bấm
Ctrt + F để tìm từ cần tìm
AE
lock (Automatic Exposure lock): Khoá giá trị lộ sáng
AF
lock (Auto Focus lock): Khoá tiêu cự
AF
assist Lamp (Auto focus assist lamp): Đèn hỗ trợ canh nét tự động
Aperture:
Khẩu
độ hay độ mở ống kính
Aperture
priority: Chụp ưu tiên khẩu độ
(độ mở ống kính)
Auto
Bracketing Exposure: chụp bù trừ mức độ
phơi sáng
Barrel
Distortion
CCD/CMOS
sensor
Chromatic
Aberrations (purple fringing)
DOF
(Depth of field): Vùng ảnh rõ hay độ
sâu ảnh trường
Digital
Zoom: Zoom kỹ thuật số
Effective
Pixels: Điểm ảnh hữu ích
Exposure: Độ phơi sáng
Full
Manual
Sensitivity
(ISO): Độ nhậy sáng
Shutter
Priority: Chụp ưu tiên tốc độ
trập
Storage
card: Thẻ nhớ
-
PCMCIA PC Card
-
Compact Flash Type I
-
Compact Flash Type II
-
SmartMedia
-
Sony MemoryStick
-
Các loại thẻ khác: Secure Digital,
Multimedia Card, Sony MemoryStick Pro.
Types
of metering: Các kiểu đo sáng
Viewfinder: Kính ngắm, Ống ngắm
Optical
viewfinder (Kính ngắm quang học)
Electronic
Viewfinder (LCD Viewfinder): Kính ngắm điện tử
TTL
Optical Viewfinder
White
Balance: Cân bằng trắng
AE
lock (Automatic Exposure lock): Khoá giá trị lộ sáng
Thể
hiện khả năng của máy khoá độ mở ống kính và độ nhậy sáng giúp
cho việc chụp nhiều ảnh khác nhau với cùng một giá trị lộ sáng.
Điều này đặc biệt quan trọng khi chụp toàn cảnh (panorama), các ảnh
nối với nhau phải có cùng một giá trị lộ sáng.
AF
lock ( Auto Focus lock): Khoá tiêu cự
Đây
là tùy chọn (thường gặp trên các máy tự động) cho phép giữ cố định
cự ly canh nét khi chụp ở chế độ tự động
AF
assist Lamp (Auto focus assist lamp): Đèn hỗ trợ canh nét
tự động
Một
số máy ảnh được trang bị đèn hỗ trợ canh nét. Đèn này thường nằm
ngay phía trên ống kính, có tác dụng rọi sáng chủ đề định chụp
trong điều kiện thiếu sáng do đó hỗ trợ hệ thống canh nét của máy
ảnh (Các máy ảnh kỹ thuật số thường gặp khó khăn khi canh nét trong
điều kiện thiếu sáng). Loại đèn này có tầm hoạt động ngắn thường
không vượt quá 4 mét.
Một số máy đắt tiền được trang bị đèn canh nét phát ra tia hồng ngoại thay vì phát ra ánh sáng nhìn thấy được. Các đèn này có tầm hoạt động xa hơn, hỗ trợ canh nét tự động tốt hơn
Một số máy đắt tiền được trang bị đèn canh nét phát ra tia hồng ngoại thay vì phát ra ánh sáng nhìn thấy được. Các đèn này có tầm hoạt động xa hơn, hỗ trợ canh nét tự động tốt hơn
Aperture ( F ): Khẩu độ hay độ mở ống kính
Khẩu
độ là một lỗ hổng trong ống kính thường được hình thành bởi các
lá thép chồng lên nhau, các lá thép này sẽ di động tạo ra độ mở
lớn hay nhỏ cho khẩu độ - nguyên tắc hoạt động này rất giống con
ngươi của mắt người. Khẩu độ mở lớn sẽ cho ánh sáng đi qua ống kính
nhiều hơn và ngược lại.
Giá
trị của độ mở ống kính thường được biểu thị theo 3 cách: f/8, F8,
1:8 (ba cách biểu thị này thể hiện cùng một độ mở). Giá trị này
thực chất là tỉ lệ giữa độ dài tiêu cự của ống kính với đường
kính của khẩu độ mở ra.
f=
độ dài tiêu cự ống kính, A= đường kính của khẩu độ
Trị
số f càng nhỏ thì độ mở của khẩu độ càng lớn. Trên ống kính
thường được in hay khắc giá trị f nhỏ nhất (Độ mở lớn nhất)- giá
trị nhỏ nhất này còn thể hiện độ “nhạy” của ống kính. Trên các
máy thuộc dòng chuyên nghiệp thường có vòng chỉnh khẩu độ. Các máy canh
nét tự động (autofocus) không có vòng chỉnh khẩu độ, độ mở lớn nhỏ
của khẩu độ được điều khiển bằng điện tử , màn hình tinh thể lỏng
LCD sẽ báo cho biết khẩu độ đang mở là bao nhiêu. Khi trị số f tăng
lên một giá trị trong dãy giá trị độ mở ống kính (.. F2.0, F2.8,
F4.0, F5.6, F8.0....) thì lượng ánh sáng đi qua ống kính sẽ giảm đi
một nửa.
Aperture
priority: Chụp ưu tiên khẩu độ
(độ mở ống kính)
Tùy
chọn cho phép người dùng tự lựa chọn độ mở ống kính, tốc độ trập
(shutter speed) sẽ do máy ảnh tính toán sao cho thu được ảnh có độ
phơi sáng(exposure) phù hợp. Tùy chọn này đặc biệt quan trọng khi
người chụp muốn kiểm soát vùng ảnh rõ (DOF: depth of field) hoặc tạo
hiệu ứng đặc biệt (special effect.
Auto
Bracketing Exposure: chụp bù trừ mức
độ phơi sáng
Đây
là thuật ngữ dùng để chỉ chế độ chụp cho phép chụp nhiều ảnh tại
một thời điểm trên cùng một cảnh, mỗi ảnh chỉ khác nhau về độ phơi
sáng. Mức khác biệt về giá trị phơi sáng giữa các ảnh thay đổi từ
0,3 EV (exposure value) đến 2,0 EV. Mức khác biệt này trên đa số máy
đều có thể chọn được. Từ tự động (Auto) ở đây có nghĩa là máy sẽ
tự động chụp 2 hay 3 hoặc 5 ảnh, trên một số máy người dùng còn có
thể tự đặt số lượng ảnh chụp trên một lần bấm máy. Chế độ chụp
này rất hữu dụng khi người chụp không chắc chắn mức độ phơi sáng
nào là phù hợp nhất là khi chụp các cảnh có độ tương phản cao
Trong
3 ảnh trên: ảnh bên trái được chụp ở mức độ quá sáng (overexposure)
các chi tiết ở vùng sáng sẽ bị mờ hoặc không rõ, ảnh ở giữa có
mức độ phơi sáng phù hợp các chi tiết ở vùng tối và vùng sáng đều
rõ nét, ảnh bên phải có mức độ phơi sáng quá tối (underexposure) các
chi tiết ở vùng tối sẽ bị mờ hoặc không rõ nét.
Barrel
Distortion
Đây
là hiện tượng các đường thẳng nằm ở rìa ảnh bị uốn cong ỏ giữa,
nguyên nhân của hiện tượng này nằm ở thiết kế hình cầu của thấu
kính. Hiện tượng này chỉ dễ nhận ra khi chụp ở góc rộng và có các
đường thẳng nằm ở rìa ảnh. Đối với người chụp không chuyên nghiệp
có lẽ không cần quan tâm đến hiện tượng này
CCD/CMOS
sensor
Đây
là bộ cảm biến ánh sáng nằm trong máy ảnh kỹ thuật số có tác
dụng chuyển ánh sáng thu nhận từ môi trường bên ngoài sang tín hiệu
điện tử. CCD bao gồm hàng triệu tế bào quang điện, mỗi tế bào có
tác dụng thu nhận thông tin về từng điểm ảnh (Pixel).
Để
có thể thu được mầu sắc, máy ảnh kỹ thuật số sử dụng bộ lọc mầu
(color filter) trên mỗi tế bào quang điện. Các tín hiệu điện tử thu
được trên mỗi tế bào quang điện sẽ được chuyển đổi thành tín hiệu
kỹ thuật số nhờ bộ chuyển đổi ADC (Analog to digital converter). Vào
thời điểm hiện tại có hai loại bộ cảm biến ánh sáng : CCD (Charged
Couple Device) và CMOS (Complimentary metal-oxide). Giá thành sản xuất CCD
thường đắt hơn so với CMOS, nguyên nhân chủ yếu là do CCD đòi hỏi phải
có dây chuyền sản xuất riêng trong khi có thể sử dụng dây chuyền sản
xuất chip, bảng mạch thông thường để sản xuất CMOS
Chromatic
Aberrations (purple fringing)
Đây
là Hiện tượng xuất hiện viền màu tím xung quanh các vật thể chụp
Hiện
tượng này xảy ra ở hầu hết các máy ảnh bán chuyên nghiệp khi chụp
các cảnh có độ tương phản cao. Nguyên nhân của hiện tượng này do sự
khác biệt về bước sóng của các loại ánh sáng màu do đó thấu kính
trong máy ảnh không có khả năng hội tụ chính xác toàn bộ ánh sáng
chiếu vào lên mặt phẳng tiêu cự. Mức độ nặng nhẹ của hiện tượng
này phụ thuộc vào chất lượng của thấu kính mà cụ thể là mức độ
tán sắc của thấu kính. Để giảm bớt hiện tượng này các máy ảnh
chuyên nghiệp được trang bị thêm một số thấu kính đặc biệt có chỉ
số khúc xạ khác nhau nhằm tạo ra sự hội tụ chính xác lên mặt phẳng
hội tụ (focal plane).
Người
dùng còn có thể khắc phục hiện tượng này bằng phần mềm chỉnh sửa
ảnh (Photoshop.. )
DOF
(Depth of field): Vùng ảnh rõ hay độ
sâu ảnh trường
Mặc
dù chức năng chính của khẩu độ là điều khiển lượng ánh sáng đi qua,
khẩu độ còn được dùng để mở rộng hay giới hạn khu vực hội tụ rõ
nét trong hình ảnh. Cự ly khoảng cách mà các chủ đề hay sự vật
hiện rỡ nét trong ảnh được gọi là vùng ảnh rõ hay chiều sâu ảnh
trường (depth of field).Vùng ảnh rõ này thường nằm 1/3 phía trước tiêu
điểm và 2/3 phía sau tiêu điểm. Khẩu độ đóng càng nhỏ (trị số f
lớn) thì vùng ảnh rõ càng sâu, cảnh trước và sau tiêu điểm sẽ sắc
nét hơn. Khẩu độ mở càng lớn (trị số f nhỏ) thì vùng ảnh rõ càng
cạn, các cảnh phía trước và phía sau tiêu điểm (focus point) sẽ mờ đ
Khi
xem xét hai ảnh trên dễ dàng nhận thấy: ảnh chụp với độ mở ống
kính lớn (f/2.4) thì chỉ có tấm bưu thiếp đầu tiên là rõ nét (hai
tấm phía sau đều mờ), ảnh chụp với độ mở ống kính nhỏ (f/8) hai
tấm bưu thiếp phía sau sẽ rõ nét hơn.
Vùng
ảnh rõ còn phụ thuộc vào:
-
khoảng cách giữa máy ảnh đến cảnh chụp (subject distance), càng gần
thì vùng ảnh rõ càng cạn.
-
độ dài tiêu cự (focal lenth), tiêu cự càng nhỏ thì vùng ảnh rõ càng
sâu. Ảnh chụp bằng ống kính 28mm độ mở ống kính f/5.6 sẽ có vùng
ảnh rõ sâu hơn ảnh chụp bằng ống kính 70mm cùng độ mở ống kính.
Digital
Zoom: Zoom kỹ thuật số
Đây
không phải là zoom thật sự, đây thực chất là việc máy ảnh cắt lấy
phần trung tâm của cảnh rối dùng thuật toán nội suy để tạo ra ảnh,
vì vậy zoom kỹ thuật số làm giảm chất lượng của ảnh bù lại khả
năng zoom của máy được mở rộng.
Effective
Pixels: Điểm ảnh hữu ích
Hầu
hết các nhà sản xuất đều ghi số lượng điểm ảnh có trên bộ cảm
biến ánh sáng để chỉ độ phân giải của máy ảnh.Tuy nhiên độ phân
giải thực phải là số lượng thực sự các pixel ghi nhận hình ảnh
(không phải tất cả các tế bào quang điện có trên bộ cảm biến ánh
sáng làm nhiệm vụ ghi nhận hình ảnh). Effective pixels (tuy không hoàn
toàn chính xác) thường dùng để chỉ độ phân giải thực
Exposure: Độ
phơi sáng
Tự
động điều chỉnh mức độ phơi sáng (Automatic exposure control) là một
trong những đặc tính không thể thiếu được đối với máy ảnh kỹ thuật
số. Máy ảnh sẽ tự động đo cường độ ánh sáng từ đó xác định tốc
độ trập và độ mở ống kính cho phù hợp với chủ đề chụp. Nhờ có
đặc tính này người chụp chỉ còn phải tập trung đến chủ đề định
chụp. Đặc tính này cũng cực kỳ hữu dụng khi chụp các chủ đề động
khi mà thời gian để chuẩn bị lựa chọn chế độ chụp rất ngắn.
Tuy
nhiên trong một số trường hợp nếu chỉ dựa vào chế độ tự động điều
chỉnh mức độ phơi sáng, người chụp sẽ thu được những bức ảnh hoặc
là quá sáng (overexposure) hoặc là quá tối (underexposure). Lúc này
người dùng cần đến tùy chọn cho phép chỉnh giá trị phơi sáng EV
(Exposure value) nhằm tăng giảm mức độ sáng của ảnh chụp. Một trong
những biện pháp nhằm thu được ảnh chụp có độ phơi sáng phù hợp là
chụp cùng lúc 3 ảnh.
Ảnh
đầu tiên có mức độ phơi sáng chuẩn theo như tính toán của máy, ảnh
thứ 2 được tăng mức độ phơi sáng lên một giá trị, ảnh thứ ba được
giảm mức độ phơi sáng xuống một giá trị. Sau đó người chụp sẽ
quyết định ảnh chụp nào có mức độ phơi sáng phù hợp nhất trong 3
ảnh trên. Kiểu chụp này thường được gọi là chụp bù trừ (bracketing).
Mức
độ phơi sáng bị ảnh hưởng hay phụ thuộc vào bốn yếu tố:
·
Cường
độ sáng (Intensity) của ánh sáng hắt vào chủ đề, hay độ sáng
(Luminance) của chủ đề phản chiếu tới máy ảnh.
·
Độ
nhậy sáng ISO.
·
Khoảng
thời gian lộ sáng (điều khiển bằng tốc độ trập).
·
Lượng
sáng cho vào CCD (điều khiển bằng khẩu độ.
Full
Manual
Tùy
chọn cho phép chỉnh cả tốc độ trập và độ mở ống kính (một tùy
chọn không thể thiếu với nhưng người chuyên nghiệp). Người chụp ảnh
có được khả năng kiểm soát hoàn toàn mức độ phơi sáng tạo thuận
lợi tối đa cho việc sáng tạo ảnh. Tùy chọn này thường chỉ có ở
các máy chuyên nghiệp và một số ít máy bán chuyên nghiệp.
Sensitivity
(ISO): Độ nhậy sáng
Đối
với các máy ảnh truyền thống sử dụng film, chỉ số ISO biểu thị độ
nhậy của film (film’s sensitivity), chỉ số ISO lớn thì film có khả năng
nhạy sáng cao do đó sẽ thích hợp cho chụp ở tốc độ trập nhanh hay
trong điều kiện thiếu sáng (low light). Tuy nhiên film có độ nhậy sáng
càng lớn thì càng có xu hướng bị hiện tượng hạt mầu to (grainy).
Đối
với máy ảnh kỹ thuật số, độ nhậy sáng phụ thuộc bộ cảm biến ánh
sáng CCD/CMOS. Khác với máy ảnh dùng film người chụp bị phụ thuộc
vào độ nhậy sáng của film, độ nhậy sáng của máy ảnh kỹ thuật số
có thể chỉnh được. Khả năng chỉnh độ nhậy sáng ngay trên máy cũng
là một ưu thế của máy ảnh kỹ thuật số khi so sánh với máy ảnh
dùng film. Tuy nhiên CCD là thiết bị tương tự (analog) do đó khi tăng độ
nhậy sáng có nghĩa là phải tăng cường khuyếch đại tín hiệu điện tử
đồng nghĩa với việc khuyếch đại các tín hiệu nhiễu, ảnh cũng sẽ
bị nhiễu màu nhiều hơn. Một vài tiến bộ gần đây trong công nghệ sản
xuất chip đã cho phép tăng độ nhậy sáng vượt qua giá trị ISO 400 mà
ít ảnh hưởng đến độ nhiễu màu.
Shutter
Priority: Chụp ưu tiên tốc độ
trập
Tùy
chọn cho phép người dùng tự điều chỉnh tốc độ trập, khẩu độ hay độ
mở ống kính sẽ do máy tính toán nhằm thu được ảnh có độ phơi sáng
phù hợp nhất. Tùy chọn này thường được sử dụng khi muốn tạo hiệu
ứng đặc biệt, ví dụ như ảnh mờ của mặt nước trên sông, hoặc chụp
bắt các cảnh động (hoạt động thể thao..)
Storage
card: Thẻ nhớ
Thẻ
nhớ trong máy ảnh kỹ thuật số thực chất là một thiết bị lưu trữ di
động chứa đựng thông tin về ảnh chụp dưới dạng kỹ thuật số (bit,
bytes). Hầu hết các loại máy ảnh kỹ thuật số đều có thẻ nhớ đi
kèm, chỉ một số ít máy ảnh có tích hợp sẵn bộ nhớ bên trong. Có
rất nhiều loại thẻ nhớ có trên thị trường tuy nhiên chỉ có một số
ít tỏ ra thông dụng.
PCMCIA PC Card
Thẻ
nhớ loại này có kích cỡ, giao tiếp giống hệt thẻ PCMCIA dùng cho
máy tính xách tay do đó có thể cắm trực tiếp vào khe PCMCIA mà không
cần adapter. Chỉ có các máy chuyên nghiệp SLR’s (single-lens reflects)
là sử dụng loại thẻ nhớ này, cho đến thời điểm hiện tại loại thẻ
nhớ này có 3 type: type I, II, III.
Compact Flash Type I
Có
thể nói đây là loại thẻ nhớ thông dụng nhất hiện nay, các máy ảnh
của Nikon và Canon đều sử dụng loại thẻ nhớ này. Ngoài ra có rất
nhiều thiết bị trợ giúp cá nhân (PDA) hỗ trợ định dạng này.
Kích thước thẻ: 43.0 x 36.0 x 3.3 mm
Compact Flash Type II
Điểm
khác biệt duy nhất giữa type I và II là kích cỡ. Type II dầy hơn type
I (5,5 mm so với 3,3 mm). Kích cỡ lớn hơn sẽ cho phép tăng dung lượng
nhớ dễ dàng hơn.
Kích
thước thẻ: 43.0 x 36.0 x 5.5 mm.
SmartMedia
SmartMedia
mỏng hơn khá nhiều khi so với compact flash. Loại card này không có chip
điều khiển nằm sẵn trong thẻ nhớ (khác với Compact flash có sẵn chip
điều khiển) điều này đồng nghĩa với việc trong máy ảnh phải có chip
điều khiển để nhận biết thẻ nhớ. Loại thẻ nhớ này thường thấy
trong các máy ảnh Fujilm, Olympus…
Kích
thước thẻ: 45.0 x 37.0 x 0.76 mm.
Sony MemoryStick
Khi
Sony tung ra loại thẻ nhớ kích cỡ của viên kẹo cao su, không ai ngờ
rằng nó lại trở nên phổ biến như hiện nay. Một trong những điểm yếu
của loại thẻ này là dung lượng lưu trữ. Dung lượng tối đa cho đến
thời điểm hiện tại là 128 MB.
Kích
thước thẻ: 50.0 x 37.0 x 0.76mm
Các loại thẻ khác
Các
loại thẻ ít thông dụng hơn bao gồm: SecureDigital, Multimedia card cho
đến gần đây là MemoryStick pro, XD card..
Types
of metering: Các kiểu đo sáng
Không
phải tất cả các vùng nằm trong chủ đề chụp đều có mức độ quan
trọng như nhau đối với việc tạo nên bức ảnh cũng như quyết định mức
độ phơi sáng của ảnh. Ví dụ như khi chụp phong cảnh, mức độ phơi
sáng của chủ đề chụp ở gần sẽ quan trọng hơn là mức độ phơi sáng
của bầu trời có trong chủ đề chụp. Đây là nguyên nhân các máy ảnh
kỹ thuật số thường cung cấp các tùy chọn về các kiểu đo sáng.
Đây là kiểu đo sáng ngày càng trở nên phổ biến do có độ chính xác
và độ nhậy cao. Chủ đề chụp được chia ra làm nhiều vùng (segment),
mỗi vùng đều được đo sáng riêng biệt, sau đó các thông số đo được
tổng hợp qua đó máy ảnh tính ra mức độ phơi sáng phù hợp nhất cho
chủ đề định chụp.
Đo
sáng ưu tiên trung tâm (Center-weighted):
Đây là kiểu
đo sáng thường gặp. Máy ảnh đo sáng căn cứ theo toàn bộ hình ảnh
thấy được trong kính ngắm nhưng nhấn mạnh vùng ở giữa kính ngắm
(Thường là vùng quan trọng nhất trong chủ đề chụp).
·Đo
sáng điểm (Spot
metering):
Máy ảnh chỉ
đo sáng một vùng rất nhỏ nằm giữa hình ảnh thấy được trong kính
ngắm. Kiểu đo sáng này cho phép nhấn mạnh chỉ một vùng đặc biệt
nằm trong chủ đề chụp thường được sử dụng khi chụp các chủ đề mà
có hậu cảnh quá sáng hoặc quá tối.
TIFF
(Tagged
Image File Format):
Thuật
ngữ chỉ một kiểu định dạng ảnh. Đây là kiểu định dạng ảnh rất
phức tạp tuy nhiên cũng rất linh hoạt. Khi sử dụng định dạng ảnh này
các dữ liệu số về ảnh đều được giữ nguyên không bị mất bởi các
thuật toán “nén ảnh” nhằm làm giảm kích cỡ của file ảnh.
Định
dạng ảnh TIFF không phải là một lựa chọn tốt cho việc lưu trữ ảnh
đặc biệt là lưu trữ trên thẻ nhớ do các file này có kích thước quá
lớn. Với máy ảnh 3 triệu điểm, ảnh chụp ở chế độ TIFF thường có
kích thước lớn hơn 9 MB !.
Viewfinder: Kính ngắm, ống ngắm
Máy
ảnh kỹ thuật số thường được trang bị một trong 3 loại kính ngắm:
quang học, điện tử và loại quang học TTL. Kính ngắm quang học là
loại phổ biến nhất. Vấn đề thường gặp nhất đối với kính ngắm là
khả năng thể hiện chính xác toàn bộ khung hình định chụp (framing).
Một số loại không định khung được chính xác theo chiều dọc hoặc
chiều ngang, một số loại chỉ định khung được chính xác theo tỉ lệ
phần trăm (thường là 80%-90%) khi so sánh với khung hình của ống kính,
đây cũng là một trong những nguyên nhân mà hầu hết các máy ảnh kỹ
thuật số được trang bị màn hình LCD nhằm định khung (framing) được
chính xác hơn.
Optical
viewfinder (Kính
ngắm quang học)
Đây
là loại phổ biến và có cấu trúc đơn giản nhất. Máy ảnh trang bị
loại kính ngắm này đôi khi còn được gọi là “Máy ảnh kính ngắm
thẳng” nhằm phân biệt với các máy SLR chuyên nghiệp. Tất cả các máy
thuộc loại compact đều trang bị kính ngắm kiểu này. Loại kính ngắm
này có cấu trúc đơn giản, dễ chế tạo tuy nhiên do kính ngắm và kính
thu hình nằm ở hai vị trí khác nhau nên không thể gióng khuôn hình
chính xác trên cùng một khu vực, để loại trừ lỗi này trên một số
kính ngắm có các đường kẻ nhằm chỉ thị khung hình thực tế kính thu
hình sẽ chụp (hình trên bên trái).
Electronic
Viewfinder (LCD Viewfinder): Kính ngắm điện tử
Kính
ngắm điện tử thực chất là một màn hình LCD nhỏ hiển thị khung hình
giống hệt với khung hình hiển thị trên màn hình LCD. Kính ngắm loại
này thường có độ chính xác cao hơn và không bị lỗi thị sai.
TTL
Optical Viewfinder
Đây
là loại kính ngắm tốt nhất thường thấy trên các máy ảnh SLR (single
len reflects). Ống ngắm loại này trực tiếp lấy hình trên ống kính thu
hình của máy ảnh thông qua hệ thống gương hoặc lăng kính phản chiếu
do đó hoàn toàn loại trừ lỗi thị sai. Loại kính ngắm này chỉ có
trên các máy ảnh cao cấp do việc chế tạo rất phức tạp và đắt tiền.
White
Balance: Cân bằng trắng
Đây
là thuật ngữ dùng để chỉ hệ thống cân chỉnh mầu sắc cho phù hợp
với loại ánh sáng có trong môi trường. Mắt người luôn luôn tự điều
chỉnh cho phù hợp với kiểu ánh sáng có trong môi trường,nhưng máy
ảnh cần phải tìm điểm trắng (white point) lấy làm điểm gốc để cân
chỉnh màu trong các điều kiện ánh sáng khác nhau. Tất cả các máy
ảnh kỹ thuật số đều có cơ chế tự động cân bằng trắng, máy ảnh sẽ
tự động tính toán xem xét kiểu ánh sáng có trong môi trường rồi tìm
ra mức độ cân bằng trắng phù hợp nhất. Hệ thống tự động này cho
đến hiện tại không đáp ứng được tất cả các kiểu chiếu sáng một
cách chính xác, cũng như không đáp ứng được tất cả nhu cầu của
người chụp do đó trong máy ảnh còn có sẵn các tuy chọn cân bằng
trắng trong các điều kiện chiếu sáng thường gặp nhất như: dưới ánh
nắng, mây mù, dưới ánh đèn Neon, dưới ánh đèn vàng, dưới ánh đèn
cao áp...Tất cả các tùy chọn này đều rất hữu ích khi được lựa
chọn một cách phù hợp.
Các
loại máy ảnh bán chuyên nghiệp còn cho phép người dùng tự cân bằng
trắng thông qua chế độ “white preset or Custom preset”. Ở chế độ này
máy ảnh đo điểm trắng dựa trên tờ giấy, card màu trắng qua đó tính
toán nhiệt độ mầu (color temperature), ảnh chụp vì vậy sẽ có mầu
sắc chuẩn xác hơn hoặc người dùng có thể sử dụng tính năng này tạo
ra các ảnh có mầu sắc đặc biệt khác với thực tế (hiệu ứng ảnh).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét