Bài
viết của thiền sư Thích Hạnh Tuấn. Quảng Trí dịch
Để tìm
ra ý nghĩa của cuộc sống, ta cần phải quay lại tìm hiểu những học thuyết về
thời gian đã được giải thích trong kinh điển thời kỳ đầu của Phật giáo Nguyên
thủy cho đến giai đoạn phát triển mạnh nhất của Phật giáo Đại thừa. Trong bài
viết này, tôi khảo sát về khái niệm thời gian trong đạo Phật, để từ đó tìm ra ý
nghĩa của cuộc sống.
“Thời gian” trong Phật giáo Nguyên thủy
Ngay sau
khi giác ngộ, giáo lý đầu tiên mà Đức Phật Thích Ca thuyết giảng là giáo lý Tứ
diệu đế. Khỏi cần phải nói, tất cả chúng ta đều biết chân lý đầu tiên trong bốn
chân lý này là “Cuộc sống là khổ đau”. Sở dĩ như thế là vì tất cả mọi thứ đều
vô thường (anitya). Mọi pháp (dharma) đều do duyên mà sinh khởi, chúng được
kết hợp bởi các yếu tố khác nhau. Tất cả các pháp đều có bốn đặc tính, đó là:
thành (jāti), trụ (sthiti), hoại (jarā), vô thường (anitya). Theo ngài Thế Thân thì bốn đặc tính
này là những đặc tính cơ bản của vạn pháp. Bốn đặc tính này đã đưa đến sự phát
sinh tất cả các luận thuyết của Phật giáo Nguyên thủy.
Khái
niệm thời gian được diễn tả trong trường phái Phật giáo Nguyên thủy bằng thuật
ngữ ‘samaya’, bao hàm cả ý nghĩa về ‘điều kiện’ và ‘thời
gian’. Trong số nhiều luận giải, luận giải đề cập thường xuyên nhất đến vấn đề
thời gian là quyển chú giải về bộ Pháp tụ (Dhammasaṅgani) của ngài Buddhaghosa
(Phật Đà Da Xá). Ở đấy, khái niệm ‘samaya’ được chia làm 5 loại(2) như sau:
1. Kāla (thời gian): Miêu tả sự tiếp nối của
một hoàn cảnh, như thể là thời gian của sự lạnh lẽo hay sự đau ốm… Từ này lại
được phân ra làm 9 loại: a. Sát-na tâm (citta-kara);
b. Pháp (dhamma) của các sinh vật, ký ức của pháp, còn
có thể hiểu là pháp ở trong quá khứ, hiện tại và vị lai; c. Quá trình thứ lớp (dhammapatti) của mọi sự vật hiện tượng, ví dụ như
thời gian khi những hạt giống nảy mầm; d. Sự xuất hiện của mọi thứ (dhamma-lakkhaṇa), ví dụ như thời gian được sinh ra hay
là thời gian của tuổi già; e. Thời gian của sự nhận lãnh (dhammakicca); f. Hành động của con người (sattakicca), ví dụ như thời gian tắm rửa hoặc ăn
cơm; g. Những hình thái của sự vận động(iriyāpatha), ví dụ như đi, đứng, nằm, ngồi; h.
Những diễn tiến của các hiện tượng tự nhiên (candimāsuriyādi,
parivattana), ví dụ
như diễn tiến của buổi sáng, buổi chiều hay là buổi tối và sự tiến triển của
một ngày; i. Những sự phân chia thời gian (kālasaṅdaya), ví dụ như nửa tháng, một tháng, một
năm.
2.
Samūla (nhóm): Một
nhóm trong ý nghĩa của sự tích tụ của pháp (dhamma-puñja), chẳng hạn như cảm giác, được dùng để
từ chối ý niệm của một thực thể cá nhân. Học thuyết nhân quả trong Phật giáo
cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại nhờ vào nhân, duyên, quả. Loại này
được hướng đến việc chống lại quan điểm sai lầm rằng, một thứ có thể sinh khởi
độc lập với những thứ khác, vì thế nó chứng minh cho sự phụ thuộc lẫn nhau của
tất cả các pháp.
3. Hetu (nguyên nhân): Nói lên sự phụ thuộc
lẫn nhau của mọi hiện hữu, ví dụ như để nhìn được thì nhãn thức phải hội đủ
điều kiện.
4. Khaṇa (tính nhất thời): Đề cập
đến sự kết nối tâm thức từ quá khứ đến hiện tại và chỉ nói đến tâm thiện chứ
không nói đến tâm bất thiện. Khi tính nhất thời đang trôi chảy liên tục từ
sát-na này đến sát-na khác trong quá khứ, rất khó để nắm bắt sát-na ấy. Chính
tâm của con người được xem là tồn tại mang tính nhất thời. Tính nhất thời rất
khó nắm bắt, cho nên để cho cái tâm nhất thời ấy khởi lên và giữ được sự tĩnh
tại thì không phải dễ. Loại ‘khaṇa’ này nói đến đạo đức của Phật giáo, bởi vì tính nhất
thời được xem là chỉ liên hệ với tâm thiện. Nguyên tắc đạo đức là dùng sát-na
trong việc thực hành những hạt giống thiện.
5. Samavāya (sự kết hợp): Đề cập đến sự hòa hợp
trong các duyên (paccaya-sāmaggī) và có chủ đích là để chứng minh rằng
tâm thức có sự kết hợp lẫn nhau trong hiện tại. Nói cách khác, nó chỉ ra rằng
thời gian là phụ thuộc và liên hệ lẫn nhau (aññamaṇṇ‘upekkhā). Thời gian được chỉ cho thấy không có
thực thể và không có sự hiện hữu của Đấng Tạo hóa.
Chúng ta
nên biết rằng, mọi thứ đều vô thường vì chúng đều tồn tại trong thời gian hạn
cuộc. Sự tồn tại giới hạn này được đề cập đến trong Phật giáo Nguyên thủy như
là một sát-na (kṣaṇa). Hơn nữa, hầu hết các trường phái của
đạo Phật đã sớm giải thích sự thay đổi của mọi thứ như là sự tiếp nối của những
trạng thái nhất thời (kṣaṇika).Nguồn gốc của khái niệm này dĩ
nhiên được tìm thấy chân lý mà nó đã được chấp nhận bởi một số trường phái Phật
giáo và cũng được tìm thấy bên ngoài đạo Phật, chân lý này cho rằng hai điều
kiện tâm lý không thể cùng tồn tại trong một ý niệm, bởi vì phạm vi của ý thức
là duy nhất(3). Vì thế mà hầu
hết những trường phái Phật giáo ở thời kỳ đầu, chẳng hạn như phái Thuyết nhất
thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), Hóa địa bộ (Mahīśāsaka), Kinh lượng bộ (Kāśyapiva),
Độc tử bộ (Vāsīputria), Tây sơn trụ bộ (Pūrvaśaila) và Đông sơn trụ bộ
(Apasaśaila) luôn cho rằng tất cả mọi thứ đều giả tạm. Khi tất cả mọi thứ hợp
lại đều là vô thường, Đông sơn trụ bộ cho rằng, tất cả mọi thứ đều chỉ kéo dài
trong một sát-na của ý niệm (ekacitakkahaṇika), bởi vì chúng đều vô thường. Có gì khác
nhau giữa một thứ nhanh chóng bị phá hủy và một thứ khác tồn tại trong thời
gian dài?(4) Trước khi đưa ra bất kỳ ý niệm nào về
câu hỏi này, tôi đưa ra một định nghĩa về từ ‘sát-na’ của một vài trường phái
Phật giáo thời kỳ đầu.
“Thời gian” trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa)
Khoảng
thời gian của sát-na là gì? Điều này đã đề cập đến trong đoạn trước rằng,
sát-na là một chốc lát đơn lẻ của ý niệm (ekacitakkahaṇika). Nhưng ý niệm đơn lẻ này
có thể được đo lường là bao lâu? Chúng ta có thể dùng một khoảng thời gian rất
nhỏ là ‘giây’ để đo lường sát-na. Ông Louis de la Vallée Poussin, khi nghiên
cứu kỹ lưỡng về vấn đề này, đã diễn tả rằng: “Trong Phật giáo, cũng giống như
trong tất cả thế giới, từ sát-na được hiểu như là một khoảng thời gian rất
ngắn, nếu chúng ta so sánh với thời gian của ngày, đêm, hoặc giờ. Vì thế, để có
được khoảng thời gian chính xác của một sát-na, chúng ta cần so sánh khoảng
thời gian của nó với khoảng thời gian của một giây. Theo Thuyết nhất thiết hữu
bộ thì 120 kṣaṇa (sát-na) = 1 tatkṣaṇa, 60 tatkṣaṇa = 1 lava, 30 lava = 1
muhūrta. Vì thế, 1 kṣaṇa = 0,013333 giây.(5)
Hơn nữa,
sát-na (kṣaṇa) được trình bày trong
Śārdūlakarṇa có hơi
khác: 16 mimeṣas = 1
kāṣthā, 16
kāṣthās = 1
kalā, 64 kalās = 1 muhūrta. Trong Manu, 18 mimeṣa = 1 kāṣthā, 30 kāṣthās = 1 kala, 30 kalas = 1 muhūrta. Những sự đo lường
này có một vài khác biệt trong một số trường phái như Puranas, Kautiliya và
Bhasakara. Họ đưa ra: 100 truṭis = 1 tatpara, 30 tatparas = 1 nimeṣa, 18 nimeṣas = 1 kāṣthā. Theo Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá,
có 65 sát-na (kṣaṇa) trong khoảng thời gian
một người lực sĩ khỏe mạnh khảy ngón tay.(6)
Sự đo lường của sát-na theo kinh Lượng bộ
Ngài Thế
Thân đã đề cập đến trong Luận
A-tỳ-đạt-ma Câu-xá rằng:
Nếu các duyên hội đủ (pratyaya) thời gian cần thiết để một pháp (dharma) sinh khởi, hay nói đúng hơn, thời gian
để cho một pháp (dharma) diễn tiến từ một nguyên tử này (paramāṇu) đến một nguyên tử khác
(paramāṇu) (7), ngài Thế Thân đã đưa ra một định nghĩa khác về
sát-na, đó là: “Sát-na, hay là chốc lát, là khoảng thời gian mà những đặc tính
đạt được sự hoạt dụng của nó”(8).
Tuy
nhiên, Thuyết nhất thiết hữu bộ xây dựng học thuyết của họ dựa trên một sự khảo
xét khác, và sự khảo xét ấy được xem là gần với giáo lý của đạo Phật hơn. Họ
cho rằng, cùng một người không thể nào trong cùng một lúc mà vừa hoàn thành một
hành động (karma-nghiệp) vừa nhận kết quả mà hành động ấy đưa đến (vipākaphala), khi một hành động là một thứ thuộc về
tương lai, và khi đương sự nhận lấy kết quả từ một hành động gây ra trong quá
khứ. Vì thế, nếu những thứ thuộc quá khứ và tương lai không tồn tại, những hành
động trong quá khứ cũng không hiện hữu, không thể tạo ra quả. Có lẽ phải thú
nhận sự táo bạo của tư tưởng này, trong trường hợp này họ đã rất khéo léo. Bởi
vì đạo Phật không chấp nhận tất cả những thực thể cá nhân, giống như “ātman”
(ngã) ở trong Áo nghĩa thư (Upaniṣads) và “jīva” (linh hồn bất tử) của đạo Ni
Kiền Tử, có thể hoạt động như là sự hỗ trợ cho cấu trúc của sự đáp trả về những
hành vi đã tạo.(9)
Những
trường phái khác không chấp nhận học thuyết về tính giả tạm của mọi sự vật,
hiện tượng. Trong số đó, phái Thượng tọa bộ (Theravādin)
chú ý đến sự thật rằng đại địa, đại dương, vua của tất cả những ngọn núi, nước,
lửa, gió, cỏ, rừng núi, cây cối kéo dài lâu hơn một sát-na đơn lẻ của ý niệm.(10) Thật ra đây là một sự khảo xét khách
quan của Thượng tọa bộ về khoảng cách của thời gian. Họ chỉ xem xét đến khía
cạnh bên ngoài của sự vật mà không chú ý đến những thuộc tính bên trong sự vận
hành của các sự vật.
Đối với
kinh Lượng bộ (Sautrāntika) và Thí dụ bộ (Dārṣṭānika), học thuyết của họ mềm dẻo hơn, họ đã
tiếp cận những điều khó khăn này một cách khéo léo. Về phía Thí dụ bộ thì khẳng
định chắc chắn rằng, những nét đặc trưng của những phức hợp không phải là những
thực thể (dravya) vì chúng được bao gồm ở trong những
phức hợp bị tách rời ra của ý thức (cittaviprayuktasaṃskāra), ví dụ như những khái niệm trừu tượng
không có thực chất bên trong.(11) Hơn
nữa, theo họ thì sát-na là sự trống rỗng của ba thuộc tính: sinh khởi, hủy hoại
và chấm dứt, bởi vì nó sở hữu chúng, nó phải được sinh ra, bị hủy hoại và chấm
dứt tất cả cùng một lúc, điều này rõ ràng là không thể được.(12)
Kinh
lượng bộ (Sautrāntika) thì nhận ra đặc tính về khoảng thời
gian (sthiti), nhưng cũng như Thượng tọa bộ, chỉ là
sự cải biến về điều đó mà thôi (sthityanythātva).(13) Trong những học thuyết của họ có một
lượng nhất định về thuyết tiến hóa, đối nghịch với tính cấp thời thuần túy của
phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin). Xu hướng này lại được tìm thấy trong Thành duy thức luận (Vijñaptimātratāsiddhi),
theo đó thì những đặc tính ấy có thể không chỉ là một sát-na mà còn là một
duyên kéo dài nhất định.(14) Vì
thế, dường như họ đã điều chỉnh quan điểm này từ sự kết hợp giữa ý tưởng của
Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin),
những người cho rằng những đặc tính là tương ứng với sát-na, và ý tưởng đối
nghịch của Chánh lượng bộ (Sammatīya), cho rằng những đặc tính ấy tương ứng
với một duyên kéo dài(15). Thật ra thì dường như Thí dụ bộ (Dārṣṭānika), trường phái đã đem lại giá trị thật cho
sát-na, ví dụ như sự thật của khoảng thời gian, cũng là những người thuộc
thuyết tiến hóa. Họ giữ quan điểm đối lập với Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin),
rằng những sự vật sinh khởi dần dần chứ không phải cùng một lúc(16).
Tuy
nhiên, những học thuyết của các trường phái ấy đều có chung một đặc điểm, đó là
khó hiểu, nhưng lại có vẻ mâu thuẫn với học thuyết trước đây, khi nó cho rằng
không có một sát-na chính xác của sự sinh khởi, cũng không có sát-na chính xác
của sự chấm dứt; vì thế, trong trường hợp của những phức hợp, chỉ có hai lần mà
ở đấy chúng chưa được sinh ra, và ở đấy chúng đã được sinh ra, hoặc là ở đấy
chúng chưa chấm dứt, và ở đấy chúng đã được chấm dứt(17).
Chỉ có
hai trường phái mà sự phán đoán của họ về bản chất của sát-na làm cho chúng tôi
yên tâm, đấy là Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) và Thí
dụ bộ (Dārṣṭānika),
vì họ giữ những quan điểm hoàn toàn đối lập nhau. Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) thì thiếu thận trọng khi lấy chủ nghĩa
sát-na triệt để làm một trong những nền tảng cho học thuyết của họ, điều này đã
đưa đến việc giới thiệu quá nhiều yếu tố trong sát-na, sự nâng lên, sự dày lên,
sự nặng lên của một nguyên tử của thời gian với tất cả những tiềm năng của nó,
tính hiệu quả của khoảng thời gian. Như là một sự phản ứng đối với điều này,
Thí dụ bộ (Dārṣṭānika)
đưa ra vế trước của một phương trình (sát-na = 0), rồi bị kẹt cứng vào nó,
không chịu nhìn thấy thứ gì khác ở trong sát-na, ngoại trừ sự vô dụng của nó,
và điều này đã kéo họ trở lại với quan điểm tiến hóa, một quan điểm có tính
chính thống hơn và phổ thông hơn.(18)
“Thời gian” được diễn tả như là: Quá khứ, hiện tại và tương lai
Một
trong những triết gia Ấn Độ đã diễn tả khái niệm thời gian qua quá khứ, hiện
tại và tương lai là Buddhadeva. Mặc dù vậy, chúng ta không thể tiếp cận với
những công trình nghiên cứu của ông qua ngôn ngữ Sanskrit hoặc tiếng Hoa, hay
những bản dịch tiếng Tây Tạng, mà chỉ có thể tham khảo trong Luận Tỳ bà sa (Vibhāṣā)(19). Đoạn văn sau được trích từ Luận Tỳ bà sa (Vibhāṣā) sẽ cho chúng ta thấy quan điểm thời gian của
Buddhadeva: “Một pháp (dharma) lưu chuyển trong ba thời gian, đó là quá khứ,
hiện tại và tương lai, và nó phụ thuộc lẫn nhau từ những sát-na trước đến
sát-na sau. Giống như cùng một người phụ nữ mà khi thì được gọi là “mẹ”, khi
thì gọi là “con gái”. Do vậy, với sự liên hệ đến trước và sau, khi có thứ gì đó
là trước so với một pháp (dharma) nhưng không có gì phía sau nó thì đấy
là pháp (dharma) thuộc về tương lai, khi có cả trước và
sau, thì đấy là pháp thuộc hiện tại, và khi có một thứ gì đó đằng sau nhưng
không có ở trước thì pháp đó thuộc về quá khứ”.
Những
quan điểm về thời gian của Buddhadeva ở đây được trình bày hơi khác so với trong A-tỳ-đạt-ma Đăng luận(Abhidharmadīpa)
và trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidahrmakośa). A-tỳ-đạt-ma Đăng luận cho rằng, một pháp lưu chuyển trong ba
thời gian, gọi là một pháp hoặc một pháp khác phụ thuộc vào trước hoặc sau.
Pháp này không tùy thuộc vào sự thay đổi của duyên hoặc của bản chất cốt yếu.
Cũng giống như một người phụ nữ được gọi là mẹ hay con gái là tùy thuộc vào
trước và sau.(20) Trong lời luận bàn của Yośamitra về Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidahrmakośa)
thì ghi rằng, thời gian được gọi tên bởi sự phụ thuộc lẫn nhau vào trước và
sau. Điều này có nghĩa là thời gian được gọi là hiện tại, tương lai và quá khứ
như là kết quả của sự phụ thuộc vào trước và sau. Nó được gọi là tương lai
trong sự phụ thuộc vào sự thật rằng hiện tại và quá khứ ở trước nó. Nó được gọi
là hiện tại vì phụ thuộc vào sự thật rằng quá khứ ở phía trước và tương lai ở
phía sau. Và nó được gọi là quá khứ vì phụ thuộc vào sự thật rằng hiện tại hay
tương lai đều đến sau(21).
Cuối
cùng, theo Buddhadeva, quá khứ, tương lai và hiện tại là dựa vào các mối liên
hệ (anyonya) với cả hai phía, cùng một thứ là quá
khứ trong mối liên hệ với những gì đi theo sau nó, và tương lai trong mối liên
hệ với những gì đã diễn ra trước nó. Như chúng ta có thể thấy, bản thân quá
khứ, hiện tại và tương lai không được Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin)
xem như là những vật, mà là những phương thức của sự tồn tại, là những trạng
thái, những thuộc tính, vị thế, những mối liên hệ tương hỗ(22).
Xuyên
suốt lịch sử triết học Ấn Độ, Buddhadeva được những người theo Thuyết nhất
thiết hữu bộ trích dẫn chỉ để bác bỏ học thuyết thô thiển của Vasumitra(23).
“Thời gian” được diễn tả trong Trung luận của ngài Long Thọ
Trong Trung luận (Mādhy-amika), ngài
Long Thọ (Nāgārjuna) không dùng các thuật ngữ quá khứ, hiện tại, tương lai để
khảo xét về ba thời. Thay vì vậy, Ngài dùng 3 mối liên hệ thời gian, đó là ‘sớm
hơn’, ‘muộn hơn’ và ‘cùng lúc với’. Quả thực Ngài cố gắng diễn tả rằng, sản
phẩm của những thứ cụ thể là không thể có, bởi vì nó không thể xuất hiện trong
bất cứ phút chốc nào cả và tại vì mối liên hệ thời gian giữa những sự kiện
không thể nào thiết lập được. Trong chương 11 của Trung luận (Mādhyamika), ngài
Long Thọ (Nāgārjuna) phát biểu: “Tất cả các pháp đều là không. Tại sao? Tại vì
chúng không sớm hơn, không muộn hơn, cũng không phải cùng lúc như một hiệu ứng.
Khi nó được gọi là ‘sớm hơn’, ‘muộn hơn’ và ‘cùng lúc với’, những sự kiện như
thế là không thể có. Làm sao các sự kiện có thể được tạo ra bởi các nguyên
nhân? Cho rằng một nguyên nhân có trước một kết quả là không đúng. Tại sao? Nếu
một nguyên nhân tồn tại sớm hơn và từ đó mà một kết quả được tạo ra muộn hơn, ở
đó ngay từ đầu đã không có kết quả thì cái gì là nguyên nhân của nó? Nếu một
kết quả có trước một nguyên nhân, thế thì kết quả vốn đã được thiết lập ngay
khi không có nguyên nhân, vậy thì tại sao nó cần đến một nguyên nhân? Nếu một
nguyên nhân và một kết quả tồn tại cùng lúc, ở đó sẽ không có sản phẩm thuộc về
nhân quả. Ví dụ, những cái sừng của con bò được mọc ra cùng lúc; sừng bên trái
và sừng bên phải không phải là nguyên nhân của nhau. Cho nên cái gọi là nguyên
nhân không thể là kết quả của nguyên nhân, bởi vì chúng được tạo ra cùng một
lúc. Vì thế, ba mối quan hệ thời gian giữa nguyên nhân và kết quả là không có
thể đạt được”(24).
Rõ ràng
là sản phẩm thuộc về nhân quả phải được thể hiện trong những mối liên hệ thời
gian nhất định: một nguyên nhân sẽ là sớm hơn, muộn hơn, hoặc là cùng lúc với
một kết quả. Nhưng ngài Long Thọ muốn chỉ ra rằng, thuộc tính trước, sau và
cùng lúc của những khoảnh khắc thời gian đều là không, cho nên chức năng của
sản phẩm nhân quả không thể được thiết lập. Bởi vì nhân quả là không, tất cả
mọi pháp đều không. Bởi vì tất cả mọi thứ đều là những nguyên nhân và kết quả.
Ngài Long Thọ nhắm đến việc chứng minh rằng tất cả mọi pháp đều không. Bởi vì
tất cả đều bị thiếu những bản chất của chính nó, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Đây
chính là học thuyết Duyên Khởi (pratītyasamutpāda) được trình bày trong Trung luận (Mādhyamika) của
ngài Long Thọ.
“Thời gian” được diễn tả trong “Vua Milinda vấn đạo”
Vua Milinda vấn đạo (Milinda-pañha) cho chúng ta thấy có sự tiến bộ rõ
rệt về mối quan tâm đến vấn đề thời gian. Vua Milinda hỏi Tỳ kheo Na Tiên khá
chi tiết về vấn đề này, và được trả lời rằng, có thời gian thuộc về quá khứ,
hiện tại và tương lai. Khi nghiên cứu về khái niệm thời gian trong Vua
Milinda vấn đạo, ông A.B. Keith phát biểu: “Điều này được
giải thích trong ý nghĩa có những sự sắp đặt (saṃkhāra), là quá khứ trong ý nghĩa đang bị chấm dứt sự tồn
tại hoặc là đang bị tan rã, hoặc là hoàn toàn đã thay đổi; đối với chúng thời
gian là không. Nhưng cũng có những duyên mà bây giờ đang tạo ra kết quả; hoặc
ngược lại, những duyên ấy sẽ dẫn đến sự tái lập cá thể, đối với những duyên ấy
thì thời gian là có. Đối với những người chết đi rồi sau đó tái sanh thì có
thời gian, còn đối với những người chết đi mà không còn tái sanh nữa thì không
có thời gian; và với những người hoàn toàn được giải thoát nhờ đạt đến Niết-bàn
(Nirvaṇa) và
chỉ có thân thể của họ bị chết đi thì ở đó thời gian tuyệt nhiên không có”(25).
Hơn nữa,
rõ ràng là không có khả năng tìm ra điểm khởi đầu của thời gian, hoặc là điểm
tột cùng trong quá khứ; điều này được làm rõ thông qua phép loại suy về hạt
giống, trái cây, hạt giống; quả trứng, con gà mái, quả trứng; và cái vòng của
mắt, màu sắc, sự nhìn, sự tiếp xúc, cảm giác, sự mong muốn, hành động và những
kết quả của hành động, và một con mắt trong sự sinh ra ở tương lai. Cuối cùng,
Tỳ kheo Na Tiên nhấn mạnh khi phản đối ý kiến của vua cho rằng, có thể có sự
gián đoạn giữa hiện tại và quá khứ, và tương lai thì tiếp diễn không ngừng.
Điều đó không thể có được, quá khứ đã chuyển tiếp đến hiện tại và hiện tại
chuyển tiếp đến tương lai(26).
A.B.
Keith tin rằng, những ý tưởng trong Vua
Milinda vấn đạo xuất hiện dưới một hình thức khác ở trong luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa).
Những người theo Nhất thiết hữu bộ vẫn vững tin với việc duy trì sự tồn tại của
mọi thứ trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong khi những người theo Phân
biệt thuyết bộ (Vibhajyavādins) thì phân biệt phương thức bình thường của chúng
giữa: 1. Những yếu tố hiện tại và những gì trong quá khứ chưa tạo ra quả, những
thứ đó là hiện hữu; và 2. Những yếu tố tương lai và những thứ trong quá khứ đã
tạo ra quả, những thứ đó là không hiện hữu.(27)
“Thời gian” được diễn tả trong kinh điển Đại thừa
Thời
gian được diễn tả trong kinh điển Đại thừa (Mahāyana) có thể xem xét từ quan điểm về ba
thời: quá khứ, hiện tại và tương lai đối với những kiếp của thời gian trong một
hệ thế giới. Quan điểm này được xem là đặc biệt trong Tam tạng kinh điển bằng
chữ Hán. Lewis R. Lancaster cho rằng, trong những kinh điển Đại thừa ở thời kỳ
đầu, khi bàn về thời gian (adhvan) người ta không đề cập đến khái niệm
này ở dạng số ít mà chỉ ở dạng số nhiều (ba thời: quá khứ, hiện tại và tương
lai): “Vấn đề ba thời đã khiến nhiều học giả Phật giáo bế tắc một thời gian dài
trước khi có sự thăng tiến trong kinh điển Đại thừa và những trường phái Đại
thừa, như những người theo thuyết Thí dụ bộ (Dārṣṭānika) đã phát
biểu: “Ba thời hiện hữu và thường còn trong khi những thực thể do duyên sinh và
biến chuyển qua ba thời thì vô thường”. Họ đã diễn tả quan điểm của họ bằng
cách đưa ra phép loại suy về ba căn nhà liền kề nhau. Từ căn nhà thứ nhất một
người xuất hiện và đi qua căn nhà thứ hai, có nghĩa là người đó đã từ bỏ tương
lai và đi vào hiện tại, rồi người đó đi từ căn nhà thứ hai sang căn nhà thứ ba,
có nghĩa là anh ta đã đi từ hiện tại đến quá khứ. Người ấy là vô thường và là
nhân tố chuyển đổi, trong khi ba căn nhà thời gian thì cố định và luôn sẵn sàng
đón nhận dòng chảy liên tục của những thứ vô thường(28).
Rõ ràng
thời gian được trình bày trong kinh điển Đại thừa khó hiểu hơn trong Phật giáo
Nguyên thủy. Kinh điển Đại thừa chỉ đơn thuần phát biểu về những gì đã được
hiểu và được Đức Phật thừa nhận(29), mà không trình bày như một vấn đề để được xác
chứng hay là bác bỏ những khái niệm về thời gian trong Phật giáo Nguyên thủy,
chỉ là lời phát biểu về thời gian là gì. Đức Phật, một đấng Giác ngộ, Ngài biết
tất cả mọi vấn đề, với năng lực siêu nhiên đã được phát triển thông qua thiền định (samādhi), đối với vấn đề này Ngài có thể nhìn
xuyên suốt và hiểu rõ bản chất cũng như cốt tủy của ba thời(30).
Khi khái
niệm ba thời được nhìn theo cách đặc biệt này, chúng được xem như là bình đẳng,
không phân biệt, không chia cắt. Những thời gian ấy không đối chọi với nhau,
bởi vì ở đó không có thứ gì trong hiện tại là khác hay tách biệt với tương lai.
Đây là trường hợp mà trong các kinh thường diễn tả, đối với những người thiếu
sự hiểu biết, ba sự phân chia về thời gian, ba dấu hiệu đặc trưng của thời gian
đều bị giới hạn trong trần thế này; nhưng ở một mức độ cao hơn, mức độ siêu
việt, những dấu hiệu ấy tỏ ra là một sự ảo tưởng. Vì thế, Đức Phật dạy rằng, ba
thời chỉ sở hữu một dấu hiệu, dấu hiệu của sự thiếu các đặc tính để phân biệt.(31)
Trong Đại trí độ luận,
luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa (prajñā-pāramitā) do Ngài Cưu Ma La Thập biên
soạn, phát biểu rằng, những ai không có Chánh biến tri sẽ gặp chướng ngại khi
họ cố gắng có được sự nhận thức về ba thời.(32) Nó
vượt ra ngoài khả năng của người bình thường. Hơn nữa, trong kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra) chỉ ra rằng, vũ
trụ của chúng ta là một trong số hàng ngàn vũ trụ của các hệ thế giới. Tất cả
những thế giới này không có chung một cấp độ, cho nên thế giới mà chúng ta đang
sống được bao trùm bên trong một cảnh giới khác, nếu nó mở rộng ra thì vượt ra
ngoài những gì chúng ta có thể hiểu được. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả: “Nếu chúng ta thêm vào tất cả
những ngày và đêm của những hệ thế giới cho đến tổng số là một kiếp (kalpa), vô
số năm này bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Và nếu
người nào sống ở cảnh giới của Phật A Di Đà (Amitābha) một kiếp thì bằng một
ngày một đêm ở cõi Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasaṃhata), và một kiếp (kalpa) ở cõi Kim Cang Tát Đỏa thì
bằng một ngày một đêm ở cõi Pháp Tướng (Dharmaketu), và cứ như vậy cho đến hàng
trăm, hàng triệu cảnh giới chư Phật”(33).
Và thế
là các kinh lại một lần nữa đưa chúng ta trở về với sự trống rỗng của thời
gian, cũng như là sự khó hiểu của nó, sự vắng mặt những dấu hiệu nhận dạng. Kinh Hoa Nghiêm còn chỉ ra rằng, khi Đức Phật nhập vào
chánh định (samādhi) thì Ngài thấy tất cả ba thời đều bằng nhau và như nhau(34).
Ở đây,
thời gian được hiểu như là toàn bộ sự kéo dài của thực tại. Nó không phải là
một khoảng thời gian ngắn như là sát-na (kṣaṇa) đã được diễn tả trong Phật giáo Nguyên thủy
(Theravāda) và trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá. Vì thế, khái niệm thời gian ở
trong kinh điển Đại thừa có thể được định hình chỉ khi sự thay đổi trong thực
tế hay là sự tiếp nối của những sự kiện được diễn ra trong quá khứ, hiện tại và
tương lai. Nếu vắng mặt sự thay đổi trong ý nghĩa về tính tạm thời thì ở đó sẽ
không có khái niệm thời gian. Thời gian trong ý nghĩa này là một khái niệm phát
sinh. Ở cấp độ thực tại tuyệt đối (tathatā), không có sự thay đổi nào được thừa
nhận, dù là trong Đại
trí độ luận, luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa của ngài Cưu Ma La Thập
(Kumārajīva) hay là trong Cứu cánh nhất thừa luận(Uttaratantra)
của ngài Di Lặc (Maitreya). Do vậy, nếu thời gian thiếu những dấu hiệu nhận
dạng, làm sao chúng ta có thể nói có thời gian? Khi Lancaster nói rằng: “Nó là thực tại toàn thể,
là vũ trụ đích thực”, ông ấy xem thời gian như là toàn bộ sự kéo dài của thực
tại(35).
Sát-na liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống
Thông
qua những nghiên cứu về một vài nguồn tư liệu chính yếu bàn về khái niệm thời
gian trong Phật giáo, chúng ta có thể có được sự hiểu biết căn bản về khái niệm
sát-na (kṣaṇa). Trong Phật giáo Nguyên
thủy, sát-na được diễn tả như là ‘duyên’ và ‘thời gian’ hay là ‘tính nhất thời
(khaṇa)’. Như
thế, khái niệm về thời gian trong Phật giáo Nguyên thủy chỉ ra rằng, mạng sống
rất là ngắn ngủi. Vì vậy, hành giả phải luôn ý thức về mỗi sát-na để thực hành
những hạnh lành. Hành
giả cần phải dành nhiều thời gian cho việc thực tập giáo pháp để có được lợi
ích cho tự thân và tha nhân. Hơn nữa, mặc dù sát-na (kṣaṇa) chỉ kéo
dài trong phút chốc (ekacitakkhaṇitka), nhưng những thiện nghiệp mà chúng ta
đã tạo sẽ đem đến những quả lành trong tương lai gần, nếu chúng ta thực hành
giáo pháp (dhamma) liên tục từ sát-na này đến sát-na khác.
Theo như
trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa)
thì một sát-na là bằng 0,01333 giây, còn trong Luận A-tỳ-đàm (Abhidhārmika) thì
khoảng thời gian mà một lực sĩ khảy ngón tay là bằng 65 sát-na (kṣaṇa). Đây là khoảng thời gian
tối thiểu cần thiết đối với những đặc điểm của sát-na để có thể đạt đến những
hoạt dụng của nó. Nếu không có khoảng thời gian tối thiểu cần thiết này thì các
pháp (dharmas) không bao giờ được hình thành. Từ những quan điểm của
Buddhadeva, thời gian được diễn tả thông qua quá khứ, hiện tại và tương lai đối
với một pháp, tạo thành một vòng tròn. Đến ngài Long Thọ (Nāgājuna) thì thời
gian được xem như là một pháp (dharma). Bởi vì tất cả các pháp, chúng phụ thuộc
lẫn nhau, đều không có tự tánh, chúng là không, cho nên thời gian cũng là
không. Chính vì lẽ này, chúng ta không thể tìm thấy điểm khởi đầu hay là điểm
kết thúc của nó. Hơn nữa, trong kinh điển Đại thừa, chúng ta không thể nào nhận
ra được thời gian vì nó vượt lên trên khả năng nhận biết thuộc ý thức của chúng
ta. Do nó thiếu những đặc tính để phân biệt nên chúng ta không thể nào thông
suốt và thấu hiểu về ba thời, chỉ có Đức Phật, đấng Chánh biến tri, người có
được năng lực siêu phàm thông qua thiền định (samādhi) mới thấu hiểu được.
Cuối cùng, từ chính những kinh
nghiệm cá nhân của chúng tôi và sự hiểu biết thông qua việc tìm hiểu về khái
niệm thời gian trong kinh điển Phật giáo, chúng tôi hiểu ra rằng, sát-na (kṣaṇa) là một khoảng thời gian rất
ngắn, thậm chí ngắn hơn cả khoảng thời gian mà một ý niệm sinh khởi. Tuy nhiên,
nó là khoảng thời gian cần thiết để cho các pháp vận hành. Rõ ràng là dù cho
mạng sống của chúng ta thọ hay yểu thì đều
được cấu thành bởi những sát-na đơn lẻ. Bởi vì chỉ có sát-na hiện tại là có
thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy sống
trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm. Làm được như thế thì trong
tương lai, nhiều điều tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ đến với chúng ta.
**********
Phần trong ngoặc () là chú thích cho phần tiếng Anh nên tôi không đưa vào đây. (TuanLong)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét