12/03/2023
Tác dụng của vỏ bưởi
11/03/2023
Bài tập Dịch cân kinh (?)
Nhặt trên net.
Bài tập Dịch cân kinh lấy sự lưu thông khí huyết
làm cơn nguồn, khi khí huyết được lưu thông, máu sẽ mang đi nuôi dưỡng toàn bộ
cơ thể, đẩy lùi mọi chất cặn bã ứ đọng và giúp cơ thể phòng, chữa nhiều căn bệnh.
👉 Đối với bài tập vẩy tay Dịch
cân kinh, đòi hỏi cần có sự điều hòa và nhịp nhàng giữa động tác tĩnh và động,
thần và khí, khí và lực, từ đó giúp khí huyết lưu thông, kinh mạch điều hòa, tạng
phủ trong cơ thể được nuôi dưỡng đầy đủ, đưa oxy đến các tế bào và loại trừ các
chất đ ộc hại.
👉 Bài tập vẩy tay chữa bách bệnh
từ Dịch cân kinh giúp nâng cao sức đề kháng, cải thiện xương khớp, suy nhược thần
kjnh, hen suyễn, tăng huyết áp,…
👉 Hướng dẫn thực hiện:
- Bước 1: Đứng thẳng người, dang hai chân khoảng
cách bằng vai, đầu ngón chân bấm chặt trên mặt đất.
- Bước 2: Hai cánh tay duỗi thẳng, thả lỏng,
ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay hướng ra sau.
- Bước 3: Bắt đầu thực hiện vẩy tay. Trước hết
đưa hai bàn tay úp ngang tầm mắt, sau đó vẩy xuống hết cỡ ra phía sau lưng.
👉 Chú ý động tác vẩy thật mạnh
ra sau hết mức có thể để tăng lực co bóp của hai lá phổi và xương khớp được khỏe
mạnh, linh hoạt.
10/03/2023
Chức tước, cấp bậc Chư hầu, quan lại trong xã hội phong kiến
Sưu tầm và biên tập
(Ở đây mình chỉ đề cập đến TQ và VN thôi)
Tước vị chư hầu:
– Vương:
dùng để phong cho những người thuộc hoàng tộc và anh em trực hệ với vua, các
hoàng tử.
Gồm có:
+ Quốc
Vương: đứng đầu một nước.
+ Thân
Vương: anh em của vua.
+ Quận
Vương: con cháu thuộc hoàng tộc.
+ Vương:
con hoặc anh em vua.
*Vương có tên
ba chữ có vị trí thấp hơn Vương có tên hai chữ.
VD: Thanh Đô
Vương sau khi lập nhiều chiến công mới được phong lên làm Thanh Vương.
*Một số trường
hợp Vương cũng được phong cho người ngoài tộc, nhưng đa số vì người đó có công
quá lớn và dưới sự bức bách của nhân dân.
– Công: (Thấp hơn Vương) Dành cho các con
hoàng thái tử và thân vương.
Gồm có:
+ Quốc
công: Phong cho những người có binh quyền lớn hoặc thế tử của các
Vương.
+ Quận
công: Phong cho những người có binh quyền và công lao lớn không có huyết
thống hoàng tộc.
– Hầu:
(Thấp hơn Công) Phong cho những người có công lao hoặc danh vọng lớn, hoặc con
trưởng của các quốc công hoặc vương.
– Bá:
Phong cho cháu đời ba trong hoàng tộc (Tức là cháu của các vương), hoặc con trưởng
của các công chúa.
– Tử:
Phong cho quan lại nhất phẩm, con thứ của công chúa, con trưởng của Hầu, Bá.
– Nam:
Phong cho quan lại phó nhất phẩm, con thứ của công chúa, con trưởng của Hầu,
Bá.
*Nói chung tước
thường đi kèm với quan chức, tuy nhiên về mặt quan trường thì có khi Nam tước
còn cao hơn cả quan Thượng Thư.
Cấp bậc quan lại
Quan lại là
những người trong bộ máy nhà nước phong kiến và bộ máy nhà nước ở Việt Nam thời
thuộc Pháp từ cấp huyện trở lên, gồm người điều hành là “Quan” và những người
thừa hành là “Lại”.
Quan lại được
thay đổi qua nhiều triều đại, cấp bậc cũng từ đó thay đổi theo, nhưng tên và
quyền hạn của các chức quan đó đa số đều không có nhiều thay đổi, trong đó có
những cấp bậc chủ yếu sau:
1. Quan ở trung ương:
Các quan cao
nhất chuyên phụ giúp cho vua có:
- Tể tướng (qua các triều đại còn có tên
Bách quỹ, Thừa tướng, Tướng quốc): Người đứng đầu của các quan văn trong triều,
có thể thay mặt vua xử lý mọi việc hành chính quốc gia.
- Thái sư, Thái phó, Thái bảo: thầy, nuôi
nấng, dạy dỗ vua, ba chức lớn nhất, gọi là Tam Công.
- Thiếu sư, Thiếu bảo, Thiếu phó: quan dưới
một bậc, chuyên giúp đỡ Tam Công, gọi là Tam Thiếu.
- Thái tể, Thái tông, Thái sử, Thái chúc,
Thái sĩ, Thái bốc: giúp vua xử lý chính vụ, đứng hai bên tả hữu vua, gọi là
Lục Thái.
- Ngũ Tư có:
+ Tư Đồ:
giữ việc nông thương, cảnh sát, giáo dục, rèn đúc dân.
+ Tư Khấu:
coi về hình phạt, kiện tụng.
+ Tư Mã:
thống sáu quân, dẹp yên trong nước.
+ Tư Thổ:
giữ lễ của nước (tế tự, triều sinh...).
+ Tư Không:
khuyến công, nông, việc thổ mộc, xét địa lợi, thiên thời.
- Thái úy: coi binh quyền, quân sự, là chức
quan tổng thống việc binh (là quan võ ngang với Tể tướng).
- Đại học sĩ: là cố vấn của vua trong những
việc trọng đại. Ở Trung Quốc, từ nhà Minh chức Tể tướng bị xóa, chỉ còn lại Đại
học sĩ là cao nhất.
- Ngự sử đại phu: chuyên can gián, kiểm
soát các quan.
 - Đứng
đầu các bộ là Thượng thư, giúp việc có Tả thị lang, hữu thị lang. Gồm có 6
bộ, hay Lục bộ:
+ Lại bộ:
bổ nhiệm quan chức, phong tước, xét công, bãi nhiễm và thăng chức cho các quan
lại, quản lý quan lại.
+ Lễ bộ:
lo việc tổ chức yến tiệc, thi cử, lễ nghi trong triều đình, chuẩn bị áo mũ, ấn
tín, tấu chương v.v... Quản lý các lễ cống nạp của chư hầu, cũng như lo việc
bói toán, đồng văn nhã nhạc.
+ Hộ bộ:
quản lý ruộng đất, thu phát bổng lộc liên quan đến đất đai như thóc gạo, hay
hôn nhân, hộ khẩu. coi phép lưu thông tiền tệ, vật giá đắt rẻ...
+ Binh bộ:
quản lý cấm vệ quân, xe ngựa, vũ khí đạn dược cũng như mọi thứ liên quan tới
quân sự, bảo vệ đất nước.
+ Hình bộ:
chính lệnh về pháp luật, xét lại những án nặng, tội còn ngờ.
+ Công bộ:
phụ trách mọi việc xây dựng cầu cống, đường xá, cung đình, sửa sang việc thổ mộc,
đắp thành, đóng thuyền bè.
- Dưới bộ còn có các Ty. Đứng đầu mỗi ty
là Lang trung với Viên ngoại lang và Chủ sự phụ giúp.
- Tiếp theo là các Tự. Ðứng đầu là các tự
là Tự khanh, rồi đến Thiếu khanh, Tự thừa, Viên ngoại, Chủ sự, Tư vụ, thư lại.
Gồm có các tự sau:
- Hồng lô
tự: tổ chức, sắp xếp thể thức lễ nghi tiếp đón sứ giả nước ngoài, lễ Xuớng
danh thi Ðình...
- Quang lộc
tự: cung cấp, kiểm tra rượu lễ, thực vật trong các buổi tế tự, triều hội, yến
tiệc.
- Ðại lý tự:
Cơ quan xét xử tối cao, xét lại các án còn ngờ.
- Thái thường
tự: trông coi đền chùa, thi hành thể thức lễ nghi, điều khiển ban âm nhạc.
- Thái bảo
tự: đóng ấn quyển thi Hội.
Bên cạnh đó
còn có các chức quan khác, đó là:
- Thượng
thư tỉnh: giúp Tể tướng điều khiển trăm quan liên lạc với Thượng thư các Bộ.
- Trung
thư tỉnh: là cơ quan quyết định chính sách, phụ trách thảo luận, soạn thảo,
ban hành chiếu lệnh của Hoàng đế.
- Môn hạ tỉnh:
chuyển lệnh vua đến các quan, tâu vua việc các quan thi hành lệnh vua, điều khiển
lễ nghi trong cung.
- Khu mật
sứ: Cơ mật viện, coi việc cơ mật, nắm quyền binh.
- Ngự sử
đài: cơ quan giám sát, can gián các quan ở triều đình, sau còn được gọi là
Đô sát viện.
- Hàn lâm
viện: lo biên soạn văn thư.
- Quốc tử
giám: lo dạy dỗ đào tạo con em giới cầm quyền, đứng đầu là Tế tửu.
- Tư thiên
giám / Khâm thiên giám: coi thiên văn, lịch pháp.
- Thái y
viện: lo việc thuốc men, chữa bệnh cho hoàng tộc, quan lại.
- Nội các:
là văn phòng vua, ghi chép tấu, sớ các nha dâng lên, khởi thảo chiếu, chế, sắc
ban ra các cơ quan, thi Ðình thì đằng lục các chế sách và cấp quyển thi.
- Tôn nhân
phủ: là cơ quan quản lý nội bộ hoàng tộc, trông nom sổ sách, ngọc phả, đền
miếu trong hoàng tộc; giải quyết các vấn đề có liên quan đến các thân vương,
công tử, công tôn...
- Nội vụ
phủ: là nơi quản lý các thái giám, cũng như công việc hành chính ở hậu
cung.
2. Quan ở địa phương:
- Thứ sử:
giám sát, coi việc hành chính đứng đầu một quận quốc, hay một tỉnh, dù dưới quyền
Thái thú, nhưng là người đại diện cho Thái thú khi vào kinh, sau khi chức Thái
thú được bỏ thì Thứ sử là cao nhất.
- Thái thú:
quan đứng đầu một quận, nhiệm vụ là thu nạp các cống phẩm của địa phương, nếu
quận loạn lạc, sẽ được bổ nhiệm thêm một Đô úy có nhiệm vụ phụ trách quân sự,
còn không Thái thú quản cả quân sự và dân sự của quận đó.
- Tổng đốc:
là viên quan đứng đầu một vùng bao gồm nhiều tỉnh thành, trông coi cả về dân sự
và quân sự.
- Tuần phủ:
là người lãnh đạo một tỉnh hoặc một bộ phận của tỉnh lớn, có quyền bổ nhiệm,
bãi nhiệm các chức quan dưới quyền ở địa phương mình quản lý, có quyền lãnh đạo
về hành chính, tài chính, quân sự cùa tỉnh. Nếu ở tỉnh đó có Tổng đốc, thì Tuần
phủ phải nghe theo Tổng đốc.
- Tri phủ
(tứ phẩm): Đứng đầu một phủ hoặc châu, có quyền cả dân sự và quân sự.
- Phủ doãn:
quan thuộc cấp huyện, đàn áp cường hào, xét những vụ kiện do quan huyện xử mà
kêu lại ở bản hạt, hàng ngũ phẩm.
- Án sát sứ:
coi việc hành chính, kiện tụng, tư pháp, phong hóa, kỷ cương ở các tỉnh, dưới
quyền Tổng đốc, Tuần phủ.
- Tri huyện
(bát phẩm): đứng đầu một huyện.
- Huyện thừa
(cửu phẩm): lo công văn, sổ sách trong huyện, phụ giúp Tri huyện.
- Xã trưởng:
là người đứng đầu một xã, giúp các quan lại quản lý việc thu thuế của dân, giữ
gìn an ninh trật tự, chọn lính nhập ngũ hoặc chọn thí sinh đi thi cử.
 - Thượng tướng quân: quan ngoài, coi việc
binh.
- Ðô hộ phủ
Sĩ sư : (Ðường) coi phiên quốc, sau cải là Tiết độ sứ.
- Lãnh
binh: võ tướng, chỉ huy quân đội cấp tỉnh.
- Ðô đốc:
người trực tiếp điều khiển 5 quân.
- Thiếu úy:
là chức quan tổng thống việc binh, coi cấm quân.
- Bá hộ:
cũng gọi là Bách hộ, quan võ cầm 100 binh.
- Biền
binh : một hạng lính không thường trực ở các tỉnh và kinh thành, chia ba
ban thay nhau trực trong quân đội.
- Tiết độ
sứ : là Ðô hộ phủ, quan võ coi ngoài biên ải.
- Vũ vệ
: quân hộ tống khi vua đi ra ngoài.
- Vệ :
cấm quân, bảo vệ quanh vua.
- Thị vệ:
lính hộ vệ nhà vua.
- Thân vệ:
vệ binh của vua.
- Ðốc trấn:
giữ yên địa phương.
- Cẩm y vệ:
đi tuần cảnh, cấm binh.
- Lính lệ
: làm tạp vụ ở huyện.
- Ðô thống
ngũ quân (tiền, hậu, tả, hữu, trung) : quan võ, bảo vệ vua, hoàng tộc và
kinh thành. Chỉ huy 5 binh chủng : Bộ binh, Thủy binh, Pháo binh, Tượng binh, Kỵ
binh.
- Ðề lãnh:
tuần hành xem xét các địa phận trong thành, xét hỏi những vụ kiện do Ngự sử đài
quản lý.
- Vệ úy:
người quản lý cửa cung, cửa thành.
3. Phẩm hàm:
Về cơ bản
quan lại các triều đại về sau đều được chia ra làm chín phẩm, mỗi phẩm lại có
hai cấp bậc là Chính và Tòng (phó), cấp Tòng thường là người phò tá cho Chính,
có lương bổng thấp hơn một chút nhưng cùng phẩm quan.
- Nhất phẩm:
Quan văn: Tể tướng, Tư đồ; Thái sư, Thái phó,
Thái bảo, Đại học sĩ cần chánh điện, Thái tử thái sư (phó).
Quan võ: Thái úy, Tư mã, Đô thống, Đô đốc,
Thượng tướng quân.
- Nhị phẩm:
Quan văn: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Thượng
thư (đứng đầu các bộ), Tổng đốc (đứng đầu hai, ba tỉnh), Tuần phủ (đứng đầu một
tỉnh).
Quan võ: Thiếu úy, Đề đốc, Đề lãnh, Tham đốc,
Đại Tướng quân.
- Tam phẩm:
Quan văn: Tổng thái giám, thứ sử (đứng đầu các
Châu) , Thị lang (Phó của Thượng thư), Ngự sử đại phu (chuyên can giám, kiểm
soát các quan).
Quan võ: Nhất đẳng thị vệ, Vệ úy thị nội, Vệ
úy giám thành, Vệ úy các quân, Tổng chỉ huy sứ (nắm quyền chỉ huy quân đội), Tổng
binh sứ. Các quan võ cấp này thường được gọi là Tướng quân, trừ Thị vệ.
- Tứ phẩm:
Quan văn: Học sĩ (trong viện Hàn lâm), Thái
giám, Trường sử (Thư ký về văn thư), Phó tổng ngự sử, Tham tri.
Quan võ: Nhị đẳng thị vệ, Thành thủ úy, Cai
đội nội các, Chỉ huy sứ, Tiết độ sứ. Các quan võ cấp này còn được gọi là Giám
quân.
- Ngũ phẩm:
Quan văn: Phủ doãn, Đại sứ Thái y viện, Thị
giảng trong Hàn Lâm Viện, Đông các Đại học sĩ.
Quan võ: Hiệu úy Cấm vệ quân, Tam đẳng thị vệ,
Tứ đẳng thị vệ (cấp Phó), Đội trưởng các quân, Cai đội giám thành.
- Lục phẩm:
Quan văn: Thị thư trong Hàn Lâm Viện, Ngự y
chính trong Thái y viện, Giám trưởng Tư thiên giám, Lang trung (mỗi bộ có 4 Ty,
Lang trung đứng đầu các Ty), Tri phủ, Viên ngoại lang (trong lục bộ, cấp phó).
Quan võ: Ngũ đẳng thị vệ, Cai đội các thành
trấn, Cai đội thổ binh, Đội trưởng chư quân.
- Thất phẩm:
Quan văn: Ngự sử giám sát, Trường sử ở Vương
phủ, cấp phó trong Thái y viện, Giám phó Tư thiên giám, Tri huyện, Tri châu,
Thông phán (quan chuyên xét xử)
Quan võ: Tiểu đội trưởng Cấm vệ quân, Tiểu đội
trưởng Giám thành, Tiểu đội trưởng Chư quân.
- Bát phẩm:
Quan văn: Tu soạn trong Hàn Lâm Viện, Giám thứ
trong Tư thiên giám, Huấn đạo, Huyện thừa (lo công văn), Tri sư các phủ.
Quan võ: Đội trưởng trạm dịch, Đội trướng
các trấn đạo, binh ở Đại lý tự, Đội trưởng binh lính ở địa phương.
- Cửu phẩm:
Quan văn: Các quan lo công văn ở các chợ, bến
đồ, trạm dịch; Y sinh Thái y viện, Điển bạ Quốc tử giám, Đãi chiếu Hàn lâm viện.
Quan võ: Cai tổng, Cai huyện.
08/03/2023
Thiên hạ có 5 việc chẳng lành
Khổng Tử - Lý Hiểu Mai - NTDTV
Trong
“Khổng Tử gia ngữ” có một điển cố như sau: Một lần, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: “Nghe nói mở rộng dinh thự về phía đông sẽ
không tốt, có thật vậy không?
Khổng Tử
trả lời rằng: “Thiên hạ có năm việc chẳng lành, nhưng việc ‘mở rộng nhà về phía
đông’ không phải là một trong số đó”.
Năm điều
chẳng lành đó là gì?
Thứ nhất: Tổn nhân nhi tự ích, thân chi bất tường dã. - Làm tổn hại người để lợi ích cho mình, đó là chuyện chẳng lành của bản thân)
Ý nghĩa
là làm gây tổn hại cho người khác để lấy lợi cho bản thân, sẽ mang lại điều xui
xẻo cho chính mình.
Thứ
hai: Khí lão nhi thủ
ấu, gia chi bất tường dã. (Ruồng bỏ người
già và chỉ chăm sóc nuông chiều trẻ con, đó là chuyện chẳng lành của gia đình)
Ý nghĩa
là gia đình nào bỏ mặc người già, chỉ quan tâm đến con trẻ là điều đáng lo ngại
của gia đình đó.
Tại sao
nó đáng ngại? Có người ví mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái như một cái cây lớn,
quả của cây này là con, thân cây là cha mẹ của con, gốc cây là ông bà của con
v.v. Muốn cây sai trái xum xuê thì phải tưới nước và chất dinh dưỡng vào lên gốc
rễ của cây.
Nhưng
ngày nay, hầu hết các bậc cha mẹ đều trực tiếp tưới nước và chất dinh dưỡng này
lên trái cây, dẫn đến trái cây không thể tiếp nhận các chất dinh dưỡng này và bị
thối. Đây chính là mấu chốt của những vấn đề trong giáo dục trẻ em hiện nay.
Tấm
gương dạy dỗ của cha mẹ thông qua hành động có sức mạnh hơn nhiều lời nói. Người
lớn ở nhà nói lời tử tế với cha mẹ, rất kính trọng cha mẹ, con trẻ nhìn thấy điều
đó, và chúng sẽ tự nhiên làm theo mà người lớn không cần phải nói.
Thứ
ba: Thích hiền nhi dụng
bất tiếu, quốc chi bất tường dã. (Ruồng bỏ
người hiền lương, trọng dụng kẻ vô đức, đó là chuyện chẳng lành của quốc gia)
Ý nghĩa
là một nước không trọng người hiền tài, chỉ bổ nhiệm kẻ xấu bất tài, chính là
điều xui xẻo của quốc gia.
Thứ
tư: Lão giả bất
giáo, ấu giả bất học, tục chi bất tường dã. (Người già không muốn dạy bảo, trẻ con không muốn học tập, đó là chuyện
chẳng lành của phong tục)
Ý nghĩa
là người già trí tuệ không muốn dạy bảo, người trẻ không chịu học, đó là một
phong tục đáng ngại.
Tại sao
lại như vậy? Dựa vào kinh nghiệm phong phú của mình, những người lớn tuổi dạy
cho con cháu những phong tục truyền thống tốt đẹp, để chúng học làm người tốt,
đây là bài học bắt buộc đối với một gia đình. Nhưng hiện nay nhiều gia đình đã
mất đi những điều này. Điều đó có nghĩa là gia phong, gia đạo tốt đẹp đang bị mất
đi, điều đó thật đáng sợ.
Khổng Tử
đã từng cảnh báo: “Thiếu nhi bất học, trường
vô năng dã, lão nhi bất giáo, tử mạc chi tư dã”.
Ý nghĩa
là: “Một người khi trẻ không học tập, lớn
lên sẽ không có năng lực; người lớn không dạy bảo con trẻ, sau khi qua đời sẽ
không ai tưởng nhớ”.
Giáo dục
gia đình chủ yếu là dạy con cái cách làm người, một khi mất đi sự giáo dục đó
thì tai họa sẽ không còn xa.Khổng Tử. 
Thứ
năm: Thánh nhân phục
nặc, ngu giả thiện quyền, thiên hạ bất tường dã. (Thánh nhân ẩn tích, kẻ ngu chuyên quyền, đó là chuyện chẳng lành của
thiên hạ)
Ý nghĩa
là khi người có tài và đức rút lui về, và kẻ ngu dốt và thiếu trí huệ, đức hạnh
lên nắm quyền, đây là một điềm xấu trong thiên hạ.
Tại
sao? Bởi vì người tài đức không được trọng dụng, không được quốc gia coi trọng,
lời khuyên của họ không được tiếp nhận, nên họ sống ẩn dật và không ra làm
quan. Nhưng những kẻ ngu ngốc nắm quyền lực và thao túng các vị trí. Đây chính
là điều xui xẻo cho thiên hạ.
06/03/2023
Bàn về Ăn Chay
Nhân ngày Rằm
tháng Hai, mình bàn về ĂN CHAY một chút nhỉ.
Ở thời kỳ hiện
tại (khoảng 100 năm nay và ở VN ta khoảng
50 năm), năng suất lao động do công nghệ và kỹ nghệ phát triển nên nhu cầu
về thịt, cá, thực phẩm từ động vật được đáp ứng đầy đủ, có khi thừa thãi và trở
thành thức ăn chính trong các bữa ăn hàng ngày.
Nhưng trong thời gian gần đây, ăn chay đã dần trở thành một phong trào vì những lý do
khác nhau như: Bảo vệ môi sinh, chăm lo sức khỏe, thương yêu súc vật, lý do thời
thượng (giảm cân chả hạn – cái này được
phái nữ và giới showbis đề cao lắm) và cả vì lý do thương mại.
Ở đây mình chỉ
đề cập đến ăn chay trong Phật giáo mà thôi.
Người Việt
Nam thường quan niệm rằng ăn chay là một yêu cầu phải có của các tăng sĩ và các
Phật tử. 
Nói cho đúng
thì yêu cầu ăn chay chỉ áp dụng với các tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa, truyền
từ Trung Hoa sang, gọi là Phật giáo Bắc Tông, các tăng sĩ Phật giáo Nguyên Thủy
hay Nam Tông, có truyền thống khất thực, thì không bắt buộc ăn chay, mà ăn các
thực phẩm do quần chúng tùy duyên trao tặng.
Các tu sĩ Phật
giáo Nguyên Thủy cho rằng sự giải thoát không do nơi ăn uống, mà do nơi thanh tịnh
ba nghiệp Thân - Khẩu - Ý. Ăn chay mà thân khẩu không lành, ý chứa gươm
đao, giới luật không giữ thì không lợi ích gì. Luận cứ này không khác gì mấy lối
nghĩ của dân ta "ăn mặn nói ngay còn
hơn ăn chay nói dối". 
Ngược lại,
theo Phật giáo Trung Hoa, trong kinh sách Đại thừa như Lăng Già, Lăng Nghiêm, Đại
Bát Niết Bàn chủ yếu coi ăn chay là thi hành giới cấm sát sinh, và cũng là thực
hành hạnh từ bi.
Cũng là, ăn
chay nhằm tránh ăn thịt lẫn nhau theo thuyết Nhân – Quả, Luân hồi vì chúng sinh
sẽ trải qua vô số kiếp người – súc sinh – ngạ quỷ… như con sâu cái kiến nên ăn
mặn là ăn thịt đồng loại…
Mình nhớ là đọc
ở đâu đó có chuyện: rằng vào đời nhà Trần trong một bữa tiệc do hoàng thái hậu
Nguyên Thánh Thiên Cảm thết đãi có cả món chay lẫn món mặn, thì Tuệ Trung Thượng
Sĩ, người sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, đã điềm nhiên ăn thịt
cá. Thái hậu ngạc nhiên hỏi: "Anh tu
thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao được?" Ngài cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm
Phật. Phật không cần làm anh". Tuệ Trung Sĩ là một bậc tu hành giác ngộ.
Lời nói của Ngài không phải là lời kẻ tục tử đáp xằng. Việc ăn thịt cá của Ngài
Tuệ Trung dĩ nhiên là trái hẳn kinh sách Đại thừa. 
Vậy thì sự thật
ở đâu? Ăn chay là phải, hay ăn mặn là phải trong việc tu hành theo đạo Phật?
Câu trả lời của
Tuệ Trung Thượng Sĩ hàm ý cho thấy cái quan trọng của tâm tu và cái phá chấp
trong phương tiện tu hành.
Thời nay, ta
thấy có những trường hợp các bữa cơm chay trong chùa đầy rẫy các món như giò,
chả, thịt kho, cá hấp, tôm xào? làm bằng đồ chay. Về vật chất, đúng rằng các
món này thuần làm bằng rau đậu, không có cá thịt. 
Nhưng về tinh
thần, cái ý thức ăn giò, chả, thịt kho, cá hấp? rõ ràng biểu lộ sự quán tưởng nặng
nề Thân - Khẩu - Ý, không giúp ích chút nào cho sự tu trì. 
So với một tu
sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, đón nhận tự nhiên mọi thực phẩm dân chúng cúng dường,
không chú ý tìm cái ngon trong đó, coi ăn như một nhu cầu bình thường và tự
nhiên để sống và tu hành, thì người ăn chay với các món cầu kỳ sửa soạn để phục
vụ khẩu vị, sắc hương (?), chưa chắc đã là người tiến gần hơn đến chỗ giác ngộ.
Nói như vậy cũng không phải để bênh vực những kẻ cố tình khai thác cái ý "phá chấp", "cốt ở tâm tu" để mà sa đà ăn mặn, dối
mình, gạt người.
Ăn, vốn là một
yêu cầu tự nhiên để sống còn, nhưng dần dần đã trở thành một cái dục thú lớn ở
đời và là một trong những động lực thúc đẩy con người vật lộn đấu tranh. Từ chỗ
sống nhờ ăn, người ta trở thành khổ vì ăn. Khổ trong sự tìm kiếm đồ ăn đã đành,
khổ còn vì ăn không đúng mà trở thành đau bệnh. Con người hiện đại bắt đầu để ý
về việc chọn đồ ăn tốt cho sức khỏe mà tránh những thức độc hại dù ngon miệng,
hợp khẩu vị.
Các cụ ta
ngày xưa có quan niệm rằng những giống vật ăn thịt thường là bạo dạn, tạo tợn,
như hổ báo, còn các giống ăn cỏ thường là hiền lành như hươu nai trâu bò. Nền
văn hóa của những giống dân du mục, sống bằng săn thú và thịt động vật cũng có
những nét hung dữ năng nổ hơn là văn hóa của những giống người sống bằng nông
phẩm trồng trọt. Như thế, có thể nói thức ăn ảnh hưởng quan trọng đến cơ thể và
tinh thần con người.
Nhiều người khẳng
định ăn chay tốt hơn và làm con người khỏe hơn ăn mặn (tức là ăn thịt cá). Ngược lại, nhiều người lại cho rằng cá thịt là
những thực phẩm không thể thiếu để làm cho cơ thể khỏe mạnh. 
Thực sự vấn đề
không đơn giản như thế. Có nhiều người ăn chay từ nhỏ đến lớn mà vẫn khỏe mạnh
không tật bệnh. Có nhiều người chỉ ăn thịt cá mà bệnh tật ốm đau đủ thứ.
Nói chung, ăn
mà không đúng cách thì bất kể chay mặn đều là không tốt. Riêng nói về ăn chay,
thì có thể khẳng định rằng các thực phẩm chay đủ cung cấp cho người ta các yếu
tố dinh dưỡng cơ bản cần thiết cho cơ thể, gồm chất bột, chất béo, chất đạm, chất
xơ và các chất sinh tố cũng như muối khoáng. 
Thực vậy,
trong các loại đậu, đặc biệt là đậu nành thì có chất đạm, các hạt như hạt vừng
(mè), hạt điều thì có nhiều chất béo. Nếu ăn chay nhà nghèo theo kiểu Việt Nam ngày
xưa chủ yếu toàn rau mà thiếu đậu cùng các loại hạt và những phó sản (đậu phụ, dầu, sữa, đậu nành, trứng) thì
suy dinh dưỡng là chắc chắn. Ngược lại, người Việt hiện nay, trong cách sửa soạn
đồ chay thường rộng rãi sử dụng dầu, mè (vừng), lạc, nước cốt dừa, đường v.v để
cho các món ăn ngon lành, bùi béo. 
Tóm tắt lại
thì nếu biết rõ đặc chất dinh dưỡng của từng loại đồ chay để mà chọn lựa ăn
chay một cách quân bình theo những hiểu biết khoa học, thì ăn chay có khả năng
dinh dưỡng không khác gì ăn mặn, mà còn có những lợi điểm giúp con người trầm
tĩnh xuống, thích hợp cho sự tu hành yên lắng của tâm hồn.
Nếu cứ viện dẫn
và diễn dịch kinh điển để nói rằng tu hành theo Phật giáo là phải hay không phải
ăn chay thì cuộc luận bàn tìm đúng sai này sẽ không bao giờ chấm dứt. Vả lại những
kỳ tập kết của các đệ tử trong khoản vài trăm năm sau khi Phật nhập Niết bàn để
thảo luận về giới luật đã không có sự hoàn toàn thống nhất ý kiến.
Như đã tóm lược
ở trên, thực phẩm chay nếu có đầy đủ các chất chính cần thiết cho nhu cầu dinh
dưỡng của con người (chất đạm, chất béo,
chất bột, chất xơ, sinh tố và các khoáng chất) mà hợp vị thì nên khuyến
khích sử dụng. Cho nên ăn chay đúng cách không khác gì ăn mặn về khía cạnh dinh
dưỡng. Ngoài ra nhìn chung thực phẩm chay còn có những ảnh hưởng tĩnh lặng lên
phản ứng con người, ngược với những đồ ăn gốc động vật.
Con người vốn
thuộc loại ăn tạp, nghĩa là ăn đủ thứ, nếu bỗng nhiên chỉ ăn có một loại thực
phẩm chay thì sẽ cũng khó khăn.
Vượt qua khó
khăn này chính là một nỗ lực tu hành, gạt bỏ những trói buộc của thân khẩu ý.
Tuy nhiên, khi đã ăn chay mà còn bày vẽ vọng tưởng, nào là giò, chả, cá, thịt,
thì tinh thần này lại làm cho con người bị trói buộc mà giảm mất ý nghĩa của sự
chọn lựa ăn chay.
