29/01/2015

Cách để An được Tâm


   Một đêm lo âu không ngủ, có thể làm cho đầu bạc nhanh, một cơn nổi nóng làm cho cả sắc mặt con người đổi khác, xấu đi trông thấy... và nếu sự giận dữ đó lắng xuống thành hận thù thì tác hại đối với cơ thể sẽ kéo dài và trầm trọng hơn. Trái lại, niềm vui trong sáng, tình thương rộng mở, niềm phấn khởi của sự sáng tạo v.v... những cảm xúc tích cực như vậy giúp cho nội tâm bình lặng, khiến các tuyến nội tiết bài tiết vào máu nhiều loại chất bổ, giúp cho con người hưng phấn và dường như trẻ lại...

  Theo kinh nghiệm của bản thân, kết hợp với kiến thức cơ bản về đạo Phật, chúng ta có thể thực hiện như sau:


1. Tuyệt đối, không bao giờ có tư tưởng hại người. Đó là tư tuởng mà Phật giáo gọi là bất hại hay ahimsa. Đã có tư tưởng hại người, thì sẽ có lời nói và hành vi hại người. Đã có hành vi hại người, thì ngưòi sẽ hại lại mình. Nội cái tâm sợ người ta hại mình thì cái tâm đó không yên rồi.

2. Không những loại bỏ tư tưởng hại người khỏi tâm thức chúng ta, mà cần loại bỏ tất cả mọi tư tưỏng tiêu cực khác, như ganh tỵ, dối trá, tham lam, giận ghét v.v... Tất cả những tư tuởng đó, được gọi là tiêu cực vì chúng làm rối loạn thân tâm chúng ta, đầu độc thân tâm chúng ta. Những người như thế làm sao có cái tâm yên được.

3. Thay vào những tư tưởng tiêu cực nói trên, chúng ta sẽ thường xuyên, liên tục bồi dưỡng, phát triển những tư tưởng tích cực trong đó, đứng hàng đầu là tình thương yêu, tôn trọng mọi người, mọi vật. Tình thương yêu đó, gọi chung là lòng từ và lòng bi, thường được định nghĩa là hai cái tâm muốn đem niềm vui đến cho mọi người (từ) và thông cảm với, chia sẻ nỗi thống khố của mọi người (bi). Ngoài ra, còn có cái tâm tùy hỷ, luôn luôn sẵn sàng chia sẻ niềm vui với mọi người. Người ta gặp chuyện vui, mình cũng nên vui theo. Tâm đã vui thì cũng được yên, do đó mà có từ ghép an lạc trong kinh điển nhà Phật.
Sống theo 10 thiện, tức là thể hiện trong cuộc sống hàng ngày ba tư tưởng tích cực trên là lòng từ, lòng bi, lòng tùy hỷ. Nội dung 10 thiện là gì, tôi tin rằng tất cả Phật tử chúng ta đều rõ. Do đó, ở đây, trong phạm vi một bài báo ngắn, tôi sẽ không đi sâu phân tích.

Chỉ cần nhắc lại ba điều thiện về thân
   1. Không giết mà coi trọng mạng sống là thiêng liêng. 
   2. Không trộm cắp mà thường bố thí, kể cả bố thí tài vật và bố thí pháp, tức là giảng giải Phật pháp, giảng giải những điều hay lẽ phải... 
   3. Không tà dâm mà sống trong sáng.

Bốn điều thiện về lời nói là: 
   1. Nói lời thật, không nói dối. 
   2. Nói lời đoàn kết, không nói lời chia rẽ. 
   3. Nói lời dịu hiền, không nói lời ác độc.
   4. Nói lời có ích, không nói lời vô nghĩa.

Ba điều thiện về tâm, về ý nghĩ là: 
   1. Không tham. 
   2. Không giận dữ. 
   3. Không si mê.

   Đạo Phật phân biệt rạch ròi về Thiện và Ác, không hề lầm lẫn. Làm điều Thiện, nói và nghĩ điều thiện thì tâm được yên, làm điều Ác, nói và nghĩ điều Ác thì tâm sẽ không yên.

4. Trong kinh Pháp Cú, phẩm “Tâm” có hai bài kệ mà hàng Phật tử chúng ta nên học thuộc lòng:
“Kẻ thù hại kẻ thù 
Oan gia hại oan gia 
Không bằng tâm hướng tà, 
Gây ác cho tự thân” 
(PC.42)

“Điều mẹ cha, bà con 
Không có thể làm được 
Tâm hướng chính làm được 
Làm được còn tốt hơn” 
(PC.43) 

(Kinh Pháp Cú – Bản dịch Thích Minh Châu)


   Cũng là tâm của mình cả, nhưng khi nó nghĩ bậy, nghĩ trái với mười điều thiện kể trên, thì cái tâm ấy hại bản thân ta còn hơn kẻ thù hại chúng ta nữa. 
   Tôi dám chắc đây không phải do Phật suy luận mà nói, mà với con mắt Phật (Phật nhãn), Phật thấy rõ mồn một như vậy cho nên Phật đã dạy chúng ta. Đó là do những tư tưởng tiêu cực, xấu ác không những làm tâm chúng ta không yên, mà còn làm cho thân chúng ta cũng không yên. Huyết áp tăng bất thường, tuyến nội tiết thải ra nhiều độc tố, đầu độc chúng ta mà tạo ra nhiều bệnh hoạn, kể cả những bệnh nan y. 
   Những người nào, biết sống tỉnh giác và thường xuyên quan sát và cảm nhận những biến đổi của thân tâm mình, sẽ không cần đến các bác sĩ tâm thần, cũng không cần đển sự tư vấn của các nhà tâm thần học; mà vẫn biết rõ ảnh hưởng của những cảm xúc tiêu cực hay tích cực đến tình trạng của cơ thể. 
   Một đêm lo âu không ngủ, có thể làm cho đầu bạc nhanh, một cơn nổi nóng làm cho cả sắc mặt con người đổi khác, xấu đi trông thấy... và nếu sự giận dữ đó lắng xuống thành hận thù thì tác hại đối với cơ thể sẽ kéo dài và trầm trọng hơn. 
   Trái lại, niềm vui trong sáng, tình thương rộng mở, niềm phấn khởi của sự sáng tạo v.v... những cảm xúc tích cực như vậy giúp cho nội tâm bình lặng, khiến các tuyến nội tiết bài tiết vào máu nhiều loại chất bổ, giúp cho con người hưng phấn và dường như trẻ lại.



5. Biện pháp thứ năm là tìm tới những người bạn lành, bạn tốt. Có những người sống chân thật, sống có đức, có tình, chúng ta thoạt gặp đã cảm thấy trong tâm an lạc. Nhưng cũng có người, chúng ta vừa gặp đã cảm thấy không yên. Đấy là điều tôi cảm nghiệm trong cuộc sống, tuy khó giải thích nhưng rất thực.
   Một thiền sư – nhà vua Trần Nhân Tông đã khuyên chúng ta: “Tham thiền, kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân” (Phú “Cư trần lạc đạo”, hội 6).

6. Nhưng gặp bạn xấu, ghét mình và tìm cách hại mình thì đối phó thế nào? Làm sao tâm chúng ta yên được? Vâng, trong đời mình, tôi cũng từng gặp những người như vậy.
   Tôi nghĩ là tự mình nên có nhận thức bình thản về cuộc đời, vì cuộc đời vốn dĩ là như vậy, làm sao mà chỉ gặp toàn là người tốt, người mà mình có thiện cảm và tự họ cũng có thiện cảm đối với mình. Khi giảng về chân lý sự khổ, Phật đã phân tích cái khổ phải gặp gỡ những người mình ghét và ghét mình (Oán tắng hội khổ). Tôi cho rằng đây là cơ hội để chúng ta tự rèn luyện đức tính nhẫn nhục bao dung và tha thứ. Con người mình ghét và ghét mình trở thành ông thầy dạy mình các đức tính quí giá đó!
   Một khi ta có những tình cảm và cảm xúc tích cực thì có thể khiến cho các tuyến nội tiết trong cơ thể tiết ra các chất bổ, giúp cho tâm mình hưng phấn, thân mình trẻ và khỏe ra v.v... Nếu nhận thức như vậy, thì người ghét và muốn làm hại mình lại trở thành người bạn tốt, thậm chí là người thầy quý báu, dạy cho mình những đức hạnh kể trên.

7. Cuối cùng, chúng ta phải tâm niệm lời Phật dạy. Nếu tâm chúng ta nhỏ hẹp và tự mãn, như cốc nước cỏn con, thì dù chỉ một ít muối bỏ vào nhưng cốc nước đó sẽ mặn và không thể uống được. Nhưng nếu tâm ta rộng lớn như sông Hằng dù một nắm muối bỏ vào sông Hằng nhưng nước sông Hằng có mặn đâu. Mặc dù gặp phải bất cứ chuyện gì không may thì chúng ta cũng bình chân như vại, sẽ tìm cách khắc phục.
   Đó chính là biện pháp hết sức tự nhiên và phù hợp với loài người. Đó là mở rộng tình thương, lòng quý trọng đối với mọi người, mọi vật, luôn nghĩ tới hạnh phúc của người khác dù thân hay sơ, nhưng trước hết là đối với những người thân trong gia đình, như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, anh chị em rồi sau đó nghĩ tới họ hàng, bè bạn, người láng giềng, người cùng phố.
   Con người có được một lòng yêu thương rộng mở như thế, sẽ như một cây đại thụ có bộ rễ mạnh mẽ, có thể hút các chất ngọt trong đất. Một cây như thế, sẽ phát triển xanh tươi, cho ra bao nhiêu quả ngọt, ai ăn cũng thích.  

8. Một biện pháp nữa làm cho chứng ta yên tâm là niệm hơi thở ra, vào. Kinh Pháp Cú (phẩm Tâm) từng ví tâm người vùng vẫy, như con cá vứt khỏi nước vậy. Cái tâm vùng vẫy như con cá, vứt ra khỏi nước, làm sao yên được. Có một biện pháp thần diệu mà Phật từng dạy là niệm hơi thở ra, vào. 
   Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thường niệm 1, 2, 3, 4, 5 thở vào. Rồi 6, 7, 8, 9, 10, thở ra. Trong ngày, tôi cứ theo dõi hơi thở như vậy không biết bao nhiêu lần. Làm việc mệt, đi qua lại trong phòng, tôi cũng theo dõi hơi thở theo bước đi của mình. Không đi, chỉ ngồi trên ghể bành để nghỉ ngơi, ngay cả trước khi ngủ hoặc bắt đầu ngồi thiền, hay là sau khi ngủ dậy, tôi cũng làm như vậy kiên trì, không xao lãng. 
   Quốc sư Viên Chứng đã nói với vua Trần Thái Tông, khi vua rời bỏ kinh thành, lên núi Yên Tử để tìm Phật: “Phật không có trong núi. Phật chỉ tồn tại trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó là ông Phật thật”. (Xem bài tựa “Thiền tông chỉ nam” – Khóa Hư Lục).

   Tôi tự mình cảm nhận nhờ tu niệm hơi thở ra vào, kết hợp với nếp sống nghĩ đến điều thiện, nói lời thiện, làm việc thiện... thì tâm dần dần trở nên bình lặng. Tôi đã thực hành khá lâu và quen đến mức, hễ bắt đầu ngồi thiền, là có cảm nhận cả thân, tâm dường như đều an tịnh. 


9. Biện pháp cuối cùng đừng nói suông mà phải thực hành, không nói lý thuyết. Nếu lý thuyết thì ai cũng nói được, miễn là có đôi chút lợi khẩu. Nhưng điều quan trọng nhất là thực hành, thực hành và thực hành. 
   Thường xuyên tỉnh giác theo dõi thân, tâm mình. Thân tâm mình là cuốn sách, luôn trải rộng trước mắt, sao ta không đọc. Đó cũng là ông thầy tốt nhất, cuốn sách hay nhất. Mọi biện pháp làm cho tâm yên đều có sẵn ở trong đó.

QUÁN CHIẾU ĐỂ HẠNH PHÚC


   Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. 
   Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.

   Bài quán chiếu dưới đây nhắc bạn nhớ lại những viên ngọc quý mà bạn đã có, chỉ cần lấy ra dùng là sẽ có hạnh phúc.
   Sau đây là 7 điều quán chiếu hạnh phúc:
   1/ Ta đang còn sống
   2/ Ta có sức khỏe
   3/ Ta có đủ sáu căn
   4/ Ta có tự do
   5/ Ta có tiện nghi vật chất
   6/ Ta có tình thương
   7/ Ta có sự hiểu biết

1/ Ta đang còn sống
   Trên đời này quý nhất là sự sống. Tất cả sinh vật từ côn trùng, sâu bọ, thú vật cho đến con người, loài nào cũng tham sống sợ chết. Giả sử bây giờ phải lựa chọn giữa trúng số độc đắc mà chết và sạt nghiệp mà sống thì bạn sẽ lựa cái nào ? Ở đời ai cũng lo đi tìm tiền của, nhưng thật ra tiền của chỉ để bảo đảm sự sống an toàn, tiện nghi. Có nhiều người giàu sang sẵn sàng chi hết tiền của để cứu lấy mạng sống. Như thế đủ thấy sự sống quý hơn tiền bạc, quý hơn gấp trăm ngàn, triệu ngàn lần. Ngay cả một tỷ đô la cũng không mua nổi mạng sống khi bị bệnh ung thư hay sida (aids). Vậy mà sáng nay mở mắt thức dậy còn sống, bạn có thấy mình hạnh phúc không?
   Mỗi khi cảm thấy khổ đau, chán nản hay tuyệt vọng thì hãy nhớ lại ta đang còn sống đây. Còn sống thì còn tất cả.

2/ Ta có sức khỏe
   Sự sống quý nhất trên đời, sức khỏe quý nhất trong sự sống. Có sức khỏe không có nghĩa là phải khỏe như lực sĩ thế vận hội mà chỉ cần không đau nhức, bệnh hoạn, không có bệnh trầm kha, nan y, v.v… Ở đời mấy ai tránh khỏi bệnh tật, không bệnh này thì bệnh nọ. Bệnh nặng như ung thư hay sida phải có thuốc giảm đau như morphine mới chịu nổi, nếu không thì đau đớn rên siết như bị hành hình ở địa ngục, bệnh nhẹ như cảm cúm, sổ mũi, nhức đầu cũng làm cho ta mệt mỏi, khó thở, đau nhức. Mỗi khi khỏe mạnh, không bệnh hoạn thì ta hãy mừng rỡ ý thức đó là một hạnh phúc. Có nhiều tiền mà bệnh hoạn liên miên, ăn không được, ngủ không yên, hết nằm nhà thương này đến nhà thương nọ, có tiền như vậy đâu có sướng !
   Mỗi khi cảm thấy khổ đau, chán nản hay tuyệt vọng thì hãy nhớ lại ta đang còn sức khỏe đây. Còn sức khỏe thì còn làm được tất cả.

3/ Ta có đủ sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)
   Có nguời đầy đủ sức khỏe nhưng lại bị mù, điếc, hoặc câm, què, tàn tật, v.v… Những người này dù có tiền, có sức cũng đâu sung sướng gì ! Bạn có thể tưởng tượng nếu bây giờ bị mù thì bạn sẽ ra sao ? Chỉ cần nhắm mắt lại trong năm, mười phút đi tới đi lui trong nhà mình xem. Bạn có hiểu được nỗi khổ của người mù không ? Vậy mà bạn đang còn đôi mắt sáng thấy được trời xanh, mây trắng, tai nghe được chim hót, nhạc hay, mũi ngửi được mùi cơm thơm, miệng nói năng được với người thương, thân không què quặt, tâm không điên loạn. Như vậy còn đòi hỏi gì hơn? Chỉ cần mất đi một căn thôi đời bạn sẽ mất đi rất nhiều ý nghĩa.
   Dù ở trong cảnh khổ nào đi nữa, nhớ lại mình còn nguyên vẹn sáu căn cũng đủ an ủi và xóa tan đi mọi niềm đau.

4/ Ta có tự do
   Tự do ở đây là không bị tù đày chứ không có nghĩa chính trị hay tôn giáo. Bởi vì theo giáo lý, tất cả chúng ta đều là tù nhân của ba cõi sáu đường. Chỉ khi nào thoát khỏi sinh tử luân hồi mới thực sự là tự do.
   Hiện tại bạn có đang ở tù không? Có đang bị trói buộc, xiềng xích không ? Có ai cấm bạn đi đứng nói năng, ăn uống không? Có ai đánh đập theo dõi kiểm soát bạn không ? Bạn có biết đời sống trong tù ra sao không? Dù đó là tù ở Pháp, ở Mỹ? Có thể bạn nghĩ tù ở các xứ văn minh giàu có thì sướng hơn ở xứ nghèo chăng? Ở Mỹ nhân viên cai tù không hành hạ tù nhân nhưng chính những người tù đánh đập, áp bức, hiếp dâm lẫn nhau rất dã man.
   Ngay bây giờ nhìn lại, bạn có thấy mình được tự do đi đứng nói năng không ? Nhớ ai thì lên xe rồ máy đi thăm, thèm ăn món gì thì ra chợ mua hoặc đi nhà hàng, v.v… Có biết bao người đang bị tù đày khổ sở, trong đầu chỉ ao ước được tự do như bạn là họ sung sướng lắm. Vậy mà đang sống tự do bạn có cảm thấy hạnh phúc không? Nếu không thì bạn hãy ý thức và nhớ lại đi, đừng để khi mất tự do rồi mới mơ ước thì quá muộn.

5/ Ta có tiện nghi vật chất 
   Tiện nghi vật chất không hẳn là nhà cao cửa rộng, xe hơi, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy rửa chén, v.v… Tiện nghi ở đây là những thứ căn bản mà phần đông chúng ta đều có, đó là cơm ăn, áo mặc, chỗ ở che mưa nắng, không phải đi ăn xin, ngủ đầu đường xó chợ. 
   Nhiều người ở Việt Nam vẫn tưởng rằng sống ở Pháp hay Mỹ chắc sướng lắm vì đầy đủ tiện nghi, họ đâu biết là ở đâu cũng có kẻ giàu người nghèo. Ngay tại Paris, thủ đô ánh sáng, hàng ngày vẫn có nhiều người ăn xin vô gia cư, tiếng pháp gọi là SDF (sans domicile fixe), ngửa tay đi xin tiền trong xe điện ngầm (métro), tối đến họ chui vào những gầm cầu thang để ngủ.;như ở Mỹ cũng có Homeless vậy. 
   Nhìn lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống thì ta vẫn còn may mắn hơn nhiều người. Hãy nhìn lại hoàn cảnh của mình, bạn có đói đến nỗi thiếu ăn không ? Có nghèo đến nỗi không còn mảnh vải che thân ? Nếu chưa đến nỗi như vậy thì bạn hãy xem mình đầy đủ. Khi tâm biết đủ (tri túc) thì bao nhiêu cũng đủ, khi tâm tham muốn đòi hỏi thì bao nhiêu cũng không đủ. Người biết đủ là người giàu có hạnh phúc vì không thấy thiếu thốn, người tham lam keo kiệt dù có nhiều tiền vẫn là người nghèo vì không bao giờ thấy đủ.

6/ Ta có tình thương
   Nhiều người khổ sở vì cảm thấy cô đơn, không có ai thương mình hết. Không ai thương mình bởi vì mình đâu có thương ai. Khi trong lòng ta tràn đầy tình thương thì tự nhiên nó tỏa ra và mọi người sẽ tìm đến. Giống như mùa xuân hoa nở thơm ngát thì tự động ong bướm bay tới xung quanh. Ai cũng có một trái tim, tiếng Hán là tâm, bản chất của tâm (tim) là thương yêu. Ta có dư tình thương cho chính mình và cho kẻ khác. Chỉ cần nhớ lại mình có trái tim thương yêu và đem ra xử dụng. Nếu chưa nhớ thì bạn hãy thực tập phép quán từ bi ở phần trước.
   Hiện tại bạn có ai là người thân thương không? Có cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè không? Có ai đang thương và lo lắng cho bạn không? Có tình thương, biết thương và được thương là một hạnh phúc lớn nhất trên cõi đời này.

7/ Ta có sự hiểu biết
   Hiểu biết ở đây là hiểu biết đạo lý chứ không phải kiến thức bằng cấp. Không kể người khùng điên mất trí, hoặc bị bệnh tâm thần mà ngay cả những người bình thường cũng chưa chắc có sự hiểu biết về nhân quả và đạo đức. Đầu óc ta còn sáng suốt, không điên khùng mất trí, lại gặp được Phật pháp, học hiểu giáo lý giải thoát, đó là một duyên lành hy hữu trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được.
   
   Nếu quán chiếu những điều trên chưa đủ để cho bạn hạnh phúc thì bạn cần phải “hạ sơn” đi vào cuộc đời để tiếp xúc với người sắp chết, người bệnh để thấy họ khổ ra sao, tiếp xúc với người tàn tật, người tù, người ăn xin, người cô đơn, người ngu cố chấp thì may ra nó sẽ giúp bạn tỉnh ngộ thấy mình hạnh phúc.

3 điều Thương Ghét

1) Ða số người thường suốt ngày sống trong sự thương ghét. Người nào vừa ý, hợp ý mình thì thương, kẻ nào trái ý mình thì ghét.

2) Khi bắt đầu biết đạo thì tập tánh bình đẳng, không thương người này ghét người kia.

3) Sau khi hiểu đạo thì chỉ còn tình thương. Thấy ai cũng là bà con thân thuộc của mình từ nhiều đời, và thấy ai cũng đáng thương hết.

28/01/2015

Ảnh hiếm: Hà Nội năm 1967

   Hình ảnh do nhà báo Mỹ Lee Lockwood thực hiện trong chuyến thăm Hà Nội năm 1967.
Những toa xe điện cũ kỹ chậm chạp chạy qua trung tâm Hà Nội.
Phái đoàn Cuba chuẩn bị rời Hà Nội vào miền Nam bằng những chiếc xe con được ngụy trang, theo đúng tiêu chuẩn khi di chuyển ở vùng quê
Những ngôi nhà bị phá hủy do các vụ không kích của Mỹ.
Những ngôi nhà bị phá hủy do các vụ không kích của Mỹ.
Ống bê tông dùng làm hố tránh bom cá nhân đặt trên lề đường phía trước xưởng sản xuất.
Khẩu hiệu "Cả nước một lòng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" trên bức tưởng phía ngoài xưởng sãn xuất ống bê tông.
Dân quân Hà Nội luyện tập trên thao trường, phía trước một nhà máy sản xuất xe dạp.
Một em bé ở khu vực ngoại ô bị mất chân do bom Mỹ đứng cùng bố trên đường làng. Em sử dụng một khúc cây làm nạng.
Những phụ nữ làm tóc tại một tiệm uốn tóc ở Hà Nội.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đứng trên bậc thềm Phủ Chủ tịch ở Ba Đình.
Chân dung hai "giặc lái Mỹ" bị bắt ở miền Bắc Việt Nam: Đại úy không quân Murphy N. Jones (trái) và Đại úy không quân Glendon W. Perkins (phải).
Trung tá không quân Mỹ Robinson Risner, một tù binh chiến tranh khác đang bị giam giữ tại Hà Nội.

27/01/2015

Cầu ngói cổ Thanh Toàn xứ Huế

   Không chỉ đẹp về kiến trúc, giá trị của cầu ngói thanh Toàn còn được tôn lên nhờ nằm ở vùng quê có phong cảnh thơ mộng và giàu truyền thống văn hóa.

   Bắc qua một con mương làng Thanh Thủy Chánh, thuộc xã Thuỷ Thanh, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cầu ngói Thanh Toàn là chiếc cầu gỗ được xếp vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các loại cầu cổ ở Việt Nam.
   Cầu được được xây vào năm 1776 bằng tiền cúng tiền của một người cháu gái thuộc thế hệ thứ sáu của họ Trần ở địa phương là bà Trần Thị Ðạo, nhằm giúp dân làng qua lại được thuận tiện đồng thời là nơi cho lữ khách cùng người tha phương tạm nghỉ chân khi qua làng.
   Trải qua hơn hai thế kỷ, cầu đã nhiều lần bị hư hại do hứng chịu thiên tai cũng như sự tàn phá của chiến tranh. Sau mỗi lần cầu hư hỏng, người dân địa phương lại đóng góp tiền bạc, công sức để tu sửa, giúp cầu giữ được nét kiến trúc từ thuở ban đầu.
   Kết quả đo đạc cho thấy, cầu dài 16,85m và rộng 4,63m, được xây dựng theo lối "thượng gia hạ kiều" (trên nhà, dưới cầu) chia làm 7 gian. Cầu nằm trên hệ thống trụ đỡ có 3 hàng, mỗi hàng có 6 cột.
   Hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can để khách vãng lai nằm nghỉ hoặc ngồi tựa lưng.
   Gian giữa cầu được thiết kế rộng nhất và ở đó cũng là nơi đặt bàn thờ để thờ bà Trần Thị Đạo - người khai sinh ra cây cầu.
   Trên cầu có mái che, lợp ngói ống tráng men được sản xuất ở Huế.
   Đỉnh cầu có một cặp phượng chầu mặt trời được khảm sứ, đem lại sự sinh động cho kiến trúc của cầu.
   Không chỉ đẹp về kiến trúc, giá trị của cầu ngói Thanh Toàn còn được tôn lên nhờ nằm ở một vùng quê có phong cảnh thơ mộng và giàu truyền thống văn hóa.
   Cây cầu lịch sử này là điểm đến mà du khách không nên bỏ qua mỗi khi ghé thăm xứ Huế.

25/01/2015

Nhắc mình: Nhân Sinh Tiền Tiến Tứ Bộ

1- NGỘ NHẬN  (hiểu lầm)
   Năm đó tại Alaska - Mỹ, có đôi trai gái kết hôn với nhau. Kết quả của cuộc hôn nhân đó là vấn đề sinh dưỡng, người đàn bà vì bị khó sanh mà phải từ biệt cõi đời, để lại một đứa bé thơ cho người chồng.  Anh chồng vừa rất bận rộn  sinh kế, lại vừa rất bận rộn việc gia đình.  Vì không có người giúp trông coi đứa con thơ, anh huấn luyện được một con chó, con chó này rất thông minh, lại rất ngoan ngoản nghe lời, nó biết trông coi em bé, nó tha bình sữa để cho bé bú, nuôi dưỡng bé.  Có một ngày kia, người chủ có việc phải rời nhà, anh dặn dò con chó trông coi nuôi nấng cho bé con.  Anh đi tới một thôn làng khác, vì gặp phải tuyết lớn rơi, không thể về nhà được trong cùng ngày đó.  Qua đến ngày thứ hai mới về được nhà, con chó nghe tiếng lập tức chạy ra nghênh đón chủ mình.
   Người chủ mở cửa phòng ra xem thì thấy đâu đâu cũng đều là máu, ngẩng đầu  nhìn lên trên giường cũng là máu, chẳng thấy đứa con đâu cả, mà thấy trên thân mình con chó và miệng của nó cũng dính đầy máu me, người chủ phát hiện cái tình cảnh này, ngỡ là con chó đã trở lại cái tính dã man của loài thú, và nó đã ăn thịt con mình. Trong cơn giận dữ, anh xách con dao to lớn và chặt đầu con chó đi, anh đã giết chết con chó thật sự rồi.
   Sau đó, bỗng nhiên anh nghe có tiếng con nhỏ của mình, lại thấy nó từ dưới gầm giường bò ra, thế là anh bồng đứa bé lên, tuy là trên mình em cũng có dính máu, nhưng em không có bị thương tích gì.  Anh rất lấy làm lạ, chẳng biết việc gì đã xảy ra, anh nhìn kỹ lại con chó, thấy đùi của nó đã bị mất một mảng thịt, còn kế bên là một con chó sói, miệng nó đang gậm miếng thịt của con chó.
   À, thì ra con chó nhà đã cứu tiểu chủ nhân, lại bị chủ nó giết nó một cách tàn nhẫn dã man, oan uổng, đây đã là một sự ngộ nhận (hiểu lầm) hết sức là đau lòng của con người.
   Ghi chú : Việc hiểu lầm, con người ta thường vì không hiểu nhau, không có lý trí, không chịu nhẫn nại, khiếm khuyết về suy nghĩ, không chịu tìm hiểu đối phương từ nhiều phương diện, để phản tỉnh chính mình,lại vì não trạng bị quá xung động trong tình huống vô ý thức mà phát sinh.  Sự ngộ nhận ở điểm khởi đầu là cứ nghĩ đến cái sai cái quấy ngàn lần vạn lần của đối phương.  Vì vậy, đã làm cho sự ngộ nhận càng lúc càng thêm sâu đậm đưa đến việc không thể hóa giải được.  Con người phát sinh sự ngộ nhận đối với loài vật mà đã có cái hậu quả ghê gớm, nghiêm trọng như vậy; nếu đây là sự ngộ nhận giữa con người và con người, chắc chắn là khó mà tưởng tượng nổi hậu quả, có khi trở ngược hại chính mình.


2.  ĐINH TỬ (Cây đinh)
   Có một cậu bé trai có tật xấu là ưa nổi nóng quạu quọ, vì vậy, cha cậu đã đưa một túi đinh, bảo cậu mỗi khi nổi nóng quạu quọ thì hãy đóng một cây đinh lên trên bờ rào phía sau vườn nhà.  Ngày thứ nhứt, cậu đóng được 37 cây đinh. Từ từ, mỗi ngày số đinh được đóng lên bờ rào mỗi ít đi.  Cậu cũng nhận thấy mình đã khống chế phần nào tật xấu, cũng như cái việc đóng những cây đinh có hơi dễ dàng.
   Cuối cùng, có một ngày kia cậu bé này cũng thấy là mình vẫn đủ nhẫn nại để không nổi lên cái tật xấu nóng nảy quạu quọ nữa, bèn báo cho cha nó biết việc này.
   Cha cậu lại bảo, bắt đầu từ nay, mỗi khi khống chế được tật xấu thì hãy nhổ bỏ một cây đinh.  Ngày ngày trôi qua, sau cùng cậu báo cho cha hay là đã nhổ hết những cây đinh rồi.  Người cha nắm tay con trai, cùng đi ra sau vườn nhà và nói rằng: Con của cha, con ngoan lắm, con làm rất hay.  Nhưng  hãy nhìn những lỗ đinh trên bờ rào: bờ rào này không thể hồi phục được nguyên trạng nữa.  Một khi con nổi nóng thì những lời nói của con cũng giống như những cái lỗ đinh này, chúng đã để lại những vết hằn.  Giả dụ như con dùng dao đâm người ta một dao, thì bất luận là con đã nói bao nhiên lần những lời tạ lỗi,  vết thương đó vẫn sẽ vĩnh viễn còn đó.
   Những lời nói (xóc óc) nhức nhối cũng ví như sự nhức nhối thực tại, không làm sao chấp nhận được (dù đó chỉ là lời nói).

   Ghi chú: Giữa người và người với nhau, thường do cố chấp bởi những lỗi lầm giữa đôi bên, đã tạo nên  những thương tổn vĩnh viễn cho nhau.
Nếu mọi người trong chúng ta đều có thể tự mình làm, bắt đầu có thái độ khoan dung đối với  mọi người, bạn nhất định sẽ nhận được những kết quả tốt mà bạn không hề nghĩ tới… Giúp mở cánh cửa sổ cho người ta, cũng là để cho chính mình nhìn thấy được một không gian hoàn chỉnh hơn.

3.  THẢ MẠN HẠ THỦ  (Xin hãy chậm xuống tay)
   Đại đa số các cộng sự viên đều rất phấn khởi vì khu làm việc này vừa đổi lại một viên quản đốc mới, nghe nói ông này rất có khả năng, đặc biệt được đưa đến đây để chỉnh đốn nghiệp vụ và nhân sự.  Ấy thế mà, cứ một ngày rồi một ngày trôi qua,ông quản đốc mới này chẳng làm gì hết, mỗi ngày đều có những quà cáp được đưa vào văn phòng, ông vẫn “trốn” luôn trong đó, ít khi nào chịu ra ngoài, cái thành phần bất hảo ở khu này càng lộng hành tác oai tác quái dữ hơn.
   “Ông ta đâu có phải là người có khả năng! Ông chỉ là một lão già tốt và nhu nhược, so với quản đốc trước còn dễ bị người ta ăn hiếp nhiều hơn” !
   Bốn tháng trời trôi qua, các cộng sự viên đang trong tình trạng thất vọng đối với ông quản đốc hiền hòa mềm yếu này.
   Một ngày kia, bỗng dưng ông ta “diễn oai” đối với cái thành phần bất hảo kia, dần dần đều bị ông bứng từng tên một, cho về vườn “đuổi gà”, còn những người có khả năng đều được ông cất nhắc cho thăng tiến.  Xuống tay vừa nhanh, vừa chính xác, đối với bốn tháng “bảo thủ” đã biểu hiện vừa qua, nay ông rõ ràng là một nhân vật cứng rắn và cương quyết, hoàn toàn khác xưa.
   Trong tiệc liên hoan cuối năm, sau khi đã qua ba tuần rượu, ông quản đốc mới bèn thố lộ tâm tình :
   “Tôi nghĩ là cái nhìn của các bạn đối với tôi trong những ngày vừa mới nhậm chức và sau khi tôi khai đao múa búa trừ hại, nhất định là có những thắc mắc phải không?  Xin hãy nghe tôi kể lại một câu chuyện, các bạn sẽ hiểu ngay:
   “Tôi có một người bạn, ông ta mua một căn nhà có cả một vườn cây hoa thảo, khi mới dọn vào, ông ta liền chỉnh đốn, tất cả những hoa thảo cây cối, đều được làm sạch hết, để trồng lại những bông hoa mới.  Có một ngày kia, người chủ nhà cũ đến thăm, mới vừa bước vào cổng, ông giựt mình hỏi rằng:
   “Những cây hoa quý Mẫu Đơn giờ đâu mất hết rồi”?
   Bạn tôi bấy giờ mới hiểu ra là chính mình đã triệt hạ hết những cây Mẫu Đơn quý mà mình tưởng chúng là những hoa rừng cỏ dại.  Sau này, ông ta lại mua thêm một căn nhà nữa, tuy là vườn cây hoa cỏ tạp nhạp, ông vẫn “án binh bất động”.  Quả nhiên trong mùa Đông cứ ngỡ là những cây rừng cỏ dại thì mùa Xuân lại nở hoa dầy đặc xinh tươi, trong những ngày Xuân ngỡ là cỏ dại thì mùa Hạ lại hiện ra những tấm thảm gấm hoa tươi mát và trong nửa năm chẳng động tịnh gì đến những loài cây nho nhỏ thì những ngày Thu đã đỏ hồng những chiếc lá dễ thương.  Mãi cho đến cuối Thu, ông mới thực sự thấy được những loài cây cỏ vô dụng và bắt đầu dọn dẹp sạch sẽ, đồng thời giữ lại những loài hoa thảo mộc thật sự trân quý.
   Nói đến đây, ông quản đốc bèn nâng ly :
   - Xin cho tôi kính tửu các vị ở đây vì các vị cũng như là những hoa mộc ở trong “vườn hoa” công ty này, các bạn đã là những cây trân quý trong đó, những cây trân quý này không thể nào trong năm mà có thể đơm bông kết trái hết được, cần phải trải qua một thời gian dài mới có thể nhận ra được.

