Nhân ngày Rằm
tháng Hai, mình bàn về ĂN CHAY một chút nhỉ.
Ở thời kỳ hiện
tại (khoảng 100 năm nay và ở VN ta khoảng
50 năm), năng suất lao động do công nghệ và kỹ nghệ phát triển nên nhu cầu
về thịt, cá, thực phẩm từ động vật được đáp ứng đầy đủ, có khi thừa thãi và trở
thành thức ăn chính trong các bữa ăn hàng ngày.
Nhưng trong thời gian gần đây, ăn chay đã dần trở thành một phong trào vì những lý do
khác nhau như: Bảo vệ môi sinh, chăm lo sức khỏe, thương yêu súc vật, lý do thời
thượng (giảm cân chả hạn – cái này được
phái nữ và giới showbis đề cao lắm) và cả vì lý do thương mại.
Ở đây mình chỉ
đề cập đến ăn chay trong Phật giáo mà thôi.
Người Việt
Nam thường quan niệm rằng ăn chay là một yêu cầu phải có của các tăng sĩ và các
Phật tử.
Nói cho đúng
thì yêu cầu ăn chay chỉ áp dụng với các tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa, truyền
từ Trung Hoa sang, gọi là Phật giáo Bắc Tông, các tăng sĩ Phật giáo Nguyên Thủy
hay Nam Tông, có truyền thống khất thực, thì không bắt buộc ăn chay, mà ăn các
thực phẩm do quần chúng tùy duyên trao tặng.
Các tu sĩ Phật
giáo Nguyên Thủy cho rằng sự giải thoát không do nơi ăn uống, mà do nơi thanh tịnh
ba nghiệp Thân - Khẩu - Ý. Ăn chay mà thân khẩu không lành, ý chứa gươm
đao, giới luật không giữ thì không lợi ích gì. Luận cứ này không khác gì mấy lối
nghĩ của dân ta "ăn mặn nói ngay còn
hơn ăn chay nói dối".
Ngược lại,
theo Phật giáo Trung Hoa, trong kinh sách Đại thừa như Lăng Già, Lăng Nghiêm, Đại
Bát Niết Bàn chủ yếu coi ăn chay là thi hành giới cấm sát sinh, và cũng là thực
hành hạnh từ bi.
Cũng là, ăn
chay nhằm tránh ăn thịt lẫn nhau theo thuyết Nhân – Quả, Luân hồi vì chúng sinh
sẽ trải qua vô số kiếp người – súc sinh – ngạ quỷ… như con sâu cái kiến nên ăn
mặn là ăn thịt đồng loại…
Mình nhớ là đọc
ở đâu đó có chuyện: rằng vào đời nhà Trần trong một bữa tiệc do hoàng thái hậu
Nguyên Thánh Thiên Cảm thết đãi có cả món chay lẫn món mặn, thì Tuệ Trung Thượng
Sĩ, người sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, đã điềm nhiên ăn thịt
cá. Thái hậu ngạc nhiên hỏi: "Anh tu
thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao được?" Ngài cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm
Phật. Phật không cần làm anh". Tuệ Trung Sĩ là một bậc tu hành giác ngộ.
Lời nói của Ngài không phải là lời kẻ tục tử đáp xằng. Việc ăn thịt cá của Ngài
Tuệ Trung dĩ nhiên là trái hẳn kinh sách Đại thừa.
Vậy thì sự thật
ở đâu? Ăn chay là phải, hay ăn mặn là phải trong việc tu hành theo đạo Phật?
Câu trả lời của
Tuệ Trung Thượng Sĩ hàm ý cho thấy cái quan trọng của tâm tu và cái phá chấp
trong phương tiện tu hành.
Thời nay, ta
thấy có những trường hợp các bữa cơm chay trong chùa đầy rẫy các món như giò,
chả, thịt kho, cá hấp, tôm xào? làm bằng đồ chay. Về vật chất, đúng rằng các
món này thuần làm bằng rau đậu, không có cá thịt.
Nhưng về tinh
thần, cái ý thức ăn giò, chả, thịt kho, cá hấp? rõ ràng biểu lộ sự quán tưởng nặng
nề Thân - Khẩu - Ý, không giúp ích chút nào cho sự tu trì.
So với một tu
sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, đón nhận tự nhiên mọi thực phẩm dân chúng cúng dường,
không chú ý tìm cái ngon trong đó, coi ăn như một nhu cầu bình thường và tự
nhiên để sống và tu hành, thì người ăn chay với các món cầu kỳ sửa soạn để phục
vụ khẩu vị, sắc hương (?), chưa chắc đã là người tiến gần hơn đến chỗ giác ngộ.
Nói như vậy cũng không phải để bênh vực những kẻ cố tình khai thác cái ý "phá chấp", "cốt ở tâm tu" để mà sa đà ăn mặn, dối
mình, gạt người.
Ăn, vốn là một
yêu cầu tự nhiên để sống còn, nhưng dần dần đã trở thành một cái dục thú lớn ở
đời và là một trong những động lực thúc đẩy con người vật lộn đấu tranh. Từ chỗ
sống nhờ ăn, người ta trở thành khổ vì ăn. Khổ trong sự tìm kiếm đồ ăn đã đành,
khổ còn vì ăn không đúng mà trở thành đau bệnh. Con người hiện đại bắt đầu để ý
về việc chọn đồ ăn tốt cho sức khỏe mà tránh những thức độc hại dù ngon miệng,
hợp khẩu vị.
Các cụ ta
ngày xưa có quan niệm rằng những giống vật ăn thịt thường là bạo dạn, tạo tợn,
như hổ báo, còn các giống ăn cỏ thường là hiền lành như hươu nai trâu bò. Nền
văn hóa của những giống dân du mục, sống bằng săn thú và thịt động vật cũng có
những nét hung dữ năng nổ hơn là văn hóa của những giống người sống bằng nông
phẩm trồng trọt. Như thế, có thể nói thức ăn ảnh hưởng quan trọng đến cơ thể và
tinh thần con người.
Nhiều người khẳng
định ăn chay tốt hơn và làm con người khỏe hơn ăn mặn (tức là ăn thịt cá). Ngược lại, nhiều người lại cho rằng cá thịt là
những thực phẩm không thể thiếu để làm cho cơ thể khỏe mạnh.
Thực sự vấn đề
không đơn giản như thế. Có nhiều người ăn chay từ nhỏ đến lớn mà vẫn khỏe mạnh
không tật bệnh. Có nhiều người chỉ ăn thịt cá mà bệnh tật ốm đau đủ thứ.
Nói chung, ăn
mà không đúng cách thì bất kể chay mặn đều là không tốt. Riêng nói về ăn chay,
thì có thể khẳng định rằng các thực phẩm chay đủ cung cấp cho người ta các yếu
tố dinh dưỡng cơ bản cần thiết cho cơ thể, gồm chất bột, chất béo, chất đạm, chất
xơ và các chất sinh tố cũng như muối khoáng.
Thực vậy,
trong các loại đậu, đặc biệt là đậu nành thì có chất đạm, các hạt như hạt vừng
(mè), hạt điều thì có nhiều chất béo. Nếu ăn chay nhà nghèo theo kiểu Việt Nam ngày
xưa chủ yếu toàn rau mà thiếu đậu cùng các loại hạt và những phó sản (đậu phụ, dầu, sữa, đậu nành, trứng) thì
suy dinh dưỡng là chắc chắn. Ngược lại, người Việt hiện nay, trong cách sửa soạn
đồ chay thường rộng rãi sử dụng dầu, mè (vừng), lạc, nước cốt dừa, đường v.v để
cho các món ăn ngon lành, bùi béo.
Tóm tắt lại
thì nếu biết rõ đặc chất dinh dưỡng của từng loại đồ chay để mà chọn lựa ăn
chay một cách quân bình theo những hiểu biết khoa học, thì ăn chay có khả năng
dinh dưỡng không khác gì ăn mặn, mà còn có những lợi điểm giúp con người trầm
tĩnh xuống, thích hợp cho sự tu hành yên lắng của tâm hồn.
Nếu cứ viện dẫn
và diễn dịch kinh điển để nói rằng tu hành theo Phật giáo là phải hay không phải
ăn chay thì cuộc luận bàn tìm đúng sai này sẽ không bao giờ chấm dứt. Vả lại những
kỳ tập kết của các đệ tử trong khoản vài trăm năm sau khi Phật nhập Niết bàn để
thảo luận về giới luật đã không có sự hoàn toàn thống nhất ý kiến.
Như đã tóm lược
ở trên, thực phẩm chay nếu có đầy đủ các chất chính cần thiết cho nhu cầu dinh
dưỡng của con người (chất đạm, chất béo,
chất bột, chất xơ, sinh tố và các khoáng chất) mà hợp vị thì nên khuyến
khích sử dụng. Cho nên ăn chay đúng cách không khác gì ăn mặn về khía cạnh dinh
dưỡng. Ngoài ra nhìn chung thực phẩm chay còn có những ảnh hưởng tĩnh lặng lên
phản ứng con người, ngược với những đồ ăn gốc động vật.
Con người vốn
thuộc loại ăn tạp, nghĩa là ăn đủ thứ, nếu bỗng nhiên chỉ ăn có một loại thực
phẩm chay thì sẽ cũng khó khăn.
Vượt qua khó
khăn này chính là một nỗ lực tu hành, gạt bỏ những trói buộc của thân khẩu ý.
Tuy nhiên, khi đã ăn chay mà còn bày vẽ vọng tưởng, nào là giò, chả, cá, thịt,
thì tinh thần này lại làm cho con người bị trói buộc mà giảm mất ý nghĩa của sự
chọn lựa ăn chay.
Nhìn ra như vậy người cư sĩ Phật giáo sẽ chọn được cho mình một thái độ thích hợp đối với vấn đề ăn chay trên con đường tìm đến thân tâm an lạc.
Một cách dung dị và thực tế, có thể nói ăn chay là một phương tiện tu
hành hữu ích...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét