St trên net.
Trang phục truyền thống còn là quốc hồn quốc túy của một đất nước cũng
như là niềm tự hào dân tộc, nó thể hiện nguồn gốc văn hóa của một con người
trong xã hội. Nếu đời người chỉ có mấy chục năm, thì trang phục truyền thống đều
có tuổi cả nhiều trăm năm, nhiều nghìn năm, nên có sức sống mãnh liệt và làm
giàu cho nhân cách ấy.
Xường xám Trung Quốc
Xường xám
hoặc sườn xám là những tên gọi khác nhau được người Việt chúng ta gọi về loại
trang phục truyền thống này. Nó còn được gọi là áo dài Thượng Hải do xuất hiện
nhiều ở vùng này. Nó được coi là mẫu mực trong thiết kế trang phục Trung Hoa,
thể hiện nét giao thoa văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Loại trang phục
này rất thịnh hành của chị em phụ nữ Trung Quốc, bởi nó thể hiện được phong
thái đoan trang, đường nét mĩ miều, yêu kiều, mềm mại của người phụ nữ.
Xường xám
được xem là thiết kế điển hình cho trang phục truyền thống Trung Quốc, thêm vào
đó là sự mẫu mực trong sự kết hợp giao thoa giũa văn hóa thời trang Trung Quốc
và Phương Tây, điều này đã được công nhận là sự kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc
cùng học thuật.
Sari – Ấn Độ
Ấn Độ là quốc
gia có nền văn hóa vô cùng đặc sắc và lâu đời, truyền thuyết cho biết Thần tạo
hình cho người Ấn Độ có ngoại hình giống Phật. Đương nhiên Sari của Ấn Độ cũng
có sức sống mạnh mẽ. Nó có những điểm đặc biệt bí ẩn nào?
Sari bao gồm
một mảnh vải dài khoảng 5-9m, rộng khoảng 1m quấn quanh thắt lưng và vắt qua một
bên vai. Sari thường được mặc bên ngoài một chiếc váy lót gọi là shaya với tay
ngắn và được cắt ngang bụng.
Trang phục
này theo truyền thuyết có nguồn gốc giống trang phục của các vị Phật và các nhà
sư tu hành Phật giáo: cũng là một mảnh vải bố, quấn quanh thân và vắt qua một
bên vai.
Theo truyền
thuyết, các vị Phật choàng một tấm vải bố vàng vắt qua một bên vai. Các nhà sư vì vậy cũng có trang phục may bằng vải
bố quấn quanh thân và vắt qua một bên vai.
Trang phục
sari hiện đại, để đẹp và cầu kỳ hơn, nên thường được trang trí thêm bởi các họa
tiết thêu tinh xảo, viền ren, hoa văn, thậm chí đính đá quý. Ngoài ra, màu sắc
đa dạng của sari cũng phản ánh hoàn cảnh của người mặc, ví dụ cô dâu mặc sari
màu đỏ, phụ nữ góa chồng mặc sari màu trắng còn tầng lớp thấp hơn trong xã hội
mặc màu xanh da trời. Ngày nay, tại các thành phố lớn của Ấn Độ, phụ nữ chỉ mặc
sari trong các dịp lễ quan trọng trong khi ở vùng nông thôn thì sari vẫn là
trang phục chủ yếu.
Thai Chakkri
Thái
Chakkri là bộ trang phục chính được người phụ nữ Thái Lan mặc trong những dịp
quan trọng. Trang phục truyền thống này vừa mang lại vẻ đẹp quyến rũ, duyên
dáng kiểu truyền thống và tôn lên những đường cong của người phụ nữ. Đường nét
của Thái Chakkri tinh tế, nó bao gồm một chiếc váy dài quấn quanh người gọi là
Phasin và một chiếc khăn dệt vắt qua vai.
Nhìn vào
các đường nét trong trang phục, người ta đều thấy sự tinh tế và huyền bí như là
vốn không phải thuần túy là sản phẩm của con người, bởi vì trang phục truyền thống
và có yếu tố Thần ở trong đó.
Trang phục
Apsara – Khmer
Trong dịp lễ
hội cổ truyền Chol Chnam Thmay của người Khmer, các cô gái sẽ mặc trang phục
Apsara bắt mắt. Bộ trang phục đầy quyến rũ mang nét cổ truyền của một dân tộc.
Tôn nên nét nhẹ nhàng duyên dáng mà sắc sảo của một người phụ nữ và khiến họ giống
như những vị Thần.
Kimono – Nhật
Bản
Kimono là
trang phục truyền thống của phụ nữ Nhật Bản với nhiều loại, nhiều tên gọi khác
nhau. Mỗi loại kimono được sử dụng cho một dịp riêng biệt và cũng vì vậy nó
khác nhau về chất liệu, hoa văn, kiểu dáng. Giống như Sari, sức sống của Kimono
cũng đến từ việc nó vốn là trang phục của các vị Thần trên thiên giới.
Thông thường,
loại vải được dùng là lụa nhưng yukata (kimono mùa hè) thường được làm bằng vải
cotton. Đối với người Nhật, kimono không chỉ là trang phục mà còn là một tác phẩm
nghệ thuật. Việc mặc kimono khá phức tạp và công phu, chỉ riêng việc buộc thắt
lưng Obi đã có đến 100 cách, ngoài ra người mặc kimono còn phải đi guốc gỗ và tất
tabi trắng.
Ngày nay,
người Nhật chỉ mặc kimono vào các dịp lễ, Tết, đám cưới và tiệc trà đạo. Phụ nữ
Nhật mặc Kimono phổ biến hơn nam giới, thường có màu và hoa văn nổi bật. Phái
nam dùng Kimono chủ yếu trong lễ cưới và buổi lễ trà đạo, và Kimono dành cho
nam giới thường không có hoa văn, và màu tối hơn.
Hanbok –
Hàn Quốc
Hanbok là
trang phục truyền thống của Hàn Quốc (tại Triều Tiên gọi là Joseon-ot). Cũng giống
như Kimono của Nhật Bản và Sari của Ấn Độ, vốn là trang phục của các vị Thần
nên Hanbok có thiết kế rất cầu kỳ và tinh tế, bao gồm váy chima dài, áo Jeogori
ngắn, bên trong là nhiều lớp váy khác nhau để chân váy phồng lên. Loại vải
ramie dùng để may Hanbok được dệt từ vật liệu tự nhiên cũng như nhuộm bằng màu
chiết từ vỏ cây và hoa.
Vẻ đẹp của
Hanbok thể hiện ở đường cong mềm mại của áo khoác lửng Jeogori bên ngoài và phần
váy phồng. Tùy vào từng mùa, nghi lễ hoặc sự kiện mà Hanbok có màu sắc, chất liệu,
cách mặc khác nhau. Hanbok và Kimono hay Sari đều là trang phục khá kín đáo,
làm tôn lên nét đẹp thuần khiết và duyên dáng của người phụ nữ Á Đông và rất gần
với Thần trên thiên giới của họ…
Kebaya –
Indonesia
Kebaya là một
trang phục biểu tượng của Indonesia, nó cũng xuất hiện tại đất nước này từ thời
kỳ sơ khai của loài người. Kebaya gồm một chiếc áo ôm sát cơ thể, cổ áo trước mở
rộng, tay áo dài, chất liệu mỏng nhẹ như tơ lụa hay cotton mỏng… kèm theo đó là
những họa tiết hoa lá được in hoặc dệt trên vải.
Những trang
phục truyền thống duyên dáng nhưng có tuổi đời trẻ hơn:
Dirndl của
châu Âu
Dirndl,
nghĩa là “cô gái trẻ”, trang phục truyền thống của phụ nữ miền Nam nước Đức, đặc
biệt là vùng Baravia, và nước Áo. Bắt nguồn từ trang phục của nông dân vùng
Alpine, Dirndl còn được gọi là Landhausmode. Một bộ Dirndl bao gồm áo thân trên
màu trắng tay bồng, váy liền thân mặc ngoài và cuối cùng là một chiếc tạp dề có
đai lưng vải thắt nơ.
Ban đầu,
Dirndl chỉ là trang phục dành cho những người giúp việc hay bảo mẫu bởi nó đem
lại sự thoải mái và linh động. Theo thời gian, chính bởi thiết kế quyến rũ của
nó, Dirndl được phát triển và yêu thích rộng rãi trong tầng lớp thượng lưu. Màu
sắc và chất liệu của mỗi bộ Dirndl được cho là biểu tượng ở mỗi địa phương đồng
thời phản ánh thực trạng xã hội.
Trên những
váy Dirndl được may biểu tượng hình cây cung như một dấu hiệu thể hiện tình
trang hôn nhân của người phụ nữ. Mũi ở bên phải nghĩa là người phụ nữ chưa chồng,
còn mũi bên trái thì thể hiện điều ngược lại. Tuy nhiên, nếu cây cung ở mặt
sau, có nghĩa là người phụ nữ đó góa chồng. Những bộ váy Dirndl chất lượng cao
được làm từ lụa, bông cao cấp và lanh.
Khăn ren
Coiffie, Brittany – Pháp
Khăn
Coiffie là một chiếc khăn ren tuyệt đẹp, được làm rất tinh tế, nó như một phần
không thể thiếu trong trang phục truyền thống của người dân Brittany – Pháp.
Áo dài – Việt
Nam
Áo dài là
nét văn hóa truyền thống không thể thiếu đối với người Việt Nam, mỗi chiếc áo
dài là một đại diện cho sự duyên dáng của phụ nữ Việt.
Tuy nhiên,
so với những bộ trang phục truyền thống châu Á khác từ áo dài Việt Nam riêng
cho nữ có tuổi đời khá trẻ. Nguyên thuỷ chiếc áo dài Việt Nam ra đời vào
khoảng năm 1739-1765 dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương. Cho đến hôm nay, áo dài vẫn
được xem là trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam và được sử dụng trong cả
dịp lễ hội lẫn đời sống hàng ngày. Áo dài có thể may từ nhiều chất liệu từ bình
dân đến cao cấp như lụa, gấm quý…với những màu sắc, hoa văn trang trí vô cùng
đa dạng.
Với thiết kế
ôm sát làm lộ những đường cong cơ thể, tà dài xẻ trước sau và quần suôn ống rộng,
áo dài vừa kín đáo lại vừa gợi cảm, vừa tinh khôi lại vừa thướt tha, quyến rũ
và rất được bạn bè quốc tế yêu thích.
Thật ra, người Việt Ta có một trang phục nổi tiếng mà người Pháp si mê đó là Yếm - Trang phục gợi nhiều ý thơ trong mắt các thi nhân Ta.