Nhìn ra như vậy người cư sĩ Phật giáo sẽ chọn được cho mình một thái độ thích hợp đối với vấn đề ăn chay trên con đường tìm đến thân tâm an lạc.
Một cách dung dị và thực tế, có thể nói ăn chay là một phương tiện tu
hành hữu ích...
04/03/2023
Tác dụng của hạt lạc với sức khoẻ
Tập hợp trên net.
Hạt lạc nhỏ mang nhiều giá trị dinh dưỡng,
protein và tác dụng tuyệt vời với sức khỏe mà các bạn có thể không biết.
1. Lạc giúp giữ mức cholesterol trong vòng kiểm
soát.
Lạc rất giàu axit béo không bão hòa đơn, giúp
giảm mức độ cholesterol xấu trong cơ thể, từ đó ngăn ngừa nguy cơ tim và bệnh
mạch vành.
2. Hỗ trợ ngăn ngừa nếp nhăn
Lạc giàu vitamin E, giúp làm giảm nếp nhăn trên
da. Ăn lạc luộc được nghiên cứu giúp bảo vệ da khỏi các gốc tự do.
3. Giúp giảm lượng đường trong máu
Bệnh nhân gặp vấn đề về bệnh tiểu đường vẫn có
thể dùng lạc như một món ăn thân thiện. Lạc giàu nguồn mangan, giúp hấp thụ
chất béo, do đó điều tiết lượng đường trong máu.
4. Hiệu quả trong việc giảm trầm cảm
Lạc giàu tryptophan, giúp giải phóng một hóa chất
đặc biệt làm giảm các dấu hiệu trầm cảm, giúp tâm trạng khởi sắc hơn.
5. Giàu năng lượng
Lạc là nguồn cung cấp năng lượng tức thời cho cơ
thể vì chúng rất giàu chất chống oxy hóa và khoáng chất. Bạn không cần lo ngại
về cân nặng khi nhâm nhi loại hạt này. Bởi lạc cũng phù hợp cho giảm cân, đơn
giản vì nó không chứa nhiều tinh bột và chất béo so với các loại hạt khác.
6. Hỗ trợ ngăn ngừa bệnh ung thư khác nhau
 Lạc chứa p-coumaric acid, giúp giảm nguy
cơ ung thư dạ dày. Nó cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư ruột kết ở phụ nữ
lên đến 40%. Đưa lạc hạt hay bơ đậu phộng vào kế hoạch ăn uống mỗi ngày chừng
mực là cách hỗ trợ toàn diện cho sức khỏe.
7. Có lợi cho tóc
Nghiên cứu chỉ ra lạc rất giàu axit béo Omega 3,
giúp thúc đẩy sự phát triển tóc khỏe mạnh. Lạc giàu vitamin E, giúp giảm thiểu
vấn đề thưa tóc ở phụ nữ.
8. Nó làm giảm nguy cơ sỏi mật
Lạc ở dạng hạt hoặc bơ đậu phộng tự nhiên có thể
làm giảm nguy cơ bị sỏi túi mật trong cơ thể. Nó cũng ngăn ngừa chống lại nhiều
bệnh nhiễm trùng túi mật và gan khác lên đến 25%. Sử dụng bơ đậu phộng trong
bữa ăn sáng của bạn để có năng lượng dồi dào.
Một số lưu ý khi sử
dụng lạc
Lạc có thể được chế
biến thành nhiều món ăn ngon như: lạc luộc, lạc rang, muối lạc trộn nộm,...Mặc
dù có nhiều nghiên cứu chứng minh ăn lạc có tác dụng hỗ trợ quá trình giảm cân
hiệu quả, nhưng bạn không nên lạm dụng lạc quá nhiều trong khẩu phần ăn hàng
ngày. Hơn nữa, bạn cũng cần lưu ý khi sử dụng lạc:
·    Không
nên ăn lạc luộc hoặc lạc rang quá nhiều khi đang đói bụng. Bởi vì, khi ăn lạc
lúc đói thì các chất béo trong lạc sẽ khiến bạn bị đầy hơi, chướng bụng, gây
cảm giác khó chịu cho người sử dụng
·     Phụ
nữ mang thai không nên ăn quá nhiều lạc bởi trong lạc có chứa chất có khả năng
gây dị ứng khi sử dụng
·   Ăn
lạc có tốt không? Đối với người mắc bệnh gout, nhiễm mỡ
máu, đái tháo đường, nên nếu ăn lạc quá mức sẽ gây ảnh hưởng đến sức khoẻ
·    Hơn
nữa, khi mua lạc cần lựa chọn kỹ, tránh mua lạc đổi màu hoặc bị mốc vì có thể
nhiễm nấm aflatoxin có nguy cơ gây bệnh ung thư cao.





