm sư thượng thừa đầy uy nghi và nghiêm khắc, lấy cây gậy thiền thay cho thanh kiếm, bảo Yukichi rút kiếm ra thi đấu. Yukichi rút kiếm nhưng không dám xuất chiêu sợ làm tổn thương bạn mình.
Bakufu nói với Yukichi rằng: “Nếu anh không xuất tuyệt chiêu thì sẽ không thấy được tuyệt kỹ đạo dùng kiếm của tôi”. Yukichi vung kiếm lên lần thứ nhất, chưa kịp định thần thì đầu gậy kiếm của Bakufu đã điểm ngay tim của ông. Tâm hồn bấn loạn, Yukichi xuất kiếm lần thứ hai, chưa hết một đường thì đầu gậy kiếm của Bakufu lại điểm trúng ngay tim của ông. Lần thứ ba cũng vậy, kiếm của Yukichi chưa kịp đâm tới thì đầu gậy kiếm của Bakufu đã lại điểm trúng ngay tim của ông. Yukichi buông kiếm, quỳ xuống xin học đạo với Bakufu.
Bakufu đỡ Yukichi đứng dậy ôn tồn nói rằng: “Khi đấu kiếm với anh, chung quanh tôi đất trời tan biến, cảnh vật tiêu tan, tôi chỉ thấy duy nhất có một trái tim của anh, nên tôi nhấc gậy kiếm đưa lên là điểm ngay đến đó”.
Từ đó, Yukichi giác ngộ, ngoài dứt chư duyên, trong không toan tính.
Võ sư Trương Văn Bảo
Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam