Cà phê
là một trong những món ẩm thực được du nhập theo sự có mặt của người Pháp vào
Việt Nam. Và cũng giống như phở, cà phê bắt đầu len lỏi và đi sâu bám rễ vào cuộc
sống người dân Hà thành từ những gánh hàng rong. Thủa ban đầu (vào cuối thế kỷ XIX) cà phê là thức uống
chỉ dành cho người Pháp và châu Âu ở Việt Nam. Nhưng đến đầu thế kỷ XX, cà phê
đã được “xã hội hóa” và trở thành đồ
uống dành cho giới tư sản và tiểu tư sản (nhất
là giới trí thức cấp tiến) ở thành thị. Các tầng lớp này có thể tìm uống cà
phê từ các gánh cà phê dạo quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm.
Khi đó
cà phê được bán cùng với nước chanh, nước vối đặt trên những bộ gánh cải biên từ
gánh bán phở, mì vằn thắn. Cà phê thường được pha sẵn trong chai, hâm nóng và
pha thêm đường rồi rót ra chén cho thực khách tùy theo sở thích và thời tiết.
Dưới đây xin giới thiệu một vài hình ảnh (do bố con Người viết Sử sưu tầm và lưu trữ) về thú thưởng thức cà phê ở Hà Nội thời thuộc Pháp:
Kiốt
giải khát bên bờ Hồ Gươm: Trong thời kỳ tạm chiếm 1947-1954, Hà Nội
không còn vẻ kiêu kỳ và quý tộc nữa nên thú uống cà phê cũng đã trở nên
“dân dã” hơn với người dân Hà thành.
Hàng
cà phê rong Hà Nội: Trong bức ảnh này có thể thấy rõ Đền Ngọc Sơn, cầu
Thê Húc cùng gánh cà phê đặt ngay trên Bờ Hồ, nơi trái tim của Hà Nội.
Khách có thể vừa uống cà phê bên vỉa hè, trong vườn hoa (mới được xây
dựng) vừa ngắm cảnh Hồ Gươm thơ mộng và đôi khi cũng sẽ gặp những tà áo
dài thanh lịch lướt qua.
Tiệm
cà phê bên Hồ Gươm: Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, người Pháp
đã biến Hồ Gươm thành một lẵng hoa quý tộc giữa lòng thành phố mà những
tiệm cà phê nhỏ xen giữa các vườn hoa mới trồng như những con búp bê
nhỏ trong lẵng hoa của các tiểu thư đài các châu Âu.
Cà
phê Hà Nội năm 1902: Đây là 1 trong những tiệm cà phê lớn đầu tiên ở HN
đã được sửa sang nâng cấp để phục vụ cho nhiều du khách, thương gia từ
các nước trên thế giới đến Hà Nội dự hội chợ thương mại quốc tế tại khu
Đấu xảo (nay là khu Cung văn hóa Hữu nghị). Các tiệm cà phê này tập
trung nhiều ở phố Hàng Khảm (nay là phố Tràng Thi) với các thương hiệu
nổi tiếng như Café du Commerce, Café de Paris, Café Albin, Café de la
Place, Café Block và Café de Marseille.
Tiệm
cà phê Phố Tràng Tiền (Paul Bert): Một trong những tiệm cà phê cùng với
khách sạn tồn tại lâu nhất ở Hà Nội với một phong cách uống bên vỉa hè
“rất châu Âu” mà ngày nay lại bị gọi là cà phê “bình dân”.
Tụ
tập và uống cà phê trên sảnh Nhà hát Bờ Hồ: Tiệm cà phê ngay ở sảnh của
Nhà hát nhạc kịch châu Âu đầu tiên ở Hà Nội – Hội hiếu nhạc Hà Nội
(Société Philharmonique d’Hanoi nay là vị trí Nhà hát múa rối Thăng
Long) khiến người ta lầm tưởng như đang đứng ở giữa Paris cuối thế kỷ
XIX.
Bài này tôi dùng nhiều nguồn tư liệu và được dẫn giải có đường link minh chứngđi kèm (chữ đổi màu dấu bàn tay tên công trình).
Theo Warres Smith trong cuốn sách nổi tiếng
của ông nghiên cứu về dân châu Âu ở Viễn Đông xuất bản năm 1900
“European Settlements in the Far East”, “Dân số Hà Nội vào năm 1897 là
102.700 người, trong đó có 950 người châu Âu, 100.000 người An Nam,
1.697 người Trung Hoa, và 42 người Ấn Độ”. Mô tả chi tiết về Hà Nội lúc
đó, Warres Smith viết:
“Hà Nội thủ đô của Bắc Kỳ, và nay là thủ
phủ của chính quyền Đông Dương, tọa lạc trên sông Cái, hay sông Hồng,
cách cửa sông gần 180km. Thành phố được xây dựng gần con sông, ở đây
chiều ngang sông rộng gần đến một dặm, và nhờ các hồ nước và cây cối rải
rác, nó phô bày một vẻ đẹp khá ngoạn mục. Thành cổ chiếm giữ điểm cao
nhất và được bao quanh bởi một bức tường bằng gạch cao gần 3,7m và một
hào nước. Nó gồm các doanh trại dành cho binh sĩ, kho vũ khí, đạn dược,
v.v… và một ngôi chùa hoàng gia nằm bên trong tường thành. Phố cổ nằm ở
giữa tòa thành và sông, và các đường phố của nó có một dáng vẻ khác lạ
nhờ kiến trúc độc đáo của các ngôi nhà..."
Những địa danh du lịch có tiếng của Hà Nội hiện
nay như Nhà Kèn, Nhà Hát Lớn, nhà tù Hoả Lò, Ga Hàng Cỏ, Cầu Long Biên,
Nhà thờ lớn Hà Nội, Chợ Đồng Xuân… đều là những di sản có giá trị vật
thể bên cạnh các giá trị văn hóa phi vật thể mang dấu ấn văn hóa Pháp góp phần làm nên một bản sắc một Hà Nội như hiện đại.
Không thể hiểu được bản sắc Hà Nội, nếu
không nói đến những nét văn hóa – văn minh Pháp còn đọng lại ở đời sống
đô thị vùng đất này.
Bắc bộ phủ - Nay là Nhà khách Chính phủ (12 phố Ngô Quyền, Hà Nội)
Tòa nhà được xây dựng vào năm 1918, là một công trình tiêu biểu của
phong cách kiến trúc cổ điển Pháp, với tổ hợp mặt bằng, mặt đứng rất cân
xứng cùng với những chi tiết kiến trúc thuần túy châu Âu.
Tòa nhà được khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1906, do
kiến trúc sư Auguste Henri Vildieu và Charles Lichtenfelder thiết kế, mang đậm nét kiến trúc Phục hưng Ý.
Tòa nhà là một trong những dinh thự lớn nhất được Pháp xây ở Đông
Dương gồm 30 phòng, mỗi phòng có một phong cách trang trí khác nhau.
Mặc dù được xây dựng vào thời Pháp thuộc
nhưng tòa nhà này lại có kiến trúc phương Đông với hệ mái ngói nhiều
lớp kiểu, đặc biệt là mái lớn ở khối trung tâm mặt đứng chính cùng với
lớp mái phân tầng, che cửa sổ và mái tiền sảnh. Do có kiến trúc độc đáo
với nhiều mái nên công trình này còn được gọi là "tòa nhà trăm mái".
Tòa nhà do kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard thiết kế năm 1924, khởi công xây dựng năm 1925 và hoàn thành năm 1928 theo Đồ án Quy hoạch chi tiết khu trung tâm hành chính, chính trị Đông Dương. Ban đầu, đây là trụ sở của Sở Tài chính Đông Dương. Ngày 3/10/1945, tòa nhà được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm trụ sở của Bộ Ngoại giao cho đến nay.
Do các kiến trúc sư C.Batteur và E.Hébrard thiết kế năm 1925 có thể
được coi là một đại diện lớn của phong cách Kiến trúc Đông Dương, một
phong cách nỗ lực kết hợp các giá trị của nền kiến trúc Pháp với các giá
trị kiến trúc bản địa.
Công trình được khởi công năm 1926 và hoàn thành năm 1932 trên khu
đất phía sau Nhà hát lớn, chạy dọc theo bờ đê sông Hồng và là điểm kết
thúc của tuyến phố Trần Quang Khải ngày nay, một vị trí có thể tạo ra
điểm nhấn kiến trúc cho tuyến đường bờ đê.
Năm 1901, Nhà hát Lớn Hà Nội được khởi công xây dựng và khánh thành năm 1911. Tuyệt tác nghệ thuật này được thiết kế theo mô hình nhà hát Opéra
Garnier ở Paris. Vì thế, Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội mang đậm dấu ấn
kiến trúc châu Âu cổ điển với sự hoàn hảo đến từng chi tiết, đem lại một
không gian nghệ thuật hàn lâm, sang trọng bậc nhất Đông Dương thời bấy
giờ.
Nhà thờ Lớn được mệnh danh là nhà thờ có thiết kế kiến trúc đẹp nhất tại
Hà Nội. Nhà thờ được xây dựng từ thời Pháp thuộc, là công trình tiêu
biểu cho phong cách Gothic Châu Âu, mô phỏng theo kiến trúc nhà thờ Đức
Bà Paris. Chiều rộng 21m, chiều dài 65m, có 2 tháp chuông cao gần 32m và
được cố định bằng những trụ đá lớn.
Trường Đại học Đông dương - Nay là trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN (19 phố Lê Thánh Tông, Hà Nội)
Trường Đại học Đông Dương, nay là một phần của Đại học Quốc gia Hà Nội, có kiến trúc mang phong cách Đông Dương, kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và phương Đông.Công
trình này được thiết kế bởi kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard, và
nổi bật với sự hài hòa giữa các yếu tố kiến trúc cổ điển Pháp và các chi
tiết trang trí mang đậm nét Á Đông.
Bưu điện Hà Nội (Bờ Hồ)
Công trình này mang phong
cách kiến trúc Pháp cổ điển kết hợp với Art Deco, bao gồm nhiều tòa nhà
nằm trên các phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thạch và Đinh Lễ.
Tòa
án nhân dân tối cao (Palais des Justices) là công trình kiến trúc tiêu
biểu cho phong cách kiến trúc Pháp, do kiến trúc sư A.Henri
Vildieu thiết kế năm 1906, được xây dựng trên một khu đất rộng, giới hạn
bởi 4 tuyến phố, trong đó có hai đại lộ lớn lúc bấy giờ là Boulevard
Carreau (phố Lý Thường Kiệt), Boulevard Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và
hai điểm giới hạn tuyến phố Rue Jean Soler (phố Thợ Nhuộm), Rue Lambert
(phố Dã Tượng). Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: cổng, sân, đường
đi, tòa kiến trúc chính và các công trình phụ trợ.
Khách sạn Grand Métropole Hotel - Nay là KS Sofitel Legend Metropole Hanoi (15 phố Ngô Quyền, Hà Nội).
Được xây dựng năm 1901 bởi 2 nhà đầu tư người Pháp, Sofitel Legend
Metropole Hanoi là khách sạn 5 sao đầu tiên và đồng thời là khách sạn
lâu đời nhất ở Hà Nội. Khách sạn mang đậm phong cách kiến trúc Pháp thuộc địa, với thiết kế tinh tế và sang trọng
Cầu (Pont de) Paul Doumer - Nay là cầu Long Biên
Cầu được xây dựng từ
năm 1898 đến 1902, hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1903. Cầu được làm
hoàn toàn bằng thép, với 19 nhịp dầm thép và 20 trụ cao, tạo nên một tổng thể
vững chãi và hài hòa.
Cầu mang phong cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh
tế, và được ví như "Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.Cầu mang phong
cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh tế, và được ví như
"Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.
Trong các bản vẽ thiết kế cầu Long Biên của Daydé & Pillé hiện được
lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I có các chữ ký gốc của các kỹ sư của
Daydé & Pillé và chữ ký gốc phê duyệt bản vẽ của Toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer, không có chữ ký nào là của Eiffel Do vậy, Eiffel và công ty
của ông không phải là tác giả thiết kế và cũng không tham gia xây dựng cầu Long
Biên.
Như
lời ngài GS.TS Hồ Sỹ Quý: Nói đến
bản sắc Hà Nội, do vậy, cần thiết phải nói đến sự pha trộn hài hòa, sự đan xen
khó tách biệt, sự thẩm thấu tưởng như khiên cưỡng nhưng qua thời gian lại trở
thành phù hợp… giữa những nét “kinh điển, hoa lệ” của châu Âu với những giá trị
lịch sử đã được bảo tồn qua năm tháng của con người và văn hóa Hà Nội.
Văn hóa – văn minh Pháp một thành phần
đáng kể của bản sắc Hà Nội. Thậm chí trong một chừng mực nhất định còn là hồn
cốt của một đô thị có lịch sử hơn nửa thế kỷ được xây dựng và trực tiếp “sống”
với văn hóa – văn minh Pháp.
Đi du lịch không ai muốn gặp rủi ro, nhưng trong tình huống bất ngờ cũng khó tránh khỏi. Ta cứ nên nắm được một vài kỹ năng để phòng tránh.
Theo
các chuyên gia hàng hải, tai nạn tàu thuyền bất ngờ dù ít nhưng vẫn có thể xảy
ra. Dưới
đây là 6 lưu ý mọi người cần biết để bảo toàn sự sống khi tàu du lịch gặp nạn.
Theo
CNTraveler, đầu tiên
du khách cần nắm rõ nơi "tập hợp khẩn cấp" trên tàu và ghi
nhớ ít nhất 2 lối đi tới đây, bao gồm cả đường chính và đường dự phòng,
đề phòng trường hợp 1 trong 2 bị chặn.
Đa
phần các tàu thuyền ngày nay đều được trang bị đầy đủ các thiết bị an toàn như
áo phao, thuyền cứu sinh, radar, còi báo động,... song nhiều người vẫn thiệt
mạng vì không biết sử dụng hoặc không biết ở đâu. Vì vậy, du khách cũng cần biết rõ vị trí
để áo phao, búa phá kính,... ngay từ khi bước lên tàu.
Thứ hai, nếu đi cùng trẻ em hoặc người thân,
hãy lên trước một kế hoạch rõ ràng cho cả gia đình. Các thành viên cần biết vị
trí để thiết bị cứu sinh và nắm được rằng nếu bị lạc nhau khi tàu gặp sự cố,
phải tự đến ngay nơi tập hợp.
Thứ ba, trong mọi tình huống, hãy tin vào bản
năng sinh tồn của bản thân và phối hợp chặt chẽ với hướng dẫn của thủy thủ
đoàn.
"Hãy luôn lắng nghe những gì thủy thủ đoàn
nói nhưng hãy lưu ý rằng, trong những tình huống bất ngờ họ cũng có thể mắc sai
lầm", Kurt Heinz, Trưởng phòng Cứu hộ và An toàn cháy nổ thuộc Lực
lượng Tuần duyên Mỹ, cho biết.
Ông
Heinz cũng nhấn mạnh, du khách nên "bình
tĩnh, đặt câu hỏi và làm theo trực giác mách bảo. Đừng hoảng sợ và mất bình
tĩnh ngay sau khi nghe thông báo nguy hiểm được thủy thủ đoàn phát ra".
Thứ tư, nếu tàu bắt đầu có dấu hiệu bị
nghiêng sang một bên, hãy cố gắng đừng hoảng loạn. Bởi ngay cả khi một bên tàu
chìm hẳn xuống thì thuyền cứu sinh vẫn có thể hạ xuống được. Thủy thủ đoàn sẽ
chỉ hướng an toàn để bạn di chuyển.
Thứ năm, ngoài thuyền cứu sinh, tàu còn có bè
cứu sinh (life raft). Khi cần thiết, thủy thủ đoàn sẽ sử dụng tới bè cứu
sinh.
Cuối cùng, du khách không nên tự ý nhảy khỏi
tàu, trừ khi không còn lựa chọn khác bởi hành động này tiềm ẩn nguy cơ bị quạt
tàu chém trúng, va vào thuyền cứu hoặc bị hạ thân nhiệt do nước lạnh. Đây là giải
pháp chỉ dành cho tình huống sinh tử.
"Nếu
buộc phải rời tàu, điều tiên quyết là giữ bình tĩnh. Người nào giữ được sự bình
tĩnh trong những phút đầu tiên, người đó nắm tới 70% cơ hội sống sót",
Cat Bigney, chuyên gia sinh tồn người Mỹ, nhấn mạnh.
Theo
các chuyên gia hàng hải, khi xuống nước, càng vùng vẫy, cơ thể càng mất nhiệt
nhanh. Thay vào đó, người bị nạn nên cuộn
người, gập đầu gối vào sát ngực để giảm thất thoát nhiệt vùng ngực và bụng.
Trường hợp có nhiều người, nên tụ lại, ôm nhau giữ ấm, tuyệt đối không được
buộc dây cố định giữa các nạn nhân.