18/08/2021

45 BÀI THUỐC QUÝ TỪ ĐU ĐỦ

      Xưa Trung Quốc có câu dân Việt Nam chết trên đống thuốc mà không biết. Mọi người lưu lại khi cần nha.

1.Lá non Đu đủ ,thêm củ tỏi xào, chịu khó ăn vào, sỏi nào củng hết .

2. Nụ hoa Đu đủ ,hấp ủ mật ong, nuốt vô đáy lòng , ho gì củng khỏi .

3. Nhựa hoa Đu đủ ,trị chứng chai chân ,bôi ngày 2 lần , đôi tuần gót đỏ .

4. Rễ cây Đu đủ , đun sắc đậm đà, hoà thêm chút muối , bay mùi hôi chân .

5. Cọng lá Đu đủ , sắc trị ung thư ,họng hầu thêm Xả, phối dăm lát gừng ,thêm nắm lá hẹ ,cho chứng tiền liệt ,dùng dài tháng liền ,còn tiền hết bệnh ...

6. Chữa di, mộng, hoạt tinh.Trái Đu đủ bằng bắp tay, khoét cuống; cho 2 cục đường phèn vào, lắp cuống, gạt lửa than nướng chín, đem ra bóc vỏ da xanh bên ngoài, ăn lớp thịt bên trong, kể cả hạt. Chỉ cần ăn 1-2 quả là thấy kết quả (Kinh nghiệm dân gian ở An Giang).

7. Chữa ung thư phổi, ung thư vú: Hái lá lẫn cuống Đu đủ để tươi, cho vào nồi, thêm nước nấu sôi, để nguội, chiết nước đặc uống, cũng có thể nấu thành nước cô lại. Uống 3 lần mỗi ngày, mỗi lần 1 chén to (300ml). Ngoài ra uống thêm 3 muỗng cà phê mật mía trong ngày, mỗi lần 1 muỗng. Có thể kết hợp với chiếu tia X quang và uống bột củ Tam thất ... Thì hiệu quả càng nhanh. Tuy nước lá Đu đủ đắng, nhưng cần uống liên tục 15-20 ngày mới có kết quả.

8. Chữa ho gà bằng hoa đu đủ đực: Hoa đu đủ đực 20g, sao vàng; vỏ quýt lâu năm 20g; vỏ rễ dâu 20g, tẩm mật sao; bách bộ 12g; phèn phi 12g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 3 lần: trẻ em 1-5 tuổi, mỗi lần 1-4g; 6-10 tuổi, mỗi lần 5 - 8g.

9. Chữa tan Đờm : Đu đủ hầm với đường phèn: 1 quả đu đủ chín, gọt vỏ, thái miếng, đựng trong bát to, thêm đường phèn, hầm cách thủy. Món này ăn rất ngon, có hương vị đặc trưng, già trẻ ăn quanh năm đều được. Ăn đu đủ + đường phèn thường xuyên trong mùa xuân, hè có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, giải nhiệt, giải độc. Ăn vào mùa thu, đông có tác dụng nhuận táo, ấm dạ dày, bổ tỳ vị, dưỡng gan, giảm ho, nhuận phổi, tan đờm.

10. Chữa Ít ngủ, hay hồi hộp: Đu đủ chín, chuối, củ cà rốt mỗi thứ 100g; xay với nước dừa non nạo, thêm mật ong cho đủ ngọt, cách ngày uống 1 lần , giúp ngủ ngon

11. Chữa Trị viêm dạ dày: Đu đủ 30g, táo tây 30g, mía 30g, sắc uống.

12. Chữa Trị tỳ vị hư nhược: Đu đủ 30g, củ mài 15g, sơn tra 6g, gạo nếp 100g, nấu cháo ăn ngày 2 lần (sáng, chiều).

13. Chữa Trị đau lưng mỏi gối: Đu đủ 30g, ngưu tất 15g, hoàng kỳ 10g, đỗ tương 15g, câu kỳ tử 10g, cam thảo 3g, sắc uống.

14. Chữa sỏi thận: Cây đu đủ đực trong dân gian là cây đủ đủ không ra quả. Hoa của cây đủ đủ đực cũng là bài thuốc chữa sỏi thận hiệu quả. Dùng hoa của cây đu đủ đực, giã nhỏ, đem nấu sôi lên lọc cặn bả nước uống hằng ngày

15. Chữa Trị mụn nhọt: Lá đu đủ giã nát, đắp mổi ngày liên tục sẻ hiệu quả

16. Chữa ít sửa ..Sau khi sanh ăn canh đu đủ hầm giò heo thường , sẻ lợi sửa

17. Chữa Trị gai cột sống: Hạt đu đủ đem xát cho sạch phần nhớt bao quanh, giã nát trong túi vải rồi đắp lên vùng đau. Mỗi lần chỉ đắp tối đa 30 phút và theo dõi để tránh bị bỏng. Ngày làm một lần, liên tục trong 20-30 ngày.

18. Chữa Trị giun kim: Ăn đu đủ chín vào buổi sáng lúc đói, liên tục 3-5 ngày.

19. Chữa Trị tỳ vị hư yếu (ăn không tiêu, táo bón): Đu đủ 30g, khoai mài 15g, sơn tra 6g, nấu cháo.

20. Chữa Trị tiểu gắt, buốt: Rễ đu đủ tươi 200g sắc lấy nước uống cả ngày thay nước uống.

21. Chữa Trị các vết chai và mụn cóc: Lấy nhựa từ lá của cây đu đủ bôi lên vùng da bị chai hay mọc mụn, công hiệu khá tốt.

22. Chữa Trị vết loét trên da: Trộn một chút bơ với nước đu đủ, bôi lên vết loét. Cách làm này có tác dụng làm se bề mặt và nhanh chóng làm liền vết thương.

23. Giúp sáng mắt: Những người lớn tuổi nên ăn khoảng 3 phần đu đủ mỗi ngày trở lên để ngăn ngừa quá trình lão hóa cũng như suy giảm thị lực vì đu đủ không chỉ là loại trái cây ngon ngọt, mát, bổ mà còn chứa nhiều carotin hơn so với các loại trái cây khác như táo, ổi, chuối.

24. Làm đẹp da: Nước ép của trái đu đủ và nhựa khô là thành phần chính trong quá trình sản xuất các loại kem chống mụn và dầu gội dưỡng tóc.

25. Vỏ của trái đu đủ xanh có thể được giữ lạnh trong tủ lạnh và sử dụng để tạo mặt nạ. Điều này cũng lý giải tại sao người dân xứ Island luôn có làn da trắng mịn, và nhất là không bao giờ lo sợ mụn trứng cá tấn công.

26. Nghiền nhuyễn đu đủ chín đắp lên mặt và rửa sạch sau khoảng 15-20 phút có tác dụng làm mềm, mịn da, ngăn ngừa mụn, các vết nám và đặc biệt phát huy tác dụng trong việc điều trị làn da thô ráp.

27. Trị giun kim: Ăn đu đủ chín vào buổi sáng lúc đói, liên tục 3-5 hôm.

28. Viêm dạ dày mãn tính: Đu đủ, táo tây, mía mỗi thứ 30 g sắc uống.

29. Ho do phế hư: Đu đủ 100 g, đường phèn 20 g hầm ăn.

30. Tỳ vị hư nhược (ăn không tiêu, táo bón): Đu đủ 30 g, khoai mài 15 g, sơn tra 6 g, nấu cháo. Ăn thường xuyên sẻ khỏi ..

31. Đau lưng mỏi gối: Đu đủ 30 g, ngưu tất 15 g, kỷ tử 10 g, cam thảo 3 g sắc uống

32. Quả đu đủ xanh nghiền nát với nước, dùng bôi để chữa các vết tàn nhang ở mặt và tay, còn dùng chữa chai chân và bệnh eczema...

33. Rễ đu đủ sắc uống có tác dụng cầm máu trong bệnh băng huyết, sỏi thận...( liều lượng hỏi mua rễ đu đủ nhà thuốc nam họ sẻ chỉ dẩn cặn kẻ )

34. Hoa đu đủ đực tươi hoặc phơi khô hấp với đường phèn dùng chữa bệnh ho, viêm cuống phổi, khàn tiếng hoặc mất tiếng ở người lớn. Với trẻ em, hái 5-10 hoa đực đem sao vàng, thêm đường phèn hấp hoặc chưng khi nồi cơm cạn nước, cho trẻ uống trong ngày

35. Đu đủ chín là một món ăn giúp bồi bổ cơ thể và tiêu hóa tốt các chất thịt, lòng trắng trứng; Khi hầm các loại thịt, xương cứng, người ta thường cho quả đu đủ xanh vào để thức ăn mau nhừ...

36. Chữa cá đuối cắn. Rễ đu đủ đực tươi 30g , Muối ăn 4g.Hai thứ giã nhỏ. Vắt lấy nước uống, bã đắp lên chỗ sưng đau. Sau chừng nửa giờ thấy giảm đau và vài ngay sau khỏi hẳn ( kinh nghiệm nguời miền Nam).

37. Chữa tưa lưỡi ở trẻ: Lấy hoa đu đủ đực thái nhỏ phơi khô, tán bột mịn, cùng với gốc cây mây (lấy chỗ mọc khô ráo), rồi đốt thành than, tán bột. Trộn hai loại bột này với nhau với tỷ lệ 3 phần bột hoa đu đủ đực, 1 phần bột gốc mây. Sau đó lấy tăm bông chấm thuốc bôi hàng ngày đánh trên lưỡi trẻ bị tưa.

38. Chữa viêm họng: Hoa đu đủ đực 15g, xạ can 10g, củ mạch môn 10g, lá húng chanh 10g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp chín rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2 - 3 lần, nuốt nước dần dần

39. Chữa viêm cuống phổi, mất tiếng: Hoa đu đủ đực 15g, lá hẹ 15g, hạt chanh 10g, nước đun sôi để nguội 20ml. Các dược liệu được nghiền nát với nước. Thêm ít mật ong hoặc đường kính, uống làm 3 lần trong ngày. Dùng vài ngày.

40. Chữa ho do viêm họng: Hoa đu đủ đực 15g, xạ can 10g, củ mạch môn 10g, lá húng chanh 10g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp cơm rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2 - 3 lần, nuốt nước dần dần, dùng từ 3 - 5 ngày.

42. Chữa đái rắt, đái buốt, đau niệu đạo, nước tiểu ít và đỏ: Hoa đu đủ đực (hoặc quả của cây đu đủ đực lưỡng tính) 40g, lá bạc thau 50g, đậu đen 40g, phác tiêu 4g. Sắc lấy nước đặc, chia 3 lần uống vào lúc đói bụng.

43. Chữa rắn cắn . Rễ đu đủ đực 20g, lá xuyên tiêu 10g, hồng bì 5 hạt, tất cả giã nhỏ cho nước vào trộn đều gạn nước cho người bị rắn cắn uống. (Lưu ý chỉ sử dụng kết hợp hay đơn độc khi điều kiện của y tế không có, vì có những loại rắn cực độc có thể tử vong ngay chưa kịp đưa đến cấp cứu , trị liệu).

44. Chữa Trị các vết chai và mụn cóc: Lấy nhựa từ lá của cây đu đủ bôi lên vùng da bị chai hay mọc mụn, công hiệu khá tốt.

45. Chữa Trị vết loét trên da: Trộn một chút bơ hay dầu ôliu với nước đu đủ, bôi lên vết lỡ loét.

''CHIA SẺ'' là cứu được nhiều người đang mắc bệnh.

 

14/08/2021

Kỹ thuật khâu da (bò) cơ bản

 




Cổng ngăn giữa các khu phố cổ ở Hà Nội xưa

 

Căn cứ vào một tấm bản đồ do một người Việt Nam có tên là Phạm Đình Bạch vẽ năm 1873 kết quả cho thấy kinh thành Thăng Long xưa có khoảng 15 cổng, trong đó có cổng phố Jean Dupuis (Ô Quan Chưởng); cổng phố Graines (phố Hàng Đậu) ở chỗ giao nhau với phố Duranton (phố Nguyễn Thiệp); cổng phố Vases (phố Hàng Chĩnh), giữa phố Pavillons Noires (phố Mã Mây) và kè sông Hồng (nay thuộc phố Trần Quang Khải); cổng phố Saumure (phố Hàng Mắm) chỗ giao nhau với phố Maréchal Pétain (phố Nguyễn Hữu Huân); cổng phố Fellonneau (phố Lò Sũ) nơi giao nhau với đại lộ Amiral Courbet (phố Lý Thái Tổ), cổng phố Incrusteurs (đoạn đầu phố, nay là phố Tràng Tiền)… Trong số các các cổng này, chỉ có cổng phố Jean Dupuis tức Ô Quan Chưởng là còn tồn tại đến ngày nay.

Theo mô tả của phần lớn các tư liệu, đường phố ở Hà Nội (thế kỷ XVII – XIX) có sự khác biệt giữa các khu phố người Hoa và các khu phố người Việt. Ở các khu phố của người Hoa, lòng đường đều được lát đá hoa lớn. Còn các con phố trong khu người Việt thì không được lát đá, không có vỉa hè và đầy bùn mỗi khi có mưa xuống, rất khó khăn trong việc đi lại.

Trong ảnh là các cổng ngăn trên các phố Hàng Chiếu, Hàng Ngang, Hàng Buồm chụp năm 1885....

Dòng chữ Hán phía trên có nhắc đến phố Thanh Hà giao cắt với Hàng Chiếu bây giờ. Phía xa là ô Quan Chưởng (ô Thanh Hà).

Đây cũng là con phố đầu tiên mà quân Pháp dẫn quân tiến đánh thành Hà Nội lần 1 năm 1873, dưới sự chỉ huy của Francis Garnier.

Cổng phố Cantonais (Hàng Ngang)
Cổng ngăn trên phố Mã Mây
Hàng Chiếu thời kỳ trước đó là cổng ngăn khá sơ sài dựng chủ yếu bằng những cây gỗ.








 

Mẹo sống lâu nhờ ngón tay của người Nhật


 

Người Nhật sống lâu nhất thế giới chỉ nhờ… ngón tay! Không phải bỗng nhiên người Nhật sống thọ đến vậy… Bí kíp giúp người Nhật sống khỏe, sống thọ nhất thế giới! Tất cả bạn cần chỉ là 1 bàn tay !!!

Tại Nhật Bản tồn tại một nghệ thuật chữa bệnh đã 5.000 năm tuổi. Đó là cách chữa lành cơ thể bên trong hoàn toàn bằng cách nắm giữ các ngón tay trên bàn tay.

Khi nắm chặt ngón tay cái, cơ thể giải phóng những căng thẳng trong não bộ, giúp bạn thoát khỏi căng thẳng về thần kinh. Tương tự như vậy,các ngón tay còn lại cũng có khả năng chữa bệnh khác nhau.

Dưới đây là cách giữ ngón tay để thoát khỏi bệnh tật của người Nhật, theo *Boldsky.

1. Ngón tay cái

– Nếu bị căng thẳng, bạn chỉ cần giữ ngón tay cái thật chặt và đếm đến 20 giây. Việc đơn giản này lại có tác dụng giúp giảm căng thẳng cũng như làm dịu hệ thống thần kinh của bạn.

– Bạn đang bị rối loạn tiêu hóa cũng nên thực hiện theo bài tập này bởi ngón tay cái được kết nối với lá lách và dạ dày.

2. Ngón tay trỏ

Ngón tay trỏ được kết nối đến thận. Có thể ngăn chặn sỏi thận và suy thận bằng cách giữ ngón tay trỏ trong một thời gian ngắn để cân bằng nước trong cơ thể, ngăn ngừa sỏi hình thành.

3. Ngón tay giữa

– Tức giận, thất vọng và mệt mỏi đều được kết nối với ngón tay giữa. Nếu bạn đang trải qua một cơn đau đầu nhẹ, hãy nắm chặt ngón tay giữa, nỗi đau của bạn sẽ biến mất.

– Mặt khác, các ngón tay giữa được kết nối với gan, túi mật và bàng quang, vì vậy bạn có thể điều trị bệnh liên quan đến các bộ phận kia một cách tự nhiên bằng cách giữ ngón tay ba lần trong ngày.

4. Ngón tay đeo nhẫn

Ngón tay này được kết nối với trung tâm, đến phổi. Khi nắm chặt, massage ngón tay đeo nhẫn giúp bạn thở tốt hơn. Bài tập này có lợi cho những người đang bị khó thở hay các vấn đề về hô hấp.

5. Ngón tay út

Nắm chặt và ấn nhẹ ngón tay út giúp làm dịu dây thần kinh trong cơ thể. Đồng thời, những ngón tay nhỏ được kết nối với trung tâm còn giúp ngăn ngừa cơn đau tim và bệnh về tim mạch.

 


13/08/2021

Trải nghiệm YIN Yoga với các Asanas Yin Yoga

Mạc được sử dụng như một thuật ngữ nói về mạng lưới bao bọc các mô mềm của cơ thể. Nếu bạn là huấn luyện viên, bạn đã luyện cho mạc ngay từ lúc đầu bạn luyện tập. Nếu bạn là kĩ thuật viên chăm sóc sức khỏe, bạn đã làm việc với mạc ngay khi bạn chạm tay lên cơ thể ai đó. Bạn hoàn toàn không thể tránh mạc đượ. Nó nằm ngay dưới lớp da .

Thomas Myers, người sáng tạo ra "bản đồ mạc" của cơ thể con người. Mạc theo cách mô tả rất sinh động của ông là một tấm vải lớn tạo sự kết nối, có tính bao trùm và len lỏi vào những đơn vị nhỏ nhất của cơ thể. Cơ thể con người là một sự trọn vẹn chỉnh thể, không chia cắt, tách rời cũng là nhờ sự liên kết từ mạc mà ra.

Tất cả hình thức tập luyện đều tác động đến mạc, theo Thomas. Tuy nhiên Yin yoga là bộ môn làm việc trực tiếp và sâu sắc với mạc.


26/07/2021

Miệt vườn, miệt thứ, miệt dưới



Đận vừa rồi mình có dịp đi thăm thú miền Tây Nam b mới biết và vỡ vạc được nhiều điều. Ví dụ như miệt Vườn, miệt Thứ, miệt Dưới…

Cũng may trong chuyến đi này mình được gặp gỡ nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Nam bộ, mấy ông nhà văn bản địa và các cụ cao tuổi nên thu hoạch rất phong phú.

Ở miền Nam ta hay nghe nói tới Miệt Vườn, và thường hiểu Miệt Vườn nôm na là vùng đồng ruộng, vườn tược đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Còn từ Miệt Thứ coi vậy mà ít người nghe nói, ngay cả khi tôi hỏi những người bạn quê quán, gốc gác Nam bộ.

Sách Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Hùynh Tịnh Của giải thích chữ Miệt:

- Miệt. Nhỏ mọn, xứ miền, một dãy đất.

Đại Nam Quốc Âm Tự Vị còn phân biệt Miệt vườn và Miệt ruộng:

- Miệt vườn: Miền vườn, đất vườn.

- Miệt ruộng: Miền ruộng, xứ ruộng, phường ruộng.

Nhà văn, học giả Sơn Nam (1926-2008), một người được mệnh danh là “Ông già Nam bộ”, “Nhà Nam bộ học”, đã viết về vùng đồng bằng sông Cửu Long như sau:

Người ở đồng bằng sông Cửu Long đã phân tích khá tỉ mỉ những nét đặc biệt của từng vùng nhỏ trong đồng bằng. Họ gọi riêng rẽ:

- Miệt trên: vùng Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa có thể tính luôn vùng Tân An.

- Miệt Cao Lãnh: vùng chợ Cao Lãnh ngày nay, trước kia là quận lỵ của Sa Đéc.

- Miệt Đồng Tháp Mười.

- Miệt Dưới: vùng Rạch Giá, Cà Mau.

- Miệt chợ Thủ, Miệt Ông Chưởng, theo lòng Ông Chưởng, nối sông Hậu qua sông Tiền, tỉnh Long Xuyên.

- Miệt Xà Tón, Bảy Núi, tức là vùng Thất Sơn và quận lỵ Tri Tôn (Châu Đốc).

- Miệt Hai Huyện (cũng là miệt Chợ Thủ, Ông Chưởng).

Miệt Vườn, gọi tổng quát những vùng cao ráo, có vườn cam vườn quýt ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.

Miệt Vườn tiêu biểu cho hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần cao nhất ở đồng bằng sông Cửu Long.

Chúng ta đã nghe những danh từ:

- Về vườn, gái vườn, công tử vườn, điếm vườn, bắp vườn, nhà vườn…

Hồi trước năm 1975 bạn nào ở Saigon chắc có nghe từ “Dân chơi miệt vườn”, có lẽ ý nghĩa tương đương với từ “Công tử vườn” trong sách của nhà văn Sơn Nam. Một “Công tử vườn” vang danh thiên hạ xưa nay mà người dân Nam bộ ai cũng biết tiếng, đó là “Công tử Bạc Liêu” Trần Trinh Huy (1900-1974), còn gọi là Ba Huy và có biệt danh là Hắc Công Tử, người nức tiếng ăn chơi một thời, đã dám sắm và lái máy bay đi thăm ruộng vườn của gia đình (đất của nhà ông ấy rộng đến nỗi, có lần ông Huy cùng cô bồ đi máy bay thăm ruộng, lạc sang đất Thái, bị không quân Thái bắt, phải do cha đem 5 ngàn đồng bạc Đông dương sang chuộc về).

Như vậy theo nhà văn Sơn Nam, thì Miệt Vườn là những vùng đất cao ráo, có vườn cam vườn quýt ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.

Nhà văn Sơn Nam cũng cho biết Miệt Vườn là nơi có mật độ dân số cao nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, được tạo lập trên những đất gò, đất giồng, đất vườn phù sa rất tốt, thích hợp trồng cây ăn trái, người dân quê làm vườn đỡ vất vả mà dễ kiếm ăn hơn làm ruộng, cuộc sống khá sung túc. Cho nên nhìn trên bản đồ thấy ở Miệt Vườn có rất nhiều địa danh, nhiều chợ quận, chợ làng.

Thế còn Miệt Thứ?

Như đã nói bên trên, hơi lạ là khi hỏi về Miệt Thứ, vài người bạn hoặc người quen biết gốc gác miền Tây Nam bộ của tôi lại không biết, có người còn nói chưa nghe nói đến tên Miệt Thứ bao giờ. Trong sách của nhà văn Sơn Nam có nói đến Miệt Thứ. Ông viết:

Đại Nam Nhất Thống Chí chép đó là vùng “Lâm Sác”, vùng Thập Câu, giới bình dân gọi nôm na đó là Miệt Thứ, là ven U Minh. Thập Câu là mười con rạch mang tên là rạch thứ Nhứt, rạch Thứ Hai… rạch thứ Mười chảy song song từ vùng đất thấp U Minh Thượng ra biển, gọi là “thập” nhưng trong thực tế hơn mười con rạch.

Người địa phương lần hồi khai thác và khám phá thêm, thí dụ như rạch thứ chín rưỡi (giữa rạch thứ Chín và thứ Mười) hoặc rạch Xẻo Vẹt, Xẻo Ngát, Chà Và giả, Chà Và thiệt, rạch Ổ Heo, rạch Nằm Bếp, rạch Kim Quy…

Đây là vùng đất vào thời trước rất xa xôi, hiểm trở với nhiều thú dữ và bệnh tật, là nơi dừng chân cuối cùng của người dân Việt trên con đường Nam tiến, người dân chỉ đến khai thác vùng này từ sau năm 1870.

Ở vùng Miệt Thứ ruộng xấu năng xuất kém, đất thấp nhiều muỗi mòng, nhưng được một cái ở Miệt Thứ những thức ăn như kỳ đà, rắn, lươn, cua, cá lóc, tôm, đuông chà là nhiều đến mức ê hề, người sành điệu tha hồ mà chế biến, có lẽ dân miền Tây nhậu giỏi cũng nhờ “mồi nhậu” chế biến từ những “hế biến từ những “đặc sản” này.

Miệt Thứ thời ấy xa xôi cách trở quá, cho nên cô gái Miệt Vườn theo chồng về Miệt Thứ có tâm sự:

Đêm đêm ra đứng hàng ba,
Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn.
Sương khuya ướt đẫm giàn bầu,
Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho ai?

Còn cô gái ở miền Miệt Thứ Cà Mau lại bày tỏ:

Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh
.

Trong sách của Bùi Đức Tịnh (1923-2008), một học giả, nhà giáo, nhà báo quê ở Ba tri – Bến Tre, sách của ông viết nhiều về đủ mọi thể loại (Văn học sử, Văn học, Ngôn ngữ học, Địa danh Nam bộ…) cũng có viết về Thứ và Miệt Thứ:

- Thứ: Danh từ dùng riêng trong vùng Rạch Giá, Cà Mau để gọi 9 con rạch đổ ra vịnh Thái Lan bắt đầu từ chỗ gần sông Cái Lớn (Rạch Giá) xuống đến Khánh Lâm (Cà Mau). Ngọn rạch gần sông Cái Lớn nhất gọi là Thứ Nhứt, rồi đến Thứ Nhì, Thứ Ba… cho đến Thứ Chín.

Cũng cần phân biệt vùng có những con rạch đến thứ chín này là khu vực Thới Bình, Huyện Sử (tên một ngôi chợ) với khu vực gọi là “Miệt Thứ” thuộc quận Năm Căn ngày trước. Đây là vùng U Minh Hạ có 12 con kinh đưa vào rừng lấy củi, ăn ong (lấy mật ong), được gọi theo thứ tự từ kinh 1 đến kinh 12…

Nói chung qua hai học giả người Nam bộ chuyên viết vùng đồng bằng sông Cửu Long, ta thấy:

Miệt Vườn: để chỉ vùng đất cao giồng, gò có vườn cam vườn quýt (vườn trái cây) ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ, đây là vùng đất màu mỡ, trù phú, người dân Việt Nam đến định cư tại vùng này khá sớm, cuộc sống sung túc.

Miệt Thứ: là vùng đất thuộc vùng U Minh, Cà Mau, nơi có hơn mười con rạch mang tên rạch thứ Nhứt, rạch thứ Hai… (theo nhà văn Sơn Nam), hoặc mười hai con kinh gọi theo thứ tự từ kính đến kinh 12 (theo học giả Bùi Đức Tịnh). Chữ Thứ ở đây là theo thứ tự của các con rạch, con kinh. Vùng này thời trước xa xôi, hiểm trở, dân cư thưa thớt, nghèo nàn bệnh tật… với nhiều hiểm nguy, còn truyền lại trong những câu ca dao:

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma.

Hoặc:

Tới đây xứ, sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.

Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.

Bây giờ những từ ngữ, địa danh như Miệt Vườn, Miệt Thứ đã dần trở thành quá khứ ít được nhắc tới, bởi đâu đâu cũng đã là thành phố.

Cách nay vài chục năm (trước năm 1975) ở miền Nam, thì từ “thành phố” được mặc nhiên để chỉ Saigon.

Thời đó những tỉnh duyên hải, cao nguyên miền Trung, hay về miền Tây Nam bộ, người ta gọi Saigon là “thành phố”, người Saigon là “người thành phố, dân thành phố”, và khi người ở những địa phương ấy nói “đi chơi thành phố” ai cũng hiểu là “đi chơi Saigon”.

Một từ khác chỉ địa danh ở miền Tây Nam bộ hồi đó cũng hay được người dân Saigon nói, với ngụ ý để chỉ một nơi xa xôi hẻo lánh, khỉ ho cò gáy, bây giờ gọi là “vùng sâu vùng xa”, hoặc dùng để chê bai ai đó “cù lần lửa, quê cời quê kệch”.

Những ai là công chức hay trực thuộc quân đội VNCH bị chuyển đi đến những nơi như thế, thường được ví von là “đi Chắc Cà Đao”, còn anh chàng nào dưới quê mới lên Saigon còn ngờ nghệch, được ví là “gia đó ở Chắc Cà Đao mới lên”.

Nhưng cũng ít người rõ nơi này ở đâu. Trang văn Học và Ngôn Ngữ của Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn – TP. HCM cho biết:”Đó là tên một con rạch, cũng là tên một ngôi chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần Long Xuyên (An Giang). Học giả Vương Hồng Sển có ghi lại hai giải thích về tên gọi Chắc Cà Đao:

Theo ông Nguyễn Văn Đính, thì địa danh Chắc Cà Đao có thể do chữ Khmer chắp kdam (bắt cua) mà ra vì vùng này xưa kia có nhiều cua. Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao do chữ Prek Pedao; Prek: rạch; Pedao: loại dây mây; rạch có nhiều dây mây.

Và ông nghĩ rằng giả thuyết của Nguyễn Văn Đính hợp lý hơn.

Đấy chỉ là mấy thu hoạch nhỏ trong chuyến đi này của mình; có dịp lại xin chia sẻ thêm.

Tham khảo:

– Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa & Văn minh Miệt Vườn, Sơn Nam, NXB Trẻ-2014.

– Lược khảo nguồn gốc Địa danh Nam Bộ, Bùi Đức Tịnh, NXB Văn Nghệ TP. HCM-1999.

 


Ngẫm n+2

 

Chính trị luôn đứng trên quân sự, bất kể là trước đây hay sau này, chính trị gia mới là người phát động chiến tranh, là người đặt ra chiến lược, bọn họ căn cứ vào lợi ích của quốc gia, chĩa mũi nhọn vào một chỗ nào đó, phát động từng cuộc chiến tranh một.

Không phải nhà Quân sự muốn đánh thế nào thì đánh, mà tướng lĩnh chẳng qua là căn cứ vào nhu cầu của Chính trị gia, đi đến tiền tuyến điều binh khiển tướng, bài binh bố trận, bố trí chiến thuật, đánh thắng trận chiến này.

Có chút thời điểm, một vị tướng quân nào đó đánh thắng được một trận chiến, nhưng lại không đạt được lợi ích mà Quốc gia cần, đấy cũng là làm điều vô ích, nếu không có chút giá trị nào thì đây cũng là một lần hành động thất bại.

Cho nên, nhiều nhà Quân sự, chả biết có tài ba hay không đều muốn làm Chính trị gia là vì thế.