Hòa Thượng Tuyên Hóa
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
Thế nào gọi là Bồ Tát Địa
Tạng? Vị Bồ Tát này cũng như đại địa, chứa hết vạn vật. Hết thảy vạn vật do đất
mà sanh ra, nương đất mà lớn lên. Bất kể chúng sanh hữu tình hay vô tình, không
thể rời khỏi đại địa mà tồn tại được, từ đó mà suy ra con người chúng ta mỗi
một lần thở ra, thở vào, một cử một động, một lời nói một hành động, từng giờ từng
khắc, đều sinh hoạt ở trên pháp thân của Bồ Tát Địa Tạng, chẳng qua chính chúng
ta không hay biết đó mà thôi.
Như con kiến càng bò trên
con thuyền, nó không biết tới con thuyền. Con thuyền trôi nổi trên biển, ghé
khắp mọi nơi, nhưng con kiến càng đâu có biết thuyền là cái gì? Thuyền đi tới
đâu? Hoàn toàn không biết gì cả. Lý do tại sao vậy? Bởi thuyền thì quá lớn,
kiến thì quá nhỏ. Chúng ta sinh tồn trên pháp thân của Bồ Tát Địa Tạng cũng
cùng một ý nghĩa như vậy.
Chúng ta sống trên quả
địa cầu, không nương vào một chỗ nào trong không gian cả. Địa cầu do phong luân
nhiếp trì, theo quy luật tự nhiên mà vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo. Trong hư
không, địa cầu phiêu diêu xoay chuyển, rồi cuối cùng nó đi tới đâu? Sự hiểu
biết của các nhà Thiên văn học bất quá chỉ là danh từ mà thôi, rốt cuộc như thế
nào họ cũng chẳng biết.
Chuyện huyền bí của trời
đất chẳng ai hiểu rõ một cách chân chánh. Biết được thực sự bí mật của vũ trụ
họa chăng chỉ có các bậc thánh nhân đã chứng quả. Chúng ta là kẻ phàm phu tục
tử không thể hiểu hết, ý nghĩa của nó là chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta đều là
hạng hồ đồ ăn uống tạp loạn.
Chúng ta sinh ra đời, từ
thiếu niên lên tráng niên, từ tráng niên đến tuổi già, từ tuổi già đến chết, đó
là con đường mà người đời trải qua, không ai có thể thoát ra ngoài định luật
này.
Trong cuộc sống như vậy,
có người thì gặp rất nhiều khổ nạn – nghiệp chướng nặng – lãnh tận cùng sự khổ
đau, rồi từ đó nhận thấy thân tâm tính mạng tựa hư ảo, sanh ra những tư tưởng
yếm thế, coi cuộc đời chẳng còn hứng thú gì nữa. Có người xuất thân trong gia
đình giầu sang – nghiệp chướng nhẹ – các thứ ăn mặc nơi ở đều thuộc giới thượng
lưu, đời sống đầy đủ, được toại lòng xứng ý. Như người ta thường nói: “muốn gió
có gió, muốn mưa có mưa,” thậm chí muốn cả mặt trăng, cha mẹ cũng chiều lòng
tìm cách đưa trăng xuống cho con. Đời sống như vậy, trông vào thì tuồng như rất
vui sướng, rất mỹ mãn. Kỳ thực, chẳng phải như vậy, mà chính là một đời hồ đồ
chẳng điều gì được minh bạch, có thể nói là “túy sinh mộng tử,” sống say chết
mê. Không có được sự hiểu biết chân chánh, tỷ dụ như vì sao ta đến thế giới
này? Đến để làm gì? Đến để ăn uống chăng? Để mặc áo quần chăng? Hoặc giả đến để
lừa gạt người? Đến để hưởng thụ? Đó là những điều mà thế gian mê mờ, không ai
có thể phá được sự chấp mê đó.
Chẳng riêng gì số người
tại gia không phá được cái cửa mê này, mà đối với giới xuất gia cũng còn bị hãm
trong vòng mê hoặc. Danh không buông được, lợi không bỏ được, chỗ nào cũng chạy
theo duyên, chỗ nào cũng vướng mắc, thật là đáng thương vô cùng. Những người
xuất gia phải nên có ý nghĩ, tại sao ta xuất gia? Bởi vì ta đã coi nhẹ hết thảy
mọi thứ trên thế gian này, chẳng chấp các pháp thế gian, do đó mới xuất gia tu
đạo đặng giải quyết vấn đề sanh tử.
Người xuất gia phải tha
thiết với vấn đề sanh tử, phát tâm Bồ Đề, chớ không thể hồ đồ chờ chết, như
người ta nói: “Một ngày làm sư, một ngày đánh chuông.” Với một tâm lý đó xuất
gia, đối với vấn đề sanh tử quả là không nắm vững được tí nào.
Chúng ta vào thất Địa
Tạng, nên học hỏi tinh thần cứu độ chúng sanh của Bồ Tát Địa Tạng. Trong thời
quá khứ, Bồ Tát từng phát mười tám lời nguyện lớn, nguyện chúng sanh thoát ly
biển khổ, tới bờ an lạc. Ngài nói rằng: “Địa ngục chưa trống, nguyện chẳng
thành Phật,” và “Độ hết chúng sanh, mới chứng Bồ Đề.” Ngài lại nói: “Ta không
vào địa ngục thì ai vào địa ngục.” Thật là những lời nguyện vĩ đại! Các vị phải
nên bắt chước pháp của Bồ Tát, học hỏi tinh thần cứu người quên mình. Bồ Tát
Địa Tạng nay vẫn còn trong địa ngục chịu khổ để thuyết pháp cho các chúng sanh.
Chúng ta cùng ở trong
pháp thân của Ngài Địa Tạng, lại cùng là người xuất gia, cùng với Ngài vốn là
đồng chí đồng đạo trong việc quảng độ chúng sanh. “Đặt mình trong chốn nước sôi
lửa bỏng, cứu chúng sanh tới bờ mát mẻ” chính là bổn phận của người xuất gia.
Được như vậy không uổng một đời xuất gia, hy vọng tất cả cố gắng!
Người xuất gia không thể
có tâm tham, phải quét trừ cho sạch tâm này, nếu không sẽ không đủ tư cách làm
người xuất gia. Nếu còn tham cái này, tham cái kia, cái gì cũng tham, càng
nhiều càng tốt, thậm chí vơ vào hết mọi thứ rác rưởi để tích trữ lại, như vậy
quả là đáng thương đến cực điểm vậy!
Niệm danh hiệu của Bồ Tát
Địa Tạng thì chúng ta phải niệm cho thật rõ ràng, để Bồ Tát hiểu rõ tâm ý của
chúng ta. Tại sao chúng ta niệm Bồ Tát Địa Tạng? Mục đích của chúng ta là khiến
Bồ Tát sau khi nghe tiếng chúng ta niệm, Ngài biết rõ ý muốn của chúng ta để
phát tâm từ bi, cho chúng ta được thỏa mãn tâm ý.
Năm nay chính là năm đầu
của thời kỳ “Cửu tinh liên châu,” tượng trưng cho sự hung hiểm. Chúng ta không
cần biết có hung hiểm hay không hung hiểm, chỉ biết là chúng ta một tâm kiền
thành niệm “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát,” nguyện cầu tai họa lớn của thế giới
đổi thành tai họa nhỏ, nếu là tai họa nhỏ thì biến thành tiêu tan. Bởi vậy
chúng ta chỉ một lòng khẩn thiết, vì toàn thể nhân loại trên thế giới nguyện
cầu hòa bình, hạnh phúc, đó chính là mục đích chúng ta vào thất Địa Tạng.
Đây chính là quảng đại
tâm, vô lượng tâm mà kẻ xuất gia ai cũng phải ghi tạc trong lòng, coi chúng
sanh như người thân của mình, giống như câu người ta nói: “Người chết đuối, ta
chết đuối, người đói ta đói,” phải phát tâm Bồ Tát, tự lợi lợi tha,tự giác giác
tha, tự độ độ tha. Bởi vậy trong thời gian vào thất của pháp hội Bồ Tát Địa
Tạng, chúng ta thành tâm chừng nào thì sẽ tốt chừng ấy, chúng ta đem hết thành
tâm ấy niệm “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.”
Miệng chúng ta hết sức
thành kính niệm Bồ Tát Địa Tạng, vậy là bánh xe của sáu nẻo luân hồi ngừng
xoay. Không biết bao nhiêu là chúng sanh nhờ cơ hội này mà có thể ra khỏi cảnh
luân hồi thoát ly khổ ách. Có thể nói rằng niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng là
một công việc thần diệu, một công đức chẳng thể nghĩ bàn, do đó chúng ta không
nên niệm trong sự mưu đồ, trong sự đặt giá, không phải vì sự trả ơn của chúng
sanh mà niệm, tóm lại chúng ta niệm vì lòng tình nguyện. Bởi các lý do trên đạo
tràng của chúng ta đột nhiên cử hành thất Địa Tạng, chẳng báo trước gì, cũng
không tuyên bố gì. Trong số trú tại Vạn Phật Thánh Thành mà cũng có người không
hay biết. Cái đó chính vì cơ duyên, cơ duyên hội đủ nên mới cử hành thất Địa
Tạng.
Thất Địa Tạng kết thúc
thì tiếp theo là thất Quán Âm (ngày 19 tháng 2 âm lịch), để cầu cho hòa bình
thế giới, xin tất cả mọi người cố gắng đến niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát.”
Có câu “chúng chí thành
thành,” tức là góp ý chí – của số đông – sẽ tạo thành thành trì, tất cả cùng
một lòng niệm, gắng sức niệm, hết sức thực tâm niệm, tức có cảm ứng, như câu
“cảm ứng đạo giao” vậy. Cử hành thất Địa Tạng hay Quán Âm, chúng ta chỉ cần
không có lòng riêng tư, tự lợi, không tranh, không tham, không cầu, mà thực sự
chỉ vì hạnh phúc của chúng sanh trên thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét