“Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp
của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát
ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..”.
1.
Phật báo tin sắp nhập Niết bàn
Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại
của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở
rừng Sa La trong xứ Câu Ly, cách thành Ba La Nại chừng 120 dặm. Một hôm, Ngài
gọi ông A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:
-“A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn.
Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà
Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và đạo ta cũng đã
truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta,
theo luật vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở
pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm
gì cái thân tiều tụy này nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”.
Tin
đức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi
truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần
cuối.
Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ
ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo.
Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu
rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà để thọ
trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà
dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng,
vì giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.
Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà ra đi. Ðược một
quãng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên, trong
rừng cây Ta La (Tàu dịch là cây song thọ,
cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm
xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về
hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.
Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất
đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu Bạc Ðà La đến xin xuất
gia thọ giới Sa di với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử chót
trong đời Ngài.
2.
Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc
Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp
vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp.
Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến
quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:
a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma
Ha Ca Diếp.
b) Các đệ tử phải lấy Giới luật làm
Thầy.
c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ:
“Như thị ngã văn”.
d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba
phần:
Một phần cho Thiên cung,
Một phần cho Long cung,
Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở
Ấn Độ
Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã
để lại trong giờ phút cuối cùng.
“Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà
đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải
thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khát, đừng tìm sự giải thoát ở một
nơi nào khác, ngoài các người!..”.
“Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời
ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả đạo ta là bất di,
bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”.
Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy
giờ nhằm ngày Rằm tháng Hai Âm lịch (theo
giáo sử Trung hoa).
Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ
héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong giây phút nặng
nề của sự chia ly.
Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim
quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa
thiêu).
Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh
dành Xá lợi. Nhưng ông Hương Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình,
và nhờ thế việc phân chia Xá lợi đều được ổn thỏa.
(Trích trong cuốn Phật học Phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét