07/02/2016

Tết Ta ngày xưa

Sưu tầm trên Net. Thấy hay đem về trưng.
Tết Nguyên đán là những ngày vui vẻ nhất trong năm của người Việt Nam. Joseph Tissanier, người Pháp, sống ở Thăng Long từ 1658-1663 đã dự năm cái Tết ở đây, tả rõ rằng, vào dịp này người Việt sửa soạn mọi cái cho long trọng, từ nhà cửa đến đồ ăn, áo mặc. Túng cực đến đâu cũng phải kiếm cho đủ tiền bạc tiêu dùng ba ngày Tết. Có những kẻ nghèo khổ, phải đi ăn cắp vặt hoặc dùng võ lực cướp của người khác, hầu được sống dung dung trong những ngày đầu Xuân [1]. Vì vậy trong những đêm gần Tết, nhiều nhà phải thức đêm canh trộm.
Cuối năm, các chợ Tết hết sức nhộn nhịp, vì mọi người giàu sang, nghèo hèn đều đi mua sắm. Quan cũng như dân đều lo may quần áo mới, dọn dẹp nhà cửa cho khang trang, sửa sang võng cáng, tàn lọng, đắp lại mồ mả, cột nhà tường vách treo đầy câu đối, tranh vẽ, vua chúa cũng cho quét dọn lăng tẩm…[2]
Theo Bento Thiện viết năm 1659: “đến gần ngày bết bua chúa ban lịch cho thiên hạ xem ngài” [3], trong đó những ngày nghỉ Tết được ấn định rõ ràng. Thường bắt đầu nghỉ từ ngày 25, 26 tháng chạp, và có thể kéo dài tới ngày 10 hay 15 tháng giêng. Những ngày đó, nếu có chiến tranh, cũng tạm ngưng để ăn Tết. Từ ngày 25 tháng chạp, ấn dấu của vua chúa, quan quyền đều được lau chùi sạch sẽ, cất vào hộp, không dùng tới; khí giới quân đội cũng lau lọt sáng nhoáng để một nơi.
Chúng ta thử coi, năm 1659 thầy giảng Bento Thiện đã viết về Tết Nguyên đán thế nào: “Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà ông vãi, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy vua chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì vua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ. Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kì. Vua chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bảy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ ăn mừơi ngày. Lại xem ngày nào tốt, mới mở ấy ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội đài, ngoại hiến, phủ huyện, quan đăng nha môn, mới có kiện cáo”. Chính Bento Thiện lại viết chữ quốc ngữ đoạn trên như sau: “Thóy nước Annam, đầu Năm mùỏ một tháng giang gọi là ngài tết. Thien hạ đi lại bua, đoạn lại chúa mớy lại oủ bà oủ bải cha mẹ củ kẻ cả bề tiên, quan quièn thì lại bua chúa, thứ dân thì lại bụt tlưác, ăn tết ba ngài mà một ngài tlưác mà xem ngài mùỏ hay mùỏ ba, ngài nào tốt, thì bua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ blờy hiẹu thien thưạng đế hoàng địa kì. Bua chúa thì lạy mà xin cho thien hạ được mùa củ dân an, đến mùỏ bải mùỏ tám mớy hết củ làm cỗ cho thien hạ ăn mươỳ ngài, lại xem ngài nào tốt, mơý mở ấn ra cho thien hạ đi chầu củ làm vịec quan, củ hỏi kịen mọy vịec, lại làm như tlưác mớy khai cuác, thien hạ bào chầu bua,từ ấy mớy có phien đi chầu, nộy đài ngoặy hién phủ huịen quan đảng (đăng?) nha môn, mớy có kịen cáo”[4]
Mấy ngày cuối năm, một số người già cả không dám ở nhà mình, nhưng phải đi trú trong đền chùa, được coi là chốn nương thân an toàn nhất. Vì họ tin rằng, dịp này có một thứ “quỷ” tên là Thưang (Thương) hay Voutuan (Vũ tuần) [5] chuyên đi bóp cổ sát hại những người già nua, nam cũng như nữ. Do đó nhiều người giả phải lẩn tránh trong đền, chùa cả ngày đêm không dám bước ra ngoài. Mãi đến lúc giao thừa họ mới dám về nhà, vì nghĩ “quỷ” ác ấy đã đi khỏi. Bởi đấy dân chúng gọi ba ngày cuối năm là ba ngày chết. Cuối năm nhiều người còn dùng vôi vẽ trước cổng ngõ, những hình vuông, tròn, hay tam giác, nhất là hình con mèo, trong số các hình, thì hình tam giác và con mèo làm cho ma quỷ sợ nhất. [6]
Tối ba mươi Tết mọi nhà đều dựng cây Nêu trước cửa. Đó là một “cột” thường làm bằng tre, cao hơn nóc nhà một chút (nên biết, ở thủ đô Thăng Long thế kỷ XVII, chỉ có nhà trệt, kể cả đền đài vua chúa). Gần ngọn cây Nêu người ta cột một cái giỏ hay chiếc hộp thông nhiều lỗ, bên trong đựng vàng mã. Vì theo Alexandre de Rhodes, dân chúng tin rằng, dẫu ông bà cha mẹ đã chết, nhưng các ngài cũng cần tiêu xài, và nhất là để trả những món nợ chưa xong khi còn sống. Theo phong tục Việt Nam thời đó, cứ cuối năm mãn chạp, liệu sao tính sổ sách cho xong: ai còn nợ, cố gắng trả cho sạch; nếu có tiền cho vay cũng phải đòi lại hết. Không ai muốn để giây dưa sang năm mới. Mọi thứ nợ cũ phải thanh toán hoàn toàn, trừ trường hợp bất khả kháng. Bởi lẽ, còn nợ sợ rằng, nếu đến ngày ba mươi Tết mà chưa trả, lỡ ra chính ngày mồng Một chủ nợ đến nhà đòi, thì thật là xui xeo suốt cả năm. [7]
Theo tài liệu viết tay bằng chữ Quốc ngữ của Thầy giảng Bentô Thiện năm 16559, mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, thì dân chúng lại dựng cây Nêu vào sáng ngày mồng Một; điểm này có lẽ ông Thiện ghi không đúng. Còn về ý nghĩa cây Nêu, ông Thiện lại trình bày khác. Theo ông, thì tục truyền rằng Đức Phật và quỷ tranh giành đất nhau. Đức Phật nói cho quỷ hay, hễ ngài trải áo cà sa tới đâu thì đất đó thuộc về ngài, còn lại là phần quỷ. Vậy Đức Phật trải áo ngài ra khắp mặt đất, làm cho quỷ không có đất ở, đành phải xuống biển. Nhưng cứ hết năm cũ, ma quỷ lại tranh đất với Đức Phật. Bởi đấy, mọi người phải dựng cây Nêu từ sáng sớm ngày mồng Một, để quỷ biết rằng đó là đất của Đức Phật đã trải áo cà sa tới; còn ai không dựng cây Nêu là đất của quỷ. [8]
Đến nửa đêm giao thừa, trong vương phủ (phủ chúa Trịnh) ba súng đại bác nổ vang báo hiệu bước sang năm mới. Theo Marini, người Ý, sống ở Đàng Ngoài từ 1647-1658, thì chính lúc giao thừa mọi người đều hội họp trong nhà và bó buộc phải mở cửa hầu đón tiếp tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Giường chiếu cũng đã dọn sạch sẽ, để tổ tiên nghỉ ngơi sau nhiều ngày đàng mệt nhọc mới về tới nhà con cháu. Ngoài ra cũng đặt ngoài hiên nhà một chậu nước sạch, một đôi giép hay guốc, và có khi hai cây mía nữa. Làm thế để hồn tổ tiên trước khi vào nhà cũng rửa chân, đi guốc cho sạch, trước khi lên giường; còn hai cây mía được coi như hai chiếc gậy giúp tổ tiên chống bước vào nhà. Mọi người sau giờ giao thừa, đều tưởng tượng là tổ tiên đã vào nhà cách vô hình [9]. Lúc đó gia trưởng nói mấy lời chúc mừng tổ tiên. Trên bàn thờ tổ, khói hương nghi ngút. Gia trưởng cùng mọi người trong nhà làm lễ cùng vái, tạ ơn tổ tiên, mời tổ tiên cùng chung vui với họ, và xin phù hộ cho con cháu năm mới được bằng an, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Liền đó trong gia đình mừng tuổi nhau: con cái lạy cha mẹ, tôi tớ lạy chủ nhà, rồi cha mẹ ban quà mừng tuổi cho con cháu, tôi tớ.
Trong ba ngày tết, nhất là ngày mùng Một, người ta đi chúc tuổi nhau; vào nhà nào cũng được mời ăn, nếu từ chối là bất lịch sự. Ngày mồng Một Tết, khi vừa ra đường mà trước tiên lại gặp phải người đàn bà, thì họ liền về nhà, chờ hai, ba giờ sau mới dám ra đường; trái lại họ sẽ gặp xui. Nhưng nếu bước chân ra đường, trước tiên lại gặp được một người đàn ông, thì thật hên. [10]
Đi Tết ai, thường cũng tết thêm mấy bánh pháo to nhỏ tuỳ theo cấp bậc, địa vị; vừa xướng Tết xong, người ta liền đốt pháo cho ran nhà, cho tà ma bỏ chạy, để hạnh phúc tràn tới. Người dưới phải đem đồ, hoặc cho người đại diện đi tết người trên. Con cháu phải tết ông bà, cha mẹ, chú bác; trò phải tết thầy… Các quan cấp dưới cũng phải gửi đồ tết quan trên. Vì vậy nhà các đại quan tràn ngập đồ tết. Thường thường các vị đó lại đem tặng bạn bè, hoặc cho quân lính, kẻ hầu hạ, để mọi người được hưởng lộc. Tất cả các quan lại không buộc dâng đồ Tết vua chúa.
Đồ tết của người dưới đối với người trên hầu hết là thực phẩm: gạo, heo, gà, vịt, cau, đường, trái cây, bánh, mứt… Nếu là quân lính, sẽ họp nhau cùng tết viên quan chỉ huy trực tiếp. Họ mang đồ Tết đến nhà quan bằng một nghi thức trang trọng: đi đầu là cai đội (chỉ huy từ 2 đến 6 thuyền, mỗi thuyền từ 30 đến 60 lính) rồi đến lính bưng một quả (hộp) gạo), và khênh con heo mới giết đặt trên bàn, để trước mặt quan. Viên quan ngồi giữa nhà thật oai nghiêm. Quân lính lạy quan sát đất ba lần. Quan nhận đồ Tết, rồi bảo người hầu đem cất đi; sau đó ban quà mừng tuổi cho lính tương xứng với đồ Tết. Còn quà mừng tuổi của vua chúa cho các quan là một bộ phẩm phục, đặt trong quả (hộp) áo sơn son vẽ rồng, cùng một mẫu. Vua chúa sai người bưng quả áo đến nhà viên quan, đi theo có lính che lọng quà mừng tuổi. Việc che lọng trên không có ý tránh mưa nắng, nhưng chỉ là tỏ sự cung kính món quà vua chúa ban.
Ba ngày cuối năm, bốn mươi đại quan thuộc triều đình và vương phủ, đi nhận lời tuyên thệ trung tín của các quan văn võ, và có khi cả gia đình họ nữa. Đó là lời thề trung thành với vua chúa; nếu nhận thấy điều gì có thể nguy hại cho vua chúa hoặc cho quốc gia, họ phải đi tố cáo. Đấy là lễ tuyên thệ tại thủ đô Thăng Long. Còn tại các Xứ, thì quan Trấn thủ, Đốc trấn và Lưu thủ [11] đại diện cho vua chúa, nhận lời thề các quan trực thuộc. Trong dịp này bất kể ai tố cáo ra một cuộc mưu phản, thế nào cũng được thưởng. Phần thưởng không những tuỳ theo tính cách quan trọng vụ âm mưu, mà còn theo chức tước người tố cáo. Nếu kẻ tố cáo là một viên quan, thì họ chỉ được hưởng tuỳ theo ý muốn vua chúa, vì nhiệm vụ của họ là phải giữ trật tự an ninh quốc gia; nếu là người dân thì được thuởng cho một phẩm hàm hoặc được thăng quan chức; hơn nữa khi tố cáo được vụ phản loạn lớn, chúa Trịnh còn ban thêm cho họ tới 500 lượng vàng hoặc 5.000 lượng bạc. Tuy nhiên dân chúng không chuộc tiền thưởng bằng được thăng quan. [12]
Ngày ba mươi Tết, Tây định vương Trịnh Tạc cùng quan quân theo hầu, ra khỏi vương phủ để đi tắm ở sông hoặc tại một chiếc nhà gần đó, hầu thanh tẩy cuộc sống dĩ vãng, đón nhận đời sống mới trong năm tới. [13]
Sáng ngày mồng một Tết, cũng như ngày một và rằm mỗi tháng chúa Trịnh cùng các quan đến chầu vua Lê; dĩ nhiên ngày mồng Một Tết buổi chầu được tổ chức long trọng hơn cả [14]. Nhưng khi Trịnh Tạc thế vị cha lên cầm quyền (1657), ông lấn đoạt quyền hành vua Lê nhiều hơn, ông cũng không đi chầu vua vào các ngày mồng một và rằm mỗi tháng. Hơn nữa, dường như từ năm 1658 trở đi, Trịnh Tạc cũng không đích thân đi tết vua, mà chỉ đón vua đi tế Nam giao. Tuy nhiên, ông cử một quan đại diện đến tết vua và chầu vua mỗi tháng hai lần.
Sau khi tết vua, các quan trở lại tết chúa. Theo Tissanier và Tavernier thì khung cảnh tết chúa long trọng hơn tết vua nhiều. Khi các quan đi chầu hoặc tết vua chúa, phải mặc áo tím, đội mũ lục lăng và phải lạy sát đất 4 lần [15]. Riêng nữ giới chỉ buộc lạy một lần theo kiểu lạy của họ (ngồi mà lạy). Dịp này cũng như các dịp khác ai muốn dộng [16] xin ân huệ gì, thì đội của lễ lên đầu, hoặc bưng cao ngang trán, tiến gần tới chúa để nói. Nếu chúa nhận lời, ngài sẽ bảo người hầu cất của lễ đi; bằng không, thì chúa cũng không nhận của lễ.
Đúng mồng ba Tết chúa Trịnh mới tiếp người ngoại quốc đến dâng tuổi. Dịp tết Canh Tý, Vĩnh thọ năm thứ 3 (1660), phái đoàn Trung Hoa chúc tuổi chúa Trịnh Tạc trước hết theo nghi lễ Trung Hoa, rồi lại lạy chúa theo nghi lễ Việt Nam, phái đoàn Hòa Lan chỉ chào chúc chúa theo nghi thức Hòa Lan…. Còn hai linh mục dòng Tên Onuphre Borgès (Thuỵ Sĩ) và Joseph Tissanier (Pháp) lại lạy hoàn toàn theo kiểu Việt Nam. Tissanier thuật rằng, ngày đó trước vương phủ đông nghẹt người không dễ gì chen chân được. Cũng may hai ông vào được tới một sân lớn để lạy chúa. Các ông cũng mặc áo thụng tím, đội mũ lục lăng, lạy chúa Trịnh Tạc bốn lạy sát đất trước mặt 4.000 người. Khi Tây định vương Trịnh Tạc thấy hai linh mục, ông làm hiệu cho hai vị lạy vương thái hậu (mẹ chúa) đang ngồi cạnh ông. Tức thì Borgès và Tissanier cũng lạy vương thái hậu bốn lần. [17]
Chính ba ngày Tết, nhiều người đều kiêng giữ không quét nhà, có nơi kiêng cả nấu ăn [18]. Tết là dịp nghỉ ngơi, xem ca hát tuồng kịch, đánh bài bạc; cũng vì thế mà nhiều người sạt nghiệp vì Tết.
Nhìn lại một số khía cạnh lịch sử tết nguyên đán thế kỷ XVII, chúng ta thấy ngay được những gì đã biến mất, những gì còn lại ngày nay. Thật ra, tinh thần Tết nguyên đán xưa và nay cũng không khác nhau, nó là dịp long trọng nhất để cấp dưới tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với cấp trên: vua đại diện toàn dân “đi đền giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kỳ”, các quan lại tết vua chúa, con cháu tết cha mẹ ông bà, gia đình xum họp lúc giao thừa đón tổ tiên, trò tết thầy v.v… Mối liên hệ chiều ngang trong dịp này bị xẹp xuống, để làm nổi mối liên hệ chiều dọc trong xã hội gia đình, quốc gia, và cả cái “xã hội” nhân thần, hay nói rộng hơn là sự giao hòa giữa người với Trời Đất, tức tam tài Thiên Địa Nhân.
Về hình thức, Tết vẫn là những ngày lễ nghỉ lâu dài, long trọng và vui vẻ nhất trong năm; vì thời đó, ngoài dịp đầu Xuân, thường thường chỉ có lệ nghỉ ngày một và rằm mỗi tháng chứ không nghỉ ngày Chúa nhật như hiện nay. Chúng tôi xin tạm ngừng ở đây mà không muốn đi sâu vào vấn đề ý nghĩa các phong tục rườm rà Tết nguyên đán, hoặc những nguyên nhân xã hội đã thay đổi nhiều hình thức và cơ cấu Tết nguyên đán ngày nay so với giữa thế kỷ XVII.

Chú thích:
[1] “Ceux qui ne trouvent dans leur maison, ni argent, ni habits, en vont chercher ailleurs par des larcins cachez, ou par la force de leurs armes” (J.Tissanier, Relation du voyage… depuis la France jusqu’au Royaume de Tunquin, Paris 1663, tr.265-266).
[2] J.P de Marini, Relation nouvelle et eurieuse des Royaumes de Tunquin et de Lao, Paris 1666, tr.245-246.
[3] Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257v
[4] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Sài gòn 1972, tr.119-120, 145 – Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257r
[5] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.108-109.
[6] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.94.
[7] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.109-110.
[8] Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146.
[9] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.251-252.
[10] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.95
[11] Cai trị Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, An Quảng do quan Trấn thủ; cai trị Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An do quan Đốc trấn; cai trị Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hưng Hóa do quan Lưu thủ.
[12] J.B.Tavernier, sđd, tr.65.
[13] “… đến ngài ba mươy thì đức chúa đi giội gọy là bỏ mọy sự cũ đi mà chịu mọy sự mớy” (coi Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146) – “Le dernier jour de l’an, le Roy (chúa Trịnh Tạc) sort de son Palais auecque son armée, pour s’aller lauer à la riuiere, ou dans quelque maison voisine” (J.Tissanier sđd, tr.266).
[14] A.F.Cardim, Relation… Paris, 1646 tr.59.
[15] J.Tissanier, sđd, tr.260 – J.B.Tavernier, sđd, tr.64.
[16] Dộng là tiếng để nói với chúa Trịnh; cũng như khi nói với vua thì dùng tiếng tâu (tâu vua, dộng chúa); nói với đại quan dùng tiếng bẩm; với quan nhỏ, tiếng trình; với vai trên, thưa. Như vậy trong thuật ngữ xưng hô đẳng cấp xã hội, tiếng dộng ở cấp thứ hai.
[17] J.Tissanier, sđd, tr.270-272.
[18] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.253


03/02/2016

Sự gian lận của anh TQ

Một bài phân tích tổng hợp khá hay, tôi lượm trên Net. 

TQ đã biến tàu (frigate: khu trục hạm) hải quân thành tàu tuần duyên (Coast Guard) nhưng vẫn trang bị súng là vi phạm tiêu chuẩn quốc tế vì tàu tuần duyên chỉ có súng nước (water canon). Khi tàu TQ xâm phạm hải phận của Senkaku thuộc Nhật. Nhật phản đối, TQ nói đó là chủ quyền của TQ?
Khi 5 nhà xuất bản sách tại Hong Kong lên tiếng chỉ trích Tập Cận Bình qua báo chí, vài hôm sau 5 người này mất tích, có tin là bị bắt về lục địa. Nhà cầm quyền TQ im lặng mặc dù dân HK biểu tình hàng ngày đòi trả tự do cho 5 người này. Sau 3 tuần, TQ mới xác nhận việc giam giữ.
Tòa án Phi đồng ý để Phi ký nhận mở các căn cứ quân sự (9 địa điểm) cho Mỹ đóng quân. Nhật vừa giúp Phi phóng vệ tinh viễn thám, nói là dùng cho nông nghiệp, thời tiết, cấp cứu vì có thể nhận diện các vật rất nhỏ nhưng ai cấm vệ tinh này theo dõi tàu, máy bay của TQ??? TQ phản đối cho rằng Phi làm cho tình trạng căn thẳng thêm (TQ không nhắc đến việc đem máy bay ra đảo).
Thị trường chứng khoán Thượng Hải tuy nhỏ (3,500, đến 21-1-2016 chỉ còn 3000) nhưng là bộ mặt “kinh tế tư bản” của TQ. Dân Tàu vốn có máu cờ bạc nhảy vô mua bán. Nhưng tin tức bị bưng bít nên khi nền kinh tế sản xuất chậm lại, thị trường nhà cửa đứng… nhà nước quay ra kêu gọi dân tiêu xài để đẩy guồng máy kinh tế nhưng dân mất việc làm, về quê thì lấy ai tiêu xài? Chứng khoán tuột dốc, nhà nước TQ bắt đóng cửa. Khi mở cửa, lại tuột dốc tiếp. Nhà nước TQ bỏ 500 tỷ Mỹ kim ra để cứu vãn nhưng sự can thiệp của nhà nước đi ngược lại những lời khuyến cáo của các nhà quan sát quốc tế. IMF nói rằng trong năm qua TQ đã mất 500 tỷ chạy ra khỏi nước (TQ cãi rằng đó là tiền nhà nước đầu tư không phải là thất thoát).
Quốc tế tiên đoán khi nhà nước TQ hết ý kiến làm sao cứu vãn kinh tế là lúc TQ rơi vào hỗn loạn. Trong cuộc họp Thượng đỉnh kinh tế tại Davos (Switzerland), TQ nói rằng suy thoái kinh tế của TQ sẽ gây thiệt hại cho Tây Phương nhiều hơn là TQ. Nhưng theo các nhà quan sát thì chỉ có Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ sẽ bị ảnh hưởng vì viện trợ kinh tế của TQ. Đã có những công ty thép, khai thác mỏ, nguyên liệu tại các nước kể trên bị phá sản vì TQ không còn nhận nguyên liệu và dĩ nhiên không trả tiền (cũng như chuyên mua dưa hấu, TQ đặt mua cho nhiều rồi lúc chót không nhận hàng). Tại Ba Tây (Brazil) cả một thành phố và phi trường bỏ hoang vì TQ xây qua chương trình viện trợ nhưng chẳng có ai đến ở. Rõ ràng TQ làm kinh tế như chuyện trẻ con: “tao sập tiệm kinh tế, nếu mày không cứu tao thì mày thiệt hại chứ tao không sao đâu” (ý nói dân Tàu chết chứ đảng CS vẫn cầm quyền).
Ngày 21-1-2016 Tập viếng thăm Saudi, Egypt ký các hiệp ước kinh tế (nguyên liệu, đường xá) trong khi Nhật nhảy vào giúp Iran khai thác dầu hỏa nhưng lại ký hiệp ước mua dầu của Mỹ và Mỹ đưa 12 chiến đấu cơ F-22 cùng hai hàng không mẫu hạm đến đóng tại Nhật. Nhật cũng đã vừa ra mắt chiến đấu cơ tàng hình (stealth jet fighter) Made in Japan. Ngày 22-1-2016, Tập đến Iran để ký các hiệp ước thương mại, không thấy nói trị giá bao nhiêu. Xem ra TQ sẵn sàng buôn bán với bất kỳ nước nào có nguyên liệu để đổi lấy những món hàng rẻ mạt sản xuất từ Trung Quốc. Sự kiện TQ Tậpn đồng Yuan vào IMF như tiêu chuẩn quốc tế, rồi sau đó liên tục phá giá đồng Yuan. Một nước có nền kinh tế mạnh thì đồng tiền phải mạnh. TQ rõ ràng không thuộc vào trường hợp này.
Sau khi Tập gặp Obama, thì chuyện TQ ăn cắp tin tức (hack) vẫn tiếp tục nhưng 5 nhân vật hacker bị Mỹ nhận diện và cơ quan (kể cả tòa nhà nơi các hacker làm việc) đã bị phế bỏ. Theo các chuyên gia an ninh của Mỹ thì Tập đã dẹp tiệm và mở tiệm mới, kín đáo hơn. TQ đã ăp cắp đủ mọi loại tin tức và thiết lập các công ty, cơ quan giống y như vậy nhưng không người đủ khả năng kinh nghiệm để điều khiển nên hiện nay các tai nạn xảy ra hàng loạt tại các công ty, kỷ nghệ, hãng xưởng của TQ. Dĩ nhiên nhà nước bưng bít và chỉ có dân bị thiệt hại. Ngoài chuyện ngăn chận ô nhiễm là Tập được thế giới đón nhận, ngoài ra những Tập mong đợi: Tập nói TQ cũng bị ăn cắp tin tức nhưng chẳng nói ai, nước nào muốn ăn cắp tin và loại tin gì của TQ bi ăn cắp (nói cho có chứ ai thèm ăn cắp tin tức TQ vì TQ có gì bí mật hay đáng để ăn cắp đâu), việc dụ dỗ các công ty kỹ thuật (Microsoft, Google, Amazone, Apple..) làm ăn với TQ thì zero, chẳng được gì. Chuyện đòi các tư bản Trung Hoa trốn sang Mỹ (vì tham nhũng) thì Mỹ trả lời theo luật Mỹ, những người này không làm gì phạm pháp Mỹ nên không có lý do để bắt (chuyện họ tham nhũng tại Trung Hoa, mà TQ để họ trốn thoát là chuyện nội bộ TQ). Tập về tay không.
Khi TQ cho máy bay hạ cánh xuống đảo đang tranh chấp. CSVN phản đối. TQ nói VN cho phép, CSVN nói không. TQ không đưa ra bằng chứng là VN cho phép: Lờ. Sau đó TQ đưa dàn khoan sát bờ biển VN hơn. CSVN phản đối dàn khoan, quên chuyện đảo. Theo TQ thì các đảo giúp bảo vệ chủ quyền TQ chống xâm lăng? Ai xâm lăng, đe dọa chủ quyền TQ? VN hay Phi? Tại sao TQ sợ các nước nhỏ đe dọa chủ quyền TQ hay chính các hòn đảo đó dùng để xâm lăng chủ quyền các nước nhỏ. Đó là chiêu gian lận của TQ.
Khi TQ ký kết song phương với một số nước về việc dùng tiền Yuan trong việc trao đổi kinh tế. Sau đó TQ hạ giá đồng Yuan, hàng hóa TQ trở nên rẻ hơn và tràn ngập các nước này. Đồng thời TQ ép các ngân hàng ngoại quốc tại Trung Hoa phải nhận đồng Yuan (mất giá, không ai thích dùng hay giữ). Đó là trò gian lận của TQ.
Khi TQ thắng Nhật trong việc đầu tư xây đường xe lửa (high speed rail) tại Nam Dương. Chỉ vì Nhật đòi Nam Dương phải chia xẻ vốn (số tiền tuy nhỏ nhưng đòi hỏi Nam Dương có trách nhiệm) trong khi TQ không đòi hỏi tiền đóng góp của ND. Khác biệt là trong tiến trình xây cất, TQ tiếp tục hạ giá đồng Yuan. Lúc ký, TQ cam kết : thí dụ 50 triệu yuan. Vài năm sau 50 triệu yuan chỉ còn giá trị 4/5, rồi 3/5 thì sẽ không đủ trang trải chi phí và rút cục chương trình sẽ dở dang vì hết tiền. Ai sẽ chịu sự khác biệt giá cả? Lúc đó công ty xây cất TQ sẽ đòi tiền ND, trả bằng…dollars nếu không sẽ bỏ dở. ND không theo dõi vì yên chí ngồi chờ công trình hoàn tất. Bỗng dưng nửa chừng bị bỏ rơi ND biết gì mà tiếp tục quản lý? ND bỏ thì hóa ra chương trình xe lửa thành rác. Nếu có tìm công ty thay thế thì chẳng có ai muốn nhận những gì TQ xây dở dang vì giá trị không bền.
Khi viên chức hàng đầu của bộ Thống Kê TQ (statistics) bị điều tra vì ăn hối lộ thì tự hỏi những con số của bộ đưa ra về kinh tế TQ có xác thực không?
Xem bàn cờ TQ bay ra khắp nơi, xuất quân ì xèo nhưng có thực đem lại kết quả thì phải chờ xem. Nhưng thực tế, ngoài việc xây đường xá (infra structure) và khai thác nguyên liệu (dầu, mỏ) thì TQ chẳng còn gì khác. Hàng đắt giá như điện thoại (thì microprocessor mua của nước ngoài), máy bay (động cơ mua nước ngoài), xe hơi (hãng Ford yểm trợ kỹ thuật) thì chẳng có lời bao nhiêu.
Mối nguy của TQ là kinh tế bấp bênh mà nhà nước lại hung hăng gây hấn. Quân đội TQ tuy có vẻ tân trang nhưng thực tế toàn đồ ăn cắp. Hải Quân TQ muốn ra biển lớn nhưng kẹt Nhật, Phi, VN, Đài Loan… Sau kinh nghiệm Tây Tạng và Hong-kong, các nước lân bang không muốn làm mồi cho TQ nữa. Liệu TQ có thoát thế kẹt về kinh tế-quân sự hay không?


02/02/2016

Niệm Phật

Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
 
Chúng ta niệm Phật là vì trước kia, khi còn đang tu hành ở nhân địa, Ðức Phật A-Di-Ðà đã lập 48 lời đại nguyện. Trong các lời nguyện ấy, Ngài nói rằng: "Chúng sinh nào trong mười phương thế giới mà xưng niệm danh hiệu của tôi thì sẽ được thành Phật. Nếu chúng sinh ấy không được thành Phật, tôi sẽ không giữ ngôi Chính Giác--tôi cũng sẽ không thành Phật!"
 Nương theo những thệ nguyện vĩ đại, bao la của Ðức Phật A-Di-Ðà thì cũng như đáp thuyền sang bờ bên kia vậy. Những thệ nguyện của Ðức Phật A-Di-Ðà chính là "bản hợp đồng" mà Ngài đã ký với mười phương chúng sinh--nếu chúng ta niệm Phật mà không được vãng sinh Cực-Lạc Thế-Giới, thì Ðức Phật A-Di-Ðà sẽ không đủ tư cách thành Phật. Do quan hệ liên đới này, mỗi chúng ta đều nên thực hành Pháp-môn Niệm Phật với niềm tin tưởng thâm sâu và thệ nguyện chân thành, tha thiết.
 Niệm Phật là pháp-môn đơn giản nhất, viên dung nhất và hữu hiệu nhất. Pháp-môn này không chiếm nhiều thời giờ và cũng không làm tốn kém tiền bạc. Dù là người già cả, thanh niên hay tráng niên, người có bệnh hay kẻ khỏe mạnh, ai ai cũng đều có thể niệm Phật được cả.
 Pháp-môn Niệm Phật này là "tam căn phổ bị, lợi độn kiêm thâu" (bao gồm ba căn cơ, thâu nạp cả kẻ lanh lợi lẫn người kém cỏi). "Tam căn" là thượng căn, trung căn và hạ căn--tức là hạng người có trí huệ, hạng người tầm thường và hạng người ngu si. "Lợi độn kiêm thâu" có nghĩa là tất cả chúng sinh--từ kẻ ngu si nhất cho tới kẻ thông minh nhất, bao gồm luôn cả súc sinh--đều có thể niệm Phật để được vãng sinh về Thế-giới Cực-Lạc ở phương Tây; cho nên nói: "Dùng sức ít mà thành công nhiều"--Pháp-môn Niệm Phật rất dể thực hành và cũng rất thuận tiện.
 Có bốn cách niệm Phật là Trì Danh Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm Phật, và Thực Tướng Niệm Phật.

1. Trì Danh Niệm Phật: Cách này là luôn luôn trì niệm sáu chữ hồng danh "Nam mô A-Di-Ðà Phật."
 Có một phương pháp gọi là kim Cang Niệm--tức là niệm bằng tâm, chính mình nghe rõ mồn một tiếng niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật" từ trong tâm, miệng niệm một cách rõ ràng, tai cũng nghe thấy một cách rõ ràng.
Ngoài ra còn có một phương pháp niệm hết sức đơn giản. gọi là "triêu mộ thập niệm" (sáng, tối mười niệm)--sáng sớm thức dậy, sau khi đi vệ sinh, súc miệng rửa mặt rồi, quý vị hãy chắp tay, day mặt về hướng tây và niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật..."Cứ một hơi thở là một lần niệm--được bao nhiêu ln thì cứ niệm bấy nhiêu--và cứ thế mà niệm trong mười hơi thở.
Sáng sớm cũng như chiều tối đều có thể thực hành phép Thập Niệm này.

2. Quán Tượng Niệm Phật. "quán tượng" nghĩa là thỉnh một bức tượng Phật A-Di-Ðà, rồi vừa niệm danh hiệu vừa quán tưởng tướng hão trang nghiêm của Ðức Phật A-Di-Ðà, với tướng "bạch hào" (lông trắng) giữa hai chân mày của Ngài. Thường xuyên quán sát tôn tượng trong lúc  niệm Phật thì sẽ dễ đạt được Niệm Phật Tam muội với trạng thái "nhất tâm bất loạn."
 Ðiểm then chốt của việc niệm Phật là đạt được Niệm Phật Tam-muôi với sự chuyên nhất, tâm không tán loạn. Nếu quý vị đạt được Niệm Phật Tam-muội, thì bấy giờ, "mưa xuyên không lọt, gió thổi không thấu" --quý vị đi, đứng, nằm, ngồi đều ở trong Tam-muội, trong Ðịnh cả. Quý vị đi cũng "Di-Ðà" mà ngồi cũng "Di-Ðà," đi cũng "Phật" mà ngồi cũng "Phật."
Khi ở trong Ðịnh, quý vị sẽ được thấm nhuần "nước" Trí-huệ. Một khi quý vị đạt được Niệm Phật Tam-muội với sự chuyên nhất, không tán loạn, thì chắc chắn quý vị sẽ được vãng sinh Tịnh-độ.

3. Quán Tưởng Niệm Phật. Ðây là phương pháp tưởng thuần túy. không cần tượng Phật. Hãy quán tưởng rằng:
"A-Di-Ðà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân.
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-Tát chúng diệc vô biên.
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh.
Cửu phẩm hàm linh đang bỉ ngạn."
 Hãy quán tưởng rằng tướng "bạch hào" của Ðức Phật A-Di-Ðà tỏa ánh sáng soi tỏ khắp một khu vực rộng lớn bằng năm ngọn núi Tu-Di. Ðôi mắt xanh biếc của Ngài thì trong ngần và lớn bằng bốn biển lớn. Trong vô lượng ánh hào quang của Ðức Phật A-Di-Ðà hiện ra vô số hóa thân của chư Phật và vô biên hóa thân của chư Bồ-Tát. Ðó là quán tưởng Pháp-thân của Ðức Phật A-Di-Ðà. Quán tưởng bài kệ xưng tán Phật này cũng có thể đạt được Niệm Phật Tam-Muội.

4. Thực Tướng Niệm Phật. Thực Tướng Niệm Phật chính là Tham Thiền. Khi tham Thiền, chúng ta tham cứu "Ai niệm Phật?" tức là chúng ta đang tìm kiếm thực-tướng. Thực-tướng chíng là vô-tướng, song le, chẳng có cái gì mà không có "tướng" cả.
 Theo phương pháp Thực Tướng Niệm Phật, khi chúng ta niệm danh hiệu của một đức Phật tức là niệm danh hiệu của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, và khi niệm danh hiệu của tất cả chư phật trong mười phương ba đời tức là chúng ta quy nạp về cõi Tịnh-độ và chúng ta niệm "nam mô A-Di-Ðà Phật" mà vẫn không rời một đức Phật nào cả. Ðó là Thực Tướng Niệm Phật--là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm. Bấy giờ, đó chính là Tham Thiền vậy.

Vì thế, người thật sự hiểu rõ về Niệm Phật sẽ không phản đối Tham Thiền; và người thật sự hiểu rõ về Tham Thiền cũng sẽ không phản đối Niệm Phật, mà còn không phản đối cả Giáo-tông, Mật-tông và Luật-tông nữa!


Một số cách thay đổi số mệnh của một người


Người xưa thường khuyên bảo chúng ta “sửa tật xấu, bỏ tính nóng nảy,” nếu có thể thực hành được điều này thì một thời gian sau số mệnh nhất định sẽ chuyển thành tốt.

Làm việc thiện tạo phúc

Thiện nghiệp nhiều thì phúc báo lớn, phúc báo lớn thì mọi việc sẽ thuận lợi, gặp nhiều may mắn và việc hung sẽ tự đi. Nếu như hành ác nhiều thì phúc báo ít, phúc báo mà không đủ thì mọi việc cũng sẽ không thuận, gặp nhiều tai ương. Số mệnh tốt hay xấu là do hành vi của mình tạo ra, là do tay mình nắm giữ không phải là do người khác “bói” ra, mà là do bản thân hành thiện tạo phúc, tích lũy thiện nghiệp. Đây là dùng phúc chuyển nghiệp, khiến “nghiệp nặng” sẽ thành “nghiệp nhẹ,” “nghiệp nhẹ” hóa thành không, từ đó mà sống một cuộc đời suôn sẻ.

Tâm niệm quyết định số mệnh

Số mệnh của một người tốt hay xấu ngoài việc có quan hệ với phúc báo ra còn có quan hệ với tâm niệm của người đó. Tâm niệm của một người thường thường sẽ trong lúc vô tình mà quyết định số mệnh cả đời của mình. Hạnh phúc vui vẻ hay không, không phải nằm ở việc chúng ta có bao nhiêu hay có cái gì, mà phụ thuộc vào nội tâm chúng ta nghĩ cái gì, tức là “tâm niệm” và “tâm thái.” Tướng do tâm sinh là nói ý như vậy, mọi việc đều do tâm mình diễn hóa ra.
Ví dụ, một người hay phàn nàn là vì thường ở trong cảnh tâm thái oán trách, than phiền, dần dà “phàn nàn” sẽ trở thành ngôn ngữ thường dùng trong đời sống hàng ngày của người này. Thuận theo năm tháng tích lũy, nó sẽ trở thành “sở trường” của người này, mà “sở trường” này trong lúc vô hình sẽ khiến anh ta luôn thốt lên những tiếng than trách buồn bã, oán trời trách đất và sẽ khiến anh ta gặp nhiều hơn nữa những sự tình không may mắn, tinh thần sa sút.
Một người thường xuyên chê trách người khác, bởi vì tâm thái của người này luôn tồn tại sẵn sự chê trách nên lâu ngày sẽ trở thành thói quen “nhìn ai cũng không vừa mắt.” Từ đó hình thành nên cách nói tiêu cực, lời nào cũng nói đến mặt trái, làm việc thường hay bắt bẻ, tạo thành cá tính hay nhìn khuyết điểm của người khác. Như thế sẽ khiến người này sống một cuộc đời buồn khổ, không hiểu được bao dung và thiện giải.
Hay một người hay nói lời thị phi, lâu ngày “nói lời thị phi” sẽ trở thành sở trường của người này. Một thời gian sau, “bàn lộng thị phi” sẽ vô tình mà trở thành một thói quen trong cuộc sống sinh hoạt của người này. Người này luôn đi tìm kiếm  những “tin vỉa hè” và “chuyện giật gân” để đưa đẩy chuyện. Như thế, cuộc sống của người này sẽ không nhẹ nhàng và bình an. Không bình an cũng là một nỗi khổ.

Cải biến tâm trạng

Cá tính, thói quen, tâm thái của một người đều là có mối quan hệ mật thiết với “tâm niệm” của người đó. “Tâm niệm” nếu như không cải sửa thì cho dù người đó có cải sửa phong thủy, nghề nghiệp, tên họ đi nữa cũng sẽ không thay đổi vận mệnh được. Điều này cũng có nghĩa giống như cách nói: “Hoàn cảnh có thể không thay đổi được nhưng tâm trạng thì có thể thay đổi được.”
Cũng đồng nghĩa với câu: “Nhân sinh không thể cải sửa nhưng nhân sinh quan là có thể cải sửa được.” Vì vậy, một quan niệm có thể cải biến một cách nghĩ, cách nghĩ có thể cải biến thì tâm thái sẽ cải biến, tâm thái cải biến thì thái độ tất sẽ cải biến, thái độ cải biến thì thói quen sẽ cải biến, thói quen cải biến sẽ dẫn đến biểu hiện (cách căn ở, ứng xử…) cũng cải biến. Một khi những biểu hiện của người đó được cải biến thì cuộc đời sẽ cải biến và cuộc đời cải biến thì chính là số mệnh đã được cải biến.
Cho nên nói, trong cuộc đời mỗi người, “tâm niệm” sẽ thời thời khắc khắc ảnh hưởng đến chúng ta. Tâm niệm tốt sẽ giống như một hạt giống tốt, sẽ nở ra một bông hoa xinh đẹp hương thơm ngào ngạt khiến chúng ta có cuộc đời hạnh phúc. Tâm niệm không tốt sẽ giống như một hạt giống xấu làm nở ra một trái cây “tai ương” khiến bạn có  một cuộc sống buồn thảm và chua xót. Kỳ thực, “quý nhân” có thể giúp chúng ta thay đổi số phận không phải đang ở một nơi xa mà thực ra “chính niệm” chính là “quý nhân” lớn nhất trong cuộc đời chúng ta. (Chính niệm được hiểu là những suy nghĩ đúng đắn, ngay chính).


Trương Quả Lão tiên đoán thời hiện tại


Trương Quả Lão còn có tên là Trương Quả, là một trong số 8 vị tiên của Đạo giáo, nhờ tu Đạo mà trở thành tiên. Ông là vị tiên có nguyên mẫu là nhân vật có thật trong lịch sử.
Trương Quả Lão nói rằng đúng một ngàn năm sau: “Quan không lo việc nước, chỉ biết nhận hối lội, cứ hối lộ là giải quyết được mọi việc, đút lót cả ban ngày ban mặt, chính là trở thành ma quỷ bóc lột nhân dân. Thiên hạ trở nên vô đạo, phóng túng tình dục, người người chỉ lo cầu lợi cho mình, không kể gì đến liêm sỉ lễ nghĩa”. Hiện nay, những sự tình này đều đã xuất hiện, trong các bài báo tin tức hàng ngày đều thấy các chuyện tham ô, hủ bại, khiêu dâm, chính là cảnh tượng bại hoại của thời mạt thế.
Trương Quả Lão trong dự ngôn thời mạt thế đã phân tích rất sâu sắc, chân thực. Ông đã nói:
“Từ thực chất mà nói, con người thời mạt thế làm hại lẫn nhau, có thể đổi mạng người khác vì cuộc sống của mình, khắp nơi trong thiên hạ bất ổn, chiến tranh liên miên, có thể gọi là đại loạn, không lời nào diễn tả hết. Nhân thế như vậy, sự hỗn loạn ở thiên hạ trở nên bại hoại chủ yếu là do nhân tâm không còn, con người trở thành những con quỷ trong bộ da mới, đó mới thực sự là đại loạn kinh hoàng. Người xưa nói, nhân tâm đảo lộn, đạo trời không dung. Tám chữ đó của cổ nhân đúng là lời chú thích chính xác cho thời kỳ này. Nhân thế loạn đến mức này ắt sẽ bị trừng trị, những linh hồn bất hảo sẽ bị đày xuống quỷ giới”.
Trương Quả Lão nhìn Nhị Linh Quan cười nói: “Người tài có thể nghe mà hiểu rõ. Nhị Công sở nói quỷ thế ngập trời, con người sẽ giống như ác quỷ, lời nói này nghe thật kinh hãi, kỳ thực tương lai chắc chắn sẽ có ngày như thế, bất quá chỉ đến sau 1000 năm nữa mà thôi.”
Về cơ bản, có thiện thì có ác, cũng là có âm thì có dương. Từ thủa sơ khai còn hỗn độn, con người đều rất tự nhiên chất phác, không có xảo trá, đều là người lương thiện. Cho đến hậu thế sau này, thì con người càng ngày càng trở nên xảo trá, mỗi ngày một ghê gớm hơn, nhân tâm đời này qua đời khác nguội lạnh đi từng từng ngày. Đến lúc này đây là như băng giá cũng là lúc dương khí thế gian suy kiệt, âm khí đang ở thời kỳ thịnh vượng.  Nhị công sở nói đó chính là lúc quỷ thế ngập trời.
Quỷ là thuộc về chí âm, con người trở nên quỷ quái, tất cả đều là đê tiện xấu xa và gian hiểm, giảo hoạt như những tên trộm. Trên thì quan không lo việc nước, chỉ biết nhận hối lộ. Cứ hối lộ là giải quyết được mọi việc, đút lót cả ban ngày ban mặt, chính là trở thành ma quỷ bóc lột nhân dân. Thiên hạ trở nên vô đạo, phóng túng tình dục, người người chỉ lo cầu lợi cho mình, không kể gì đến liêm sỉ lễ nghĩa. Con người tiến gần đến với quỷ mà không biết, tùy ý mà phá rối, tuyệt nhiên không ai ngăn cản được. Đó gọi là tâm địa của quỷ, lòng dạ của quỷ, mưu mô của quỷ, suy nghĩ của quỷ, tương lai từng việc từng việc sẽ bộc lộ ra. Cuối cùng là người và quỷ không còn khác biệt, vũ trụ to lớn hoàn toàn trở thành quỷ giới, nhưng đây đều là việc tương lai.
Kẻ bần đạo ước chừng trong khoảng 1500 năm nữa, nhìn chung cảnh tưởng như thế sẽ tới. Hôm nay mà nói về nó thì hãy còn quá sớm mà thôi”.
Thiên Sư nghe xong, cười nói: “Bạn cũ đường xa đến thăm hỏi kỳ thực ra là muốn được nghe chia sẻ”. Nghe xong Trương Quả Lão lại nở nụ cười và nói: “Lời này mọi người hôm nay nghe xong chắc đều cho rằng ta nói hơi quá. Nhưng ta quả quyết đó không phải là những tuyên bố vui đùa, thật sự là tương lai nhất định có ngày đó. Hết thảy trời đất đều thuận theo Đạo, không ngoài hai chữ âm dương. Dương thịnh thì âm suy, âm thịnh thì dương cũng ngừng. Các triều đại ngày xưa cũng vậy, lúc ổn định lúc loạn lạc, lúc thịnh lúc suy, chính là đạo lý này.
Nhân thế loạn đến mức như vậy cũng là lúc những người tốt bị hãm hại, bị chà đạp đại diện cho dương khí của thời loạn thế, còn quỷ giới chính là âm khí của thời này. Trong đó phần dương khí ban đầu đã chuyển thành âm khí, trung gian chẳng thể tính là đã kinh qua mấy nghìn mấy vạn năm. Đến thời kỳ đỉnh điểm của đại loạn này thì chỉ còn âm khí. Dương khí suy kiệt, âm dương đảo lộn như thế so với từ cổ chí kim là hoàn toàn khác hẳn. Thái cực dương vốn lương thiện dù biểu hiện ra bên ngoài thì vẫn còn hào nhoáng đẹp đẽ, nhưng bên trong đã mục rỗng, cảnh tượng khó diễn tả hết bằng lời. Thái cực âm trở nên hỗn độn, vừa rối loạn vừa điên đảo, mơ hồ, không định rõ là gì, chỉ có chướng khí mịt mù. Nhân tâm thế gian lúc này đây có thể coi là cực loạn.
Cái loạn bắt nguồn trong nhân tâm mà không phải ở sự việc bề ngoài nữa. Đó gọi là loạn từ căn bản nhất, không phải là sự loạn nhỏ nhoi nhất thời, không có gì loạn bằng. Thời kỳ con người lương thiện như lúc thượng cổ đã qua, lúc này đây chính là thời kỳ đại loạn.
Từ lúc này về sau, thiên địa chắc chắn hợp lại làm một. Phải chờ đến một giai đoạn khai sáng mới, khôi phục lại bản tính thiện trong con người, để lại bắt đầu một kỷ nguyên mới. Đạo trời chính là như thế, không thuận có được chăng? Dù có trí tuệ to lớn như  Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Vương Mẫu Nương Nương, Tây Phương Phật Hòa Đông Phương Sóc, cũng không thể nào cứu vãn được sự biến hóa nhân tâm lúc này.”
Thiên Sư và Linh Quan nghe xong lấy làm kinh ngạc không thôi.


Những điều cần kiêng kỵ trong đêm giao thừa

Sắp đến ngày cuối năm, nhà nhà sẽ đón giao thừa và có buổi họp mặt tất niên cùng nhau ăn bữa cơm. Đối với người Việt, trong bữa cơm tất niên này có một số điều cần lưu ý để tránh vận xấu cho sang năm. Chúng ta hãy cùng xem đó là những điều gì nhé.

1. Những điều kiêng kỵ trong nói chuyện

1. Khi được người nhiều tuổi hơn gắp cho thức ăn mà bạn đã no rồi thì hãy nói rằng “cháu có rồi”, đừng nói “cháu không cần”. Khi ăn tráng miệng Việt quả xong thì nên nói “nhiều quá”, đừng nói “hết rồi”.
2. Tránh nói những từ mang điềm xấu như “phá”, “bại”, “thua”, “bệnh”, “chết”
3. Nếu vô ý nói phạm vào điều kỵ gì đó thì bạn có thể hóa giải bằng cách nói “Lời trẻ con không có lỗi gì, không có vấn đề gì!”…

2. Những điều kiêng kỵ trong thờ cúng tổ tiên

1. Người Việt quan niệm rằng, trước khi mời linh hồn tổ tiên về thì các thành viên trong gia đình phải đầy đủ, đồ cúng phải chu toàn. Nếu không thì mang ý nghĩ không tốt, dẫn đến gia đình không đoàn viên, tiền tài không dồi dào.
2. Sau khi đã mời linh hồn tổ tiên về thì chỗ hai bên bàn thờ không ai được ngồi. Nếu ngồi ở đây thì cũng như đang tranh giành chỗ ngồi của tổ tiên.
3. Không được tranh cãi ầm ĩ, càng không được phép mắng chửi người, nếu không chính là thể hiện sự không tôn kính tổ tiên. Không được đem trà uống thừa giội trên mặt đất để tránh lẫn lộn với vẩy nước.
4. Lúc đại tế linh hồn tổ tiên không được gọi to tên của trẻ nhỏ để tránh quỷ hồn vô chủ ngoài cửa lớn sau khi nghe được sẽ gây ra chết yểu.
5. Trong khi ăn cơm kỵ người khách đến làm phiền bởi vì sẽ làm cho cả gia đình không được an bình.

3. Những điều kiêng kỵ lúc đón giao thừa

1. Tránh gây ra tiếng động lớn vì tiếng động lớn đánh thức ác quỷ.
2. Kỵ soi gương để tránh gặp “ác ma”.
3. Kỵ đổ dầu đèn ra nền nhà, nếu như mùi dầu mà át cả mùi rượu thì “ma quỷ” sẽ tỉnh dậy, khiến tai họa lũ lượt kéo đến.
4. Kỵ làm vỡ đồ vật vì như vậy sẽ có ý “phá vận”.
Trên đây là một số quan niệm của người Việt về việc giữ bình an và may mắn cho năm mới trong đêm giao thừa và bữa ăn tất niên.
Mong rằng mọi người lưu tâm vận dụng để có một năm mới thuận lợi, tốt lành.
Ông bà ta cũng thường hay nói câu “có kiêng có lành” là ý như vậy.



Dự báo thời tiết Tết Nguyên đán Bính Thân 2016

Dự báo cụ thể của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương về tình hình thời tiết trên cả nước từ 2/2-14/2 (tức từ 24 tháng Chạp đến 7 tháng Giêng) như sau:
Khu vực Hà Nội:
Dự báo từ 1-7/2/2016 (23-29 tháng Chạp) nhiệt độ thấp nhất 11-14 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 15-18 độ C. Mưa nhỏ, trời rét đậm.
Từ 8-11/2/2016 (1-4 tháng Giêng) nhiệt độ thấp nhất 14-17 độ C. Nhiệt độ cao nhất 18-21 độ C. Nhiều mây, không mưa, trưa chiều giảm mây, hửng nắng. Trời rét.
Từ 12-14/2/2016 (5-7 tháng Giêng) nhiệt độ thấp nhất 14-17 độ C. Nhiệt độ cao nhất 17-20 độ C. Nhiều mây, không mưa. Trời rét.
Khu vực Tây Bắc Bộ:
Từ 1-7/2/2016 (23-29 tháng Chạp), nhiệt độ thấp nhất 9-12 độ C, có nơi 6-8 độ C. Nhiệt độ cao nhất là 14-17 độ C. Mưa nhỏ, trời rét đậm.
Từ 8-11/2/2016 (1-4 tháng Giêng). Nhiệt độ thấp nhất từ 11-14 độ C. Nhiệt độ cao nhất 21-24 độ C. Nhiều mây, không mưa, trưa chiều giảm mây, trời nắng. Trời rét.
Từ 12-14/2/2016 (5-7 tháng Giêng). Nhiệt độ thấp nhất từ 12-15 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 20-13 độ C. Nhiều mây, không mưa, trưa chiều giảm mây, hửng nắng. Trời rét.
Khu vực Đông Bắc Bộ:
Từ 1-7/2/2016 (23-29 tháng Chạp). Nhiệt độ thấp nhất 10-13 độ C, vùng núi 5-8 độ C. Nhiệt độ cao nhất 14-17 độ C. Mưa nhỏ, trời rét đậm.
Từ 8-11/2/2016 (1-4 tháng Giêng) nhiệt độ thấp nhất 13-16 độ C. Nhiệt độ cao nhất 19-22 độ C. Nhiều mây, không mưa, trưa chiều giảm mây, hửng nắng. Trời rét.
Từ 12-14/2/2016 (5-7 tháng Giêng), nhiệt độ thấp nhất 14-17 độ C. Nhiệt độ cao nhất 17-20 độ C. Nhiều mây, có mưa vài nơi. Trời rét.
Thanh Hóa-Thừa Thiên Huế:
Từ 1-7/2/2016 (23-29 tháng Chạp). Nhiệt độ thấp nhất 12-15 độ C. Nhiệt độ cao nhất 17-20 độ C. Nhiều mây, có mưa. Trời rét, phía Bắc có rét đậm.
Từ 8-11/2/2016 (1-4 tháng Giêng). Nhiệt độ thấp nhất 15-18 độ C. Nhiệt độ cao nhất 20-23 độ C. Nhiều mây, không mưa, trưa chiều giảm mây, hửng nắng. Phía bắc trời rét.
Từ 12-14/2/2016 (5-7 tháng Giêng). Nhiệt độ thấp nhất 16-19 độ C. Nhiệt độ cao nhất 19-22 độ C. Nhiều mây, không mưa, trưa chiều giảm mây, hửng nắng. Phía bắc trời rét.
Đà Nẵng- Bình Thuận:
Từ 1-7/2/2016 (23-29 tháng Chạp). Nhiệt độ thấp nhất 18-21 độ C. Nhiệt độ cao nhất 25-28 độ C. Có mưa, mưa rào; Phía Bắc trời rét lạnh.
Từ 8-11/2/2016 (1-4 tháng Giêng). Nhiệt độ thấp nhất 19-22 độ C. Nhiệt độ cao nhất 26-29 độ C. Không mưa, trưa chiều trời nắng.
Từ 12-14/2/2016 (5-7 tháng Giêng). Nhiệt độ thấp nhất 20-23 độ C. Nhiệt độ cao nhất 28- 31 độ C. Không mưa, trưa chiều trời nắng
Khu vực Tây Nguyên: Từ 1/2–14/2/2016. Nhiệt độ thấp nhất 17-20 độ C. Nhiệt độ cao nhất 27-30 độ C. Phổ biến không mưa, ngày nắng.
Khu vực Nam Bộ: Từ 1/2–14/2/2016. Nhiệt độ thấp nhất 22-25 độ C. Nhiệt độ cao nhất 30-33 độ C.


Tính cách Việt


Ở Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương tự là: “The ugly American” của WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE BURDICK xuất bản năm 1958 đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất thời đó. Dường như có nhiều liên quan giữa sự can đảm nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ cho dân tộc.
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:
1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.- Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương). [to save face or to show off].
8.- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9.- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc).
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?
Người xưa cũng đã nhận ra:
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!”
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…”
Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao?
Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 – 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi Hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn thất vọng .“Trước là làm đẹp sau là ấm thân”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.
Tiêu chuẩn của cuộc sống hiện nay của nhiều người, nhiều gia đình là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học nước ngoài… Đi đâu cũng nghe khoe nhà trên cả tỷ bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư… Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được..
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như: John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs…, chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẩn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc!

Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.