30/05/2022

ĐONG ĐƯA BỐNG DỪA

 

Bài: Tạ Tri, ảnh: Tấn Tới

 


Với tôi, thịt bống thân quen như hơi thở. Thuở còn bú mớm đã nghe tiếng hát ru: 

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. 

Bậu ra bậu lấy ông câu. 

Bậu câu cá bống, chặt đầu kho tiêu.

Kho tiêu, kho ớt, kho hành. 

Kho ba lượng thịt để dành mà ăn...

Bống dừa kho tiêu

Hồi mới tập ăn dặm, đã sớm làm quen với những muỗng cơm nhai nhuyễn thịt bống dừa hay bống cát. Tuổi nhỏ chuyên mê chơi, ưa trốn ngủ trưa, đầu trần dang nắng, để nửa đêm nóng sốt mê man. Chớm khỏi bệnh, vẫn là những muỗng cháo lềnh thịt bống, đong đầy tình mẹ!

Nhớ bống cố hương

“Trọng trọng” một chút, 12 - 15 tuổi, tôi đã háo hức cùng đám bạn cùng xóm nghèo, ven biển Đám Lá Tối Trời (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), lội bộ mấy cây số đặt lọp, thục hang, câu cá bống dừa, bống trứng… phụ lo bữa cơm chiều.

Thời đó, khoảng 30 năm trước, sông rạch Soài Rạp dư giả cá tôm. Mỗi đứa chúng tôi, lặn lội khoảng vài ba tiếng đã nghe nằng nặng giỏ, từ nửa ký đến 1kg cá, dư ăn cả nhà.

 

Ngẩn ngơ, bống dừa kho tộ

Nếu muốn xúc hoặc thụt cá bống trong hang, phải đợi những ngày con nước kém, canh lúc con nước ròng sát. Men theo những ngọn rạch ngoằn ngoèo, um tùm những tán cây giá, mắm, dừa nước… de ra giao ngọn.

Có vũng rộng cỡ cái mâm, ngầu đục, sâu hơn tấc nước, quần tụ ba - bốn “trự” bống dừa đen bóng, có con gần bằng ngón chân cái người lớn. Người bắt chỉ cần khom lưng, khéo léo dùng hai tay nắm chặt miệng rổ, xoay tròn, tạo một lực hút xoáy đủ mạnh để cá bị cuốn vào lòng rổ (còn gọi chao). Cách bắt này, thường đơn lẻ hoặc sánh đôi hai người đi cặp một mương, không vui bằng câu.

Đi câu, thường theo nhóm năm, sáu người, chuyện trò rôm rả hơn. Mồi bén của lũ bống thường là thịt tép (bạc hoặc đất nhỏ) hay mồi trùn. Với mồi tôm, cá ăn nhạy hơn nhưng rất hao mồi. Khi thấy cục phao câu (bằng nhựa hoặc cờ bắp khô) chìm xuống, chạy xa gần một tấc, người câu chỉ cần gặt ngang- mạnh vừa phải, rồi nhanh tay kéo lên.

Nay, lượng cá bống cố hương đã thưa thớt dần. Mặc dù vậy, vẫn còn những người bắt cá bống mưu sinh.

Giai tầng nhà bống

Trước nay “phẩm hạnh” con bống lọ lem luôn được xếp chiếu dưới so với bống cát - thịt luôn chắc, ngọt hơn. Phần do “cơ địa” bống đàn anh ưa vùng vẫy nơi tầng đáy, phần thích khoét hang sâu ở vùng cửa sông, thường có nước xoáy để phục con mồi (cá, tép, cua con…). Kiểu như, con bống thệ, ưa sống nơi hợp lưu Hương Giang vậy.

Thanh thoát, bống dừa “nấp” bụi chuối


Bù lại, hợp tấu món ngon, món mới bống dừa cứ thi nhau nẩy nở trong dân gian. Và để tránh đơn điệu, buộc những thím Ba, chú Bảy phải vắt óc suy nghĩ món mới thật hấp dẫn.

Còn anh lớn bống cát, thường quanh quẩn với các món kho tiêu, nấu cháo, hấp. Cần nói thêm, con bống đen sống được cả nước ngọt và lợ. Ở những vùng nước lợ như Trà Vinh, Cần Giờ (TP.HCM), Gò Công Đông (Tiền Giang), thịt cá thường dẻo chắc và ngọt “bạo” hơn miệt nước ngọt: Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ…

Nói nào ngay, thịt đám bống lọ lem kia vẫn có độ bở nhất định, do chúng thường an phận ở những vùng nước cạn, dòng chảy lờ đờ. Tuy vậy, gặp đầu bếp khéo tay, hiểu rõ ngọn ngành con bống vẫn có những bữa ăn thần tiên.

Mộc mạc tình quê


Hãy bắt đầu với món mộc, già cỗi vẫn chưa lỗi thời: nướng lá chuối. Ướp với ít muối ớt giã cùng tí bột ngọt, tiêu và rất ít nước mỡ heo hoặc dầu ăn. Gói lá chuối, nướng lửa than. Hoa mỹ hơn, còn gọi món “bống dừa spa”.

Nhớ đợi cá thấm gia vị khoảng 15 phút. Gói hai lớp lá chuối. Chọn lá chuối sứ (xiêm) hoặc chuối hột sẽ dễ gói hơn chuối già, do có độ dẻo nhất định. Lớp trong là lá chuối non tơ. Lớp kế, chọn lá dày dày (không già, không non). Muốn lá chuối mềm dẻo như ý, chỉ cần bạn hong nhanh hai mặt lá qua lửa than hoặc bếp ga. Riêng lớp ngoài cùng là giấy bạc.

Nướng đều hai mặt, 18-20 phút thì cá chín. Cẩn thận giở lớp giấy bạc ra. Chịu khó hong lại lửa than từ nóng vừa xuống còn âm ấm.Vẫn trở đều hai mặt, để tinh dầu lá chuối và nước ngọt cá rút ngược trở lại, ám chặt vào thịt da cá.

Nướng điệu nghệ, những sớ thịt cá trắng tươi, mỏng manh sẽ co rút lại, thêm săn chắc.

Ấn tượng nhất là mùi thơm lan tỏa, dìu dịu gợi nhớ đồng quê đến nao lòng, lúc mới giở lá ra. Tinh dầu lá chuối tươi sục sôi cuộn trào với chất béo ngọt của mỡ heo và mỡ cá (chủ yếu từ gan bé tẹo), rồi ám khói than đước rực hồng, hòa quyện thành một làn hương vừa nồng nồng vừa ngai ngái mùi khói đốt đồng trộn lẫn mùi khói rơm cơm chiều nồng cay. Sướng thấu trời, rượu mềm môi mà chẳng thấy say! Nhưng vẫn chưa là gì so với “bống dừa túy quyền”.

Nửa tỉnh nửa say…

Cái thần của món nằm này ở chỗ, đạt đến sự phối kết uyển chuyển giữa men rượu nhẹ (nước cơm rượu hoặc bia) với nhựa trái chuối chát và con bống cong đuôi. Có hai cách để đúc ra dạng bống giả thệ kia.

Cá sau khi làm sạch, để ráo, ướp lạt với muối ớt, cỡ 15 -17 phút. Vớt ra, phơi độ 3 - 6 giờ, tùy nắng. Hễ bóp nhẹ vào mình cá nghe cứng tay là được.

Cách thứ hai, lấy cá đã ướp sơ đem hong trên lửa than, nếu gặp ngày mưa bão.

Tùy môi trường sống, da con bống dừa đen bóng hoặc nâu xám

Phần nước xúp chủ đạo, cỡ một chén nước dừa dâu lửa hoặc dừa xiêm. Thêm 2/3 ly bia, 4-5 trái chuối sứ chát cỡ gần bằng ngón chân cái người lớn + rau răm + lá quế xắt ba sồn + sả bằm, vài củ hành tím + 1 chén nhỏ mè rang giã nhuyễn + 1 muỗng canh dầu ăn/mỡ heo. Lượng: 500g bống dừa. Với ít nước tương ngon, muối, bột ngọt, ớt chim/hiểm. Nêm nếm tùy khẩu vị. Chuối, gọt sọc dưa, bỏ bớt vỏ xanh. Xắt dọc, cắt khúc vừa gắp. Xả mủ bằng nước cốt chanh pha nước muối loãng.

Đốt cách thủy tại bàn, đựng bằng “chiếc xuồng” inox (lập là). Ban đầu, tắm nóng cá bằng bia trước. Năm phút sau, rưới nửa chén nước dừa vào, thả luôn chuối xanh. Bảy phút sau, đã nghe thơm liêu xiêu. Ban đầu là hơi men la đà. Nối đuôi, chuỗi hậu vị hăng đắng, nồng nồng cũng rồng rắn bay theo. Cho mè vào, sôi bùng, nêm nếm lại. Buông rau răm + lá quế sau cùng. Nhớ canh lượng nước tổng thể vừa xâm xấp mình cá. Lửa riu riu... Một khi nhựa chuối, men bia cùng thịt cá… trao gửi hết cho nhau, mùi béo thơm thanh mảnh trỗi dậy tưng bừng!

Thịt cá, ngoài chất ngọt bùi nguyên sơ, còn được bọc lót dư vị đăng đắng nhè nhẹ của bia. Mặt khác, một khi nhựa chuối “hùn hạp” với men bia, kỳ cọ, tẩy trần, da thịt con bống chân quê bỗng vọt lên lên hàng mỹ thực. Cũng có người muốn phá cách, chêm vào vài muỗng tương hột (loại mặn) giã ba sồn. Còn muốn lai hơi hướng bống thệ chen “cơm” dừa cứng cạy (rám) lấn thịt ba rọi kiểu quý tộc Huế, cũng chẳng ai cấm!

Kho chỉ - ngon thần thánh!

Vẫn cốt liệu bống dừa phơi dốt dốt, chọn cỡ đầu ngón tay út đến ngón trỏ người lớn, sẽ dễ uốn nắn và mau thấm gia vị hơn. Cơm dừa rám, thịt ba rọi, rau răm thì không thiếu ở miệt vườn châu thổ.

Cái khó là kiếm được cỡ nửa chén nước cơm gạo lứt, gặp gạo nàng hương càng tuyệt cú mèo. Nêm rỉ rả lượng nước đó vào nồi cá kho, lúc sôi dạo nhì.

Mê mải, bống dừa nướng lá chuối


Thành quả sau cùng là, nồi bống kho “chỉ” óng ánh màu hổ phách. Dùng đầu đũa tre chấm xuống đáy nồi, kéo lên thong thả - bạn sẽ bắt gặp một lằn chỉ nhỏ vàng nâu, toòng teng đánh đu theo. Từng giọt nước cá thơm bùi, sóng sánh tựa những tinh thể mật ong ruồi thiên nhiên. Thử quẹt với dĩa gỏi cây chuối non xắt nhuyễn + đọt me non + rau muống bào + đọt keo… hoặc luộc cả rổ đọt thập cẩm vun ngọn: chùm bao (nhãn lồng/lạc tiên), khoai lang, rau muống, đậu bắp (bắp tây) lún phún lông tơ… Gặp mưa lất phất hay tiết trời se lạnh, kể như tê tái cõi lòng!

Lãng du cũng khá, nếm trải sơn hào hải vị không ít, thế mà thằng tôi vẫn chưa thỏa. Chợt một ngày, cái đuôi con bống dừa tần tảo quẫy khẽ trong vòm miệng như nhắc khéo: muốn ngon phải thuần tự nhiên.

Nếu quả vậy, ông bà ta thuở xưa ăn uống khôn ngoan hơn đám hậu sinh đến mấy bậc!

 

29/05/2022

Nhuộm răng đen – Phong tục lâu đời của người Việt xưa

 Gocxua.net


Có  тнể nói từ thời Hùng Vương, phong tục “nhuộm răиg đen” đã xuất hiện và tồn tại suốt hàng ngàn năm trong lịch sử văи hóa của người Việt. Không chỉ người Kinh, mà nó còn là phong tục cổ truyền của cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao,….Trong cộng đồng người Kinh, tục nhuộm răиg đen chỉ xuất hiện của yếu ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam dường như không thấy dấu vết tồn tại của phong tục này.

Theo quan niệm của người xưa, hàm răиg đen được xem là chuẩn mực của cái đẹp, không chỉ đối với phụ nữ mà còn cả nam giới, tuy nhiên ít hơn. Điều này cũng giải thích được tại sao trong “hàm răиg đen” lại xuất hiện nhiều trong тнι ca khi nói về nét đẹp của phụ nữ Việt xưa: 

Răиg đen ai nhuộm cho mình

Cho duyên mình đẹp, cho  тìɴн anh say?

Được xếp thứ 4 trong 10 chuẩn mực đo nét duyên của người con gái:

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăи nói mặn mà có duyên

Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răиg láng hạt huyền kém thua


Không chỉ là chuẩn mực của cái đẹp mà “nhuộm răиg đen” còn là tiền đề của chuẩn mực đạo đức. Bởi, trong thời bấy giờ, người ta cho rằng, răиg trắng đại diện cho loại người không тử tế: “Song tục quen đã lâu, đàn ông trắng răиg thì chẳng sao, chứ đàn bà nhà тử tế bây giờ mà trắng răиg thì coi cũng  κнí ngộ một đôi chút”.

Từng dẫn lời của một nhà báo, Phan Kнôι nói về vấn đề này rằng: “Tôi từng đi đủ Trung – Bắc hai kỳ, tôi thấy những nhà тнι lễ, tức là bậc thượng lưu trong xứ, thì đàn bà con gái của họ cũng đen răиg, cho như thế là  тʀᴀɴԍ nghiêm mỹ lệ; còn trái lại, răиg trắng thì cho là đồ ăи chơi đĩ thõa. Coi đó thì biết cái tục răиg đen của người Nam là từ các đấng tiên dân bày ra và đã lâu đời lắm rồi, chẳng những cho là đẹp mà cũng lấy đó tỏ ra là nề nếp con nhà nữa…. Khắp nước Việt Nam, trừ xứ Nam kỳ ra, thì tôi thấy đâu đâu đàn bà con gái cũng đen răиg hết, duy có những hạng vợ tây, vú, bồi, bếp gái ở với Tây thì mới hay để răиg trắng mà tнôι, thế thì cái tục ấy xấu tốt thế nào cũng đủ biết”.

Có  тнể là do lẫn lộn giữa ta và Tàu, nên nhiều người vẫn cho rằng tục “nhuộm răиg đen” có nguồn gốc từ Trung Quốc, vì người Tàu muốn phân định dân tộc để dễ bề cai trị nên buộc người Việt nhuộm răиg. Nhưng cнíɴн những người Trung Quốc cũng phải ngạc nhiên khi nhìn thấy những chiếc răиg đen của người Việt. Đã thế, nhiều người vẫn nhập nhằng giữa tục nhuộm răиg với tục ăи trầu, họ nghĩ rằng do ăи trầu nên răиg bị đen mà không hề xem nhuộm răиg là một phong tục cổ truyền. Tuy nhiên, ăи trầu thì răиg có màu đỏ sẫm như màu мáυ chứ không hề có màu đen nhánh như được nhuộm. Và nhuộm răиg đen cнíɴн là nét văи hóa  тнể hiện cái đẹp của Việt và để có được hàm răиg đen huyền phải trải qua rất nhiều giai đoạn công phu, chứ không đơn giản như việc ăи trầu. 



Lịch sử tục nhuộm răиg đen của người Việt

Theo nhiều tài liệu lịch sử văи hóa ghi chép lại thì tục nhuộm răиg có từ thời sơ sử (cách đây khoảng 4000 năm) tức là giai đoạn hình thành nước sơ khai Văи Lang – Âu Lạc. Ví dụ như trong phần “Diện mạo văи hóa Đông Sơn” có ghi nhận: “Tục ăи trầu, nhuộm răиg đen và tục xăm mình rất phổ biến”. Hoặc Trần Quốc Vượng có đề cập: “Phong tục  тậᴘ quán của người Đông Sơn rất đa dạng ví như tục nhuộm răиg, ăи trầu”. Đặc biệt, trong các mộ thuyền, nhiều nhà khảo cổ học Việt tìm thấy người Đông Sơn đều nhuộm răиg đen. 

Đến thời Bắc thuộc, tục nhuộm răиg đen vẫn được duy trì: “Nhiều phong tục  тậᴘ quán tốt đẹp của thời kì Văи Lang, Âu Lạc vẫn được giữ gìn như tục nhuộm răиg, ăи trầu”. Trong giai đoạn này, cùng với tục nhuộm răиg thì nhiều tục lệ khác như xăm mình, búi tóc,…cũng được xem là nét văи hóa đặc trưng của người Việt, giúp định hình bản sắc so với nhiều dân tộc khác. Vậy nên, dù đã qua ngàn năm Bắc thuộc thì người Việt vẫn cố gắng gìn giữ nét văи hóa riêng.

Đến tận thế kỷ 18, trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Quang Trung – Nguyễn Huệ đã kêu gọi “Đánh cho để dài tóc, Đánh cho để đen răиg” là ý muốn khẳng định chủ quyền dân tộc, bảo vệ phong tục cổ truyền của đất nước. Điều này góp phần chúng minh rằng, đến tận thời nhà Lê, tục nhuộm răиg đen vẫn rất được coi trọng, không chỉ phổ biến ở phụ nữ mà còn cả nam giới, chẳng những tầng lớp bình dân mà quý tộc hoàng gia cũng rất ưa chuộng.

Mãi đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đứng trước sự xâm lược mạnh mẽ của nền văи minh phương Tây thì Việt Nam mới dần bước vào thời kỳ biến đổi xã hội. Nhiều phụ nữ cũng bắt đầu theo xu hướng “hàm răиg trắng”, có người còn cạo đi lớp răиg đen mất bao công sức nhuộm nên để hòa mình vào “công cuộc cải cách xã hội”. Thậm chí, ở thời điểm đó, những ai còn để tóc củ hành, hàm răиg đen, mặc quần vải áo the,…sẽ bị coi là hủ lậu, kém văи minh: “..tại các thành thị, do ảnh hưởng của làn sóng Âu hóa những năm 1930-1940, nam giới đã bắt đầu cắt tóc ngắn và tнôι nhuộm răиg đen”Như vậy, tục nhuộm răиg đen vẫn tồn tại cho đến tận đầu thế kỷ 20 thì người Việt mới dần phá bỏ tục lệ này. 


Các công đoạn trong quá trình nhuộm răиg đen

Theo phong tục của người Việt, răиg chỉ được nhuộm khi đã thay xong răиg sữa và đã có một số răиg hàm. Và quá trình nhuộm răиg được chia làm 4 công đoạn:

1. Rửa sạch răиg, việc này được kéo dài khoảng 3 – 5 ngày. Sau mỗi bữa ăи, hàm răиg sẽ được đánh sạch bằng vỏ cau khô có khi còn dùng bột than củi. Sau đó, xúc kỹ bằng chanh hoặc dấm vì loại này có tính axit cao. Người Huế sẽ lựa chọn ngậm nước lá cây son đem nấu (loại này nấu lên sẽ ra thứ nước chua như chanh). Trước khi ngủ phải ngậm thêm vài lát chanh mỏng. Tất cả những điều này, chủ yếu là muốn làm lớp men răиg để тнuốc nhuộm dễ kết bám khi nhuộm.

2. Công đoạn nhuộm răиg đỏ: Dùng bột nhựa cnahs kiến, tán nhỏ, vắt thêm chanh và giữ kín trong 7 ngày để nước chanh thấm đều vào bột cánh kiến (có  тнể thay chanh bằng giấm gạo hoặc rượu gạo). Quét đều hỗn hợp trên lên một mảnh lá dừa hoặc lá cao, sau đó áp vào hàm răиg mỗi tối khi ngủ. Việc này sẽ được lặp lại đến khi màu răиg chuyển sang đỏ thẫm là được.

3. Khi răиg đã lên được màu đỏ như ý muốn, người ta sẽ tiếp tục dùng bộ cánh kiến hòa với phèn đen, sau đó quét đều hỗn hợp lên lá dừa hoặc lá cau và áp lên hàm răиg lúc ngủ. Lần nhuộm này chỉ cần khoảng 2 đêm là màu răиg đã lên màu đen.

4. Cuối cùng là công đoạn chiết răиg: Bước này sẽ giúp giữ màu răиg. Người ta sẽ lấy gáo dừa già đã phơi phô để lên một con dao, sau đó đem đốt lên cho đến khi gáo dừa chảy ra một thứ nhựa màu đen sền sệt, nhựa đó sẽ được phết vào răиg để răиg bóng màu và lâu phai.

Giai đoạn nhuộm răиg trải ra rất nhiều công đoạn phức tạp và mất nhiều thời gian cùng công sức, người nhuộm còn phải chịu nỗi đau  тнể xác vì những chất nhuộm hầu hết đều nồng và cay nên sẽ khiến cho môi, lưỡi, lợi bị sưng tấy, rất vất vả trong chuyện ăи uống. Bên cạnh đó, vì giữ cho màu răиg lâu trôi trong quá trình nhuộm mà người nhuộm buộc phải kiêng rất nhiều thứ, chẳng hạn như đồ ăи nóng, cứng,…Phải đợi đến khi chiết răиg hoàn thành thì mới dám ăи uống bình thường,

Tuy chiết răиg nhưng màu sắc răиg lâu ngày cũng sẽ bị phai bớt, nên để giữ mãi màu đen bóng cho răиg thì người ta phải tiến hành nhuộm lại. Đàn ông thì độ 1-2 lần, còn phụ nữ thì mỗi năm mỗi nhuộm nhưng khi qua tuổi 30 thì không cần nhuộm lại nữa.

Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, nhuộm răиg đen đã trở thành một trong những phong tục cổ truyền góp phần định hình bản sắc văи hóa Việt. Tuy hiện đại tục nhuộm răиg hầu như là không còn tồn tại, nhưng ở một số dân tộc như người Mường ở Hòa Bình hay người Lự ở Lai Châu,…vẫn còn duy trì nét văи hóa ấy. Phong tục cổ truyền mất đi, ta không nên trách do người thay đổi mà do quan niệm mỗi thời đại là khác nhau và quan niệm về cái đẹp cũng như thế. Bởi văи hóa chẳng bao giờ bất biến, không có bất kỳ nền văи hóa nào đứng yên nhất là nền văи hóa nằm trong vòng xoay của sự giao lưu và tiếp biến. 

 

28/05/2022

Hình ảnh hiếm về Hà Nội 100 năm trước (Kỳ 2)

 chuyenxua.vn

 

Share Bài thứ 2 của loạt bài về những hình ảnh được chụp tròn 100 năm trước ở Hà Nội (thập niên 1910 và 1920). Lúc này toàn bộ Bắc và Trung kỳ nằm dưới sự đô hộ của Pháp quốc. 


Xe điện trên La rue de la Soie, nay là phố Hàng Đào ở khu phố cổ Hà Nội. Tên đường tiếng Pháp được dịch từ tên tiếng Việt, de la Soie nghĩa là Lụa (Hồng Đào). Ngôi nhà ở bìa phải hình là nhà của Lương Văn Can (số 4 Phố Hàng Đào). Ngôi nhà màu trắng (số 10 Phố Hàng Đào) là nơi ông mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục để khai trí cho dân, dạy học không lấy tiền. 


Phố Hàng Đào từng được xem là con đường tơ lụa. Từ thế kỷ 15, 16 người dân ở nhiều nơi, đặc biệt từ Đan Loan Hải Dương, tới Hà Nội đã lập nên phường Đại Lợi chuyên nghề nhuộm tơ lụa. Hàng Đào lúc bấy giờ trở thành một trung tâm tơ lụa sầm uất của kinh thành Thăng Long. 


Ga Hàng Cỏ nằm trên đường Mandarine (đường cái quan), nay là đường Lê Duẩn. Năm 1902, ga Hàng Cỏ được khánh thành và đưa vào khai thác cùng với cầu Long Biên, là nhà ga xuất phát của con đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn thuở ban đầu, rồi đường sắt Hà Nội – Hải Phòng (1903), đường sắt Hà Nội – Lào Cai (1905) và đến năm 1936 là đường sắt xuyên Việt (1936). Ban đầu, ga xe lửa này mang tên là ga Trung tâm Hà Nội, nhưng vì tên quá dài và dân chúng gọi là ga Hàng Cỏ (nay là ga Hà Nội). Cái tên này xuất xứ từ vùng đất này từ cuối thời Hậu Lê là nơi những người làm nghề cắt cỏ quanh vùng mang ra đây bán cho các chủ ngựa và người nuôi bò trong thành, nên gọi là Hàng Cỏ. 


Từ thời vua Tự Đức, vì đoạn đường gần Cửa Nam nằm trên đường Cái Quan (từ Huế ra thành Hà Nội) có nghề làm lọng nên con đường Lê Duẩn ngày nay con được gọi là Hàng Lọng. Khi người Pháp chiếm Hà Nội, họ đổi tên Hàng Lọng thành đường Cái Quan (Route Mandarine). Năm 1947, sau khi Pháp tái chiếm Hà Nội, họ đổi tên đường thành Delatte Sir. Sau năm 1954, chính quyền thành phố Hà Nội của VNDCCH đổi thành đường Nam Bộ. Năm 1986, đường đổi tên thành Lê Duẩn cho tới nay. 


Đại lộ Puginier, nay là đường Điện Biên Phủ ở Ba Đình và Hoàn Kiếm. 


Năm 1909, đường được mở rộng và đặt tên là đại lộ Puginier, theo tên của giám mục địa phận Tây Đàng Ngoài, thành viên của Hội Thừa sai Paris, người – thành lập xứ đạo Hạnh Thông Tây ở Gò Vấp. Năm 1945, sau cách mạng tháng 8, đại lộ Puginier đổi thành phố Dân Chủ Cộng Hòa, đến năm 1949 thì đổi thành đại lộ Nguyễn Tri Phương. Dù vậy, nhưng dân chúng vẫn quen gọi là đường Cột Cờ vì Cột Cờ Hà Nội nằm trong khu vực này. Đến ngày 7/5/1964, kỷ niệm chiến thắng Điên Biên Phủ, chính quyền thành phố Hà Nội đổi tên thành Điện Biên Phủ cho đến nay. 


Rue Paul Bert 100 năm trước. Trước khi Pháp chiếm Hà Nội, con phố này mang tên Tràng Tiền, và ngày nay cũng mang tên nguyên thủy là Tràng Tiền. Đây là con phố nổi tiếng nằm ở khu trung tâm, có từ lâu đời, chạy từ đông sang tây. Phố Tràng Tiền xưa kia là một con đường dài, phía tây giáp phủ Chúa Trịnh, phía đông giáp với cửa ô Tây Long, tức là Nhà hát Lớn Hà Nội ngày nay, thông ra căn cứ Đồn Thủy và bến sông Hồn. Khoảng năm 1808, một xưởng đúc tiền được vua Gia Long nhà Nguyễn cho lập ra ở đây, tên chữ là Bảo Tuyền Cục, dân quen gọi là Tràng Tiền, từ đó xuất xứ tên gọi cho tên của phố này suốt 200 năm qua.



Thời thuộc Pháp phố này có tên là rue Paul Bert, đặt tên theo Thống sứ Bắc kỳ Paul Bert, bắt đầu từ khu vực Hồ Hoàn Kiếm ở phía tây, nối với phố Hàng Khay. Còn phía đối diện là phía đông kéo dài tới Nhà hát Lớn Hà Nội. 

Phố Tràng Tiền (rue Paul Bert) nhìn từ Nhà Hát Lớn


Phố Tràng Tiền (rue Paul Bert) nhìn từ Nhà Hát Lớn – Bên trái là rue Paul Bert (phố Tràng Tiền), bên phải là Grands Magasins Reunis, nay là Tràng Tiền Plaza. Được người Pháp xây dựng lần đầu vào năm 1901 với tên gọi Maison Godard, tòa nhà này được xem là bước ngoặt cho thương mại Hà Nội vốn trước đó chỉ có các chợ truyền thống. Sau khi đi vào hoạt động, trung tâm thương mại đầu tiên của Sài Gòn này phục vụ các khách hàng người Pháp và người Việt giàu có. Đến năm 1960, tòa nhà được đổi tên thành Bách hóa Tổng hợp và trở thành cửa hàng lớn nhất miền Bắc thời bao cấp. Sau đó, tòa nhà được xây dựng lại và đổi tên thành Tràng Tiền Plaza vào năm 2002. 


Trụ sở đồn cảnh sát quận 1 thời Pháp thuộc hơn 100 năm trước, nằm ở góc đường Borgnis Desbordes, Jules Ferry, Gia Long và Paul Bert. Ngày nay tòa nhà này vẫn còn, là trụ sở công an quận Hoàn Kiếm, nằm ở góc phố tương ứng là Tràng Thi, Lý Thái Tổ, Bà Triệu và Hàng Khay, ngay bên cạnh hồ Hoàn Kiếm. 


Thư viện Pierre Pasquier ở đường Borgnis Desbordes, được xây dựng vào năm 1917, ngày nay là Thư viện Quốc gia Việt Nam, nằm trên đường Tràng Thi. Con đường này ban đầu tên là Tràng Thi, xuất phát từ việc nó nằm trên nền đất xưa là nơi thi Hương, gọi là Trường Thi, sau nói thành Tràng Thi. Ở đây ngày xưa là nơi sĩ tử của các tỉnh từ Thanh Hoá trở ra đến thi Hương. Khi Pháp chiếm Hà Nội, họ đặt tên đường là rue du Camp des Lettres, rồi đổi nên rue Borgnis Desbordes, đến thời bị tạm chiếm thì đổi tên nên United States of America street (phố Mỹ quốc). Sau này đường lấy lại tên xưa là Tràng Thi cho đến nay.


Tháp nước Hàng Đậu xây năm 1894 nằm trên đường des Graines, nay là đường Hàng Đậu. Ngày nay, tháp nước này vẫn còn nằm giữa khu đất nhỏ nằm lọt thỏm giữa 4 con phố Hàng Đậu, Hàng Cót, Hàng Than và Quán Thánh. Sở dĩ có tên Hàng Đậu là xưa kia có nhiều cửa hàng bán các thứ đậu hột như đậu xanh, đậu nành, đậu đen… Người Pháp gọi tên phố này là rue des Graines, dịch nghĩa là các hạt (hạt đậu), cũng là dịch thì tên nguyên thủy là Hàng Đậu. 

Đông Kha – chuyenxua.vn Hình ảnh: manhhai flickr

 

Mẹo Nhỏ Cứu Người

 st trên net


Nghẹn cổ, sái cổ, chuột rút, tê chân… thi thoảng những biến cố này đột nhiên xuất hiện, nhưng nếu xử trí không kịp thời cũng có thể gặp nguy hiểm. Tuy nhiên, thực ra chỉ cần một vài mẹo nhỏ là bạn có thể “thoát nạn” trong gang tấc, còn chờ gì mà không xem thử nhỉ?

Dưới đây mình chia sẻ một số mẹo nhỏ để xử trí rắc rối trong cuộc sống. Nó hoàn toàn là tri thức để có thể cứu người mà mình nhặt trên net.

1. Phương thức xử lý khi bị nghẹn đồ vật


– Chỉ cần “giơ tay lên”

2. Bị sái cổ

Bạn thỉnh thoảng có bị cứng cổ khi thức dậy buổi sáng không? Là sái cổ.

Một khi bị sái cổ, bạn xử lý như thế nào?

Đơn giản thôi, bạn chỉ cần nhấc chân lên!

Kéo ngón chân cái ra, lấy tay xoay tròn từ từ theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ.

3. Chuột rút ở chân

Khi chân trái bị chuột rút thì giơ tay phải lên, ngược lại thì giơ tay trái trong khi chuột rút chân phải của mình, ngay lập tức nhẹ nhàng.

4. Tê chân

Nếu tê chân trái, dùng sức vung tay phải của bạn. Nếu chân phải bị tê thì dùng sức vung tay trái.

5. Chiếc kim khâu gia dụng cũng có thể trở thành dụng cụ hữu ích trong việc cứu người. Ta cần nhất định nhớ kỹ 3 phép cứu mạng dùng kim khâu quần áo.

• Đầu tiên, liệt nửa người hay bán thân bất toại (không phân biệt xuất huyết não hay tắc máu), mắt miệng nghiêng lệch, ngay lập tức lấy kim khâu quần áo châm vào điểm thấp nhất dái tai bệnh nhân, đến khi nhỏ ra một giọt máu, bệnh nhân ngay lập tức được phục hồi, hơn nữa có thể không để lại bất kỳ di chứng nào.

• Thứ hai, bệnh tim đột tử phát sinh, lập tức cởi bít tất người bệnh, tương tự lấy kim châm lên mười ngón chân, ra một giọt máu, lần lượt bóp hết mười ngón chân, người bệnh có thể lập tức tỉnh táo lại.

• Thứ ba, dù là hen suyễn thở khò khè hay viêm thanh quản cấp tính các loại… phát hiện người bệnh thở không ra hơi, đến mức mặt đỏ tía tai, hãy nhanh chóng dùng kim châm lên chóp mũi, rồi thì có thể bóp ra hai giọt máu đen (máu độc).

Ba phương pháp “hồi dương cứu nghịch” trên không có bất kỳ nguy hiểm gì, hãy yên tâm là có hiệu quả trong vòng 10 giây.

Hãy ghi nhớ! Đừng chỉ lưu trong điện thoại, trong tình thế cấp bách đừng ngại lấy ra thử một lần!