4.  KHOAN DUNG (Đại lượng bao dung)
   Đây là một câu chuyện về một anh chiến binh, người vừa trở về từ chiến trường Việt Nam . Từ San Francisco, anh điện thoại về cho cha mẹ anh và báo tin rằng:
   “Con đã về rồi, con xin có một thỉnh cầu.  Con muốn dắt theo một người bạn đồng hành cùng về nhà mình”.
   “Dĩ nhiên là được”!
   Ba má anh đáp,
   “Ba má rất vui mừng được gặp bạn con”.
   Người con lại tiếp tục: “Nhưng có một việc con cần phải thưa trước cho ba má rõ, bạn con đã bị thương từ chiến trường Việt Nam, bị mất đi một cánh tay và một cái chân, hiện tại bạn con chẳng có nơi để nương tựa, con muốn đem bạn về cùng sinh hoạt chung với gia đình mình”. 
-         Con ơi, thật là điều đáng tiếc, có thể chúng ta giúp tìm một nơi cho nó được an thân sinh sống”.
   Cha anh lại nói tiếp “Con ạ, chắc con chẳng biết là con đang nói gì phải không? Như bạn của con là một người tàn phế, hẳn là chúng ta phải mang một gánh nặng trách nhiệm lớn đó con.  Chúng ta lại phải đối diện với những khó khăn trong cuộc sống của chính mình trong tương lai, không thể vì nó mà làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của gia đình mình.  Ba đề nghị với con là hãy về nhà trước và hãy quên người bạn đó đi, tự nó nhứt định cũng sẽ tìm được một nơi dung thân mà con”.
   Nói xong  ông liền cúp điện thoại, từ đó hai ông bà không nhận được tin tức gì từ người con nữa. Vài ngày sau, hai ông bà nhận được điện thoại của cảnh sát San Francisco báo cho hay là, con trai ông đã té lầu chêt rồi.  Cảnh sát tin rằng đây chỉ là chuyện đơn thuần tự sát mà thôi. Thế là hai ông bà gấp rút bay qua San Francisco, nhờ cảnh sát đưa đi nhận diện di thể của con mình.  Đúng rồi, chính là con mình đây, không sai, điều hết sức ngạc nhiên ở đây là con trai của mình, tại sao lại chỉ có một cánh tay, và cũng chỉ có một cái chân mà thôi.
   Cha mẹ trong câu chuyện này cũng như trong đại đa số chúng ta hầu hết đều giống nhau.  Cùng với những người, với sự ưa thích về diện mạo xinh đẹp, hoặc giả là nói năng duyên dáng và dí dỏm, thì lại có thể chấp nhận quá dễ dàng, thế nhưng để ưa thích những sự việc mà có thể gây bất tiện, hoặc là làm cho chúng ta không vui thì lại rõ ràng là một điều khó lòng mà chấp nhận được.
   Chúng ta thường là chấp nhận sự kiên trì, xa lánh những người không có được sự khỏe mạnh, tốt tướng hoặc thông minh như chúng ta. Tuy nhiên cũng có một số người thì lại nhân từ hơn chúng ta rất nhiều. Họ không bao giờ oán than hay hối tiếc khi họ thương yêu chúng ta, cho dù là chúng ta bị tàn phế ở mức độ nào đi chăng nữa, họ vẫn mở rộng vòng tay đón nhận chúng ta.
   Đêm nay trước khi vào giấc ngủ, ta hãy thử tiếp nạp tha nhân, bất luận họ là những con người như thế nào, hãy dùng cái tâm để hiểu dùm cho giữa những khác biệt của họ và của ta.  Mỗi một con người đều có tàng ẩn trong tâm một món đồ quý giá thần kỳ, đó là “Tình Bạn”. Bạn không thể nào biết được Tình Bạn đó sẽ phát sinh bằng cách nào, và vào lúc nào, nhưng bạn chắc chắn phải biết rằng Tình Bạn sẽ mang đến cho chúng ta một món quà rất đặc biệt trân quý.
   Bạn hiền có thể ví như là một bảo vật quý hiếm.  Bảo vật này mang lại cho chúng ta những nụ cười, khích lệ chúng ta thành công.  Họ (bạn hiền) lắng nghe tiếng nói từ nội tâm của chúng ta, cùng chúng ta chia sẻ từng câu khen tặng tốt đẹp hay lời chê bai chỉ trích xác đáng ..  Trái tim của họ lúc nào cũng vì chúng ta mà rộng mở. Bây giờ xin hãy nói với bạn bè của bạn là, bạn đã có rất nhiều ưu tư, và rất cần đến họ, bạn không thể thiếu họ được.
   Vậy thì,  trước khi có một sự phán đoán hoặc quyết định đối với bất cứ người nào.
   Đầu tiên, hãy nghĩ xem, đây có thể là một sự “Ngộ Nhận”  (hiểu lầm hoặc sai lầm)? Kế đó là, ta có cần phải đóng một cây đinh “Đinh Tử”? Và nếu có thể thì, xin hãy chậm xuống tay “Thả Mạn Hạ Thủ”, Bởi vì, lúc mà bạn có sự “ Khoan Dung ”  (Đại lượng bao dung) đối với ngưòi khác, cũng tức là lúc mình đã “Khoan Dung” với chính mình.


24/01/2015

NHÌN LẠI MÌNH LÀ BỔN PHẬN NGƯỜI TU



   Hôm nay tôi sẽ giảng về đề tài Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc (nhìn lại mình là bổn phận của người tu, không phải do người khác đem lại). Đây là một đề tài chuyên về tu thiền, nhất là Thiền tông Việt Nam.

   Đời nhà Trần Tuệ Trung Thượng sĩ là một cư sĩ ngộ đạo. Cho nên vua Trần thánh Tông gởi Thái tử Trần Khâm cho Tuệ Trung Thượng sĩ dạy đạo lý. Khi học hỏi gần xong, sắp trở về triều, trước lúc từ giã, Thái tử hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ: “Bạch Thượng sĩ, pháp yếu của Thiền tông là gì?” . Thượng sĩ trả lời: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”.

   “Phản quan” là soi sáng hay xem xét, “tự kỷ” là chính mình. “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” có nghĩa là xem xét lại chính mình là việc bổn phận, không phải từ nơi khác mà được. Đó là câu châm ngôn trong nhà Thiền. Chúng ta nghiên cứu Phật pháp sẽ thấy câu nầy hệ trọng như thế nào.

   Trong pháp tu Tứ niệm xứ gồm có: Quán thân bất tịnh, Quán thọ thị khổ, Quán tâm vô thường, Quán pháp vô ngã. Cả bốn thứ quán nầy đều quay lại mình, chớ không đi hướng nào khác. 
   - Quán thân bất tịnh là quay lại mình để xem xét thân nầy nhớp nhúa không sạch. 
   - Quán thọ thị khổ là quay lại mình xem xét những cảm giác thọ nhận đối với sáu trần bên ngoài đều là đau khổ. 
   - Quán tâm vô thường là quay lại mình để xem xét tâm niệm luôn luôn sinh diệt không ngừng. 
   - Quán pháp vô ngã là quay lại mình xem xét những tâm sở pháp không có chủ thể có định.

   Đến pháp hơi thở là Anapanna cũng nhìn lại hơi thở của mình từ thô đến tế. Nên pháp quán nầy còn được gọi là “Lục diệu pháp môn”. Đó là sáu môn quán chiếu xoay lại mình: sổ tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn, tịnh.

   - Sổ tức, tức là đếm hơi thở. Hít vô cùng thở ra sạch đếm một, như vậy đếm tới mười thì bỏ, bắt đầu đếm lại từ một. 
   - Sổ tức thuần thục bước sang Tùy tức, nghĩa là theo dõi hơi thở. Quan sát hơi thở vô, hơi thở ra một cách rõ ràng gọi là Tùy tức. 
   - Chỉ là dừng tâm để nhìn hơi thở. 
   - Quán là xem xét hơi thở vô ra, nên hơi thở là mạng sống vô thường không bền lâu. 
   - Hoàn là quay trở lại tìm xem cái quán hơi thở vô thường đó là gì. 
   - Cuối cùng dừng hết tâm, không chạy ra ngoài nữa gọi là tịnh.

   Như vậy pháp tu Tứ niệm xứ hay Lục diệu pháp môn v.v… đều là phản quan, chớ không có gì khác. Người tu Phật muốn đi tới chỗ an định, trí tuệ sáng suốt thì phải quay lại quán chiếu nơi mình. Thấy rõ được mình gọi là phản quan. Phản quan ở đâu? Phản quan nơi chính mình.

   Đêm nào chúng ta cũng tụng kinh Bát Nhã hết. Vậy tụng kinh Bát Nhã để làm gì? Để bổ khuyết tâm kinh phải không? Không phải. Lâu nay có một ít người lầm, cho rằng kinh Bát Nhã là bổ khuyết tâm kinh. Sao gọi là bổ khuyết? Bởi khi tụng kinh, người đánh mõ nhanh quá nên có khi tụng sót, vì vậy phần sau phải bổ khuyết lại bằng bài kinh Bát Nhã. Hiểu như vậy là một lầm lẫn lớn lao.

   Bát Nhã là trí tuệ. Trí tuệ đó là trí tuệ chiếu soi thấu suốt được bản thân con người và tất cả ngoại cảnh bên ngoài, cho nên gọi đó là trí tuệ Bát Nhã. Mở đầu kinh Bát Nhã là câu: “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Nghĩa là Bồ tát Quán Tự Tại khi hành sâu trí tuệ Bát Nhã, Ngài chiếu soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ nạn. Tinh thần Bát Nhã là phản quan lại, chiếu soi năm uẩn không thật thì qua hết tất cả khổ nạn.

   Pháp tu nào của nhà Phật cuối cùng cũng phải tụng kinh Bát Nhã. Tu Tịnh độ, Mật tông, tu Thiền v.v… đều như vậy. Nghĩa là pháp tu của Phật dạy, cuối cùng đều qui hướng về trí tuệ. Có trí tuệ mới giải thoát đau khổ, có trí tuệ mới thấy được chân lý. Có trí tuệ mới ngộ đạo. Đó là điểm then chốt, là căn bản trên con đường tu tập để được giác ngộ giải thoát.

   Như kinh Kim Cang, Phật trả lời hai câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề: “Vân hà an trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?”. Nghĩa là làm sao an trụ, làm sao hàng phục được tâm kia? Đức Phật trả lời: Phải độ tất cả  chúng sanh nào thai sanh, thấp sanh, hóa sanh cho tới những loài vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng v.v… đều vào vô dư Niết bàn, đó là hàng phục tâm. Nếu thấy sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà không dính mắc, không trụ trước, đó là an trụ tâm”.

   Phật dạy chúng ta hàng phục tâm là đưa những niệm nghĩ tưởng và hữu sắc, vô sắc v.v… vào vô dư Niết bàn, tức vào chỗ không sanh không diệt, đó là hàng phục tâm. Nếu muốn an trụ tâm thì đối với sáu trần không cho dính mắc. Không trụ nơi sắc sanh tâm, không trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, đó là an trụ tâm. Như vậy, trọng tâm kinh Kim Cang dạy hàng phục tâm, là bất cứ niệm tưởng nào cũng đều đưa nó vào chỗ vô sanh. Đối với sáu trần không dính, không kẹt, đó là an trụ tâm.
   Chúng ta học kinh, hiểu rõ nghĩa kinh thì sự tu hành mới dễ. Trọng tâm tu là phải hàng phục vọng tưởng bên trong, đừng dính mắc sáu trần bên ngoài. Muốn hàng phục tâm vọng tưởng bên trong, phải phản quan nhìn lại chính mình. Muốn không dính mắc sáu trần thì phải khéo quán sát. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần liền thấy, liền biết không cho dính kẹt. Đó là gốc của đạo Phật.

   Chúng ta tu muốn đi đến giác ngộ, tâm hoàn toàn an định thì không có cách nào khác hơn là phải ứng dụng như vậy. Cho nên tất cả người tu đều phải giữ gìn đừng để sáu căn dính với sáu trần. Được thế là tự do tự tại. Tự do tự tại chính là giải thoát vậy. Trong kinh A Hàm có câu chuyện:

   Một hôm đức Phật vào rừng ngồi thiền. Sau khi xả thiền. Ngài nhìn chung quanh thấy có con rùa lớn bò qua. Một con rái thấy vậy định chụp ăn, nhưng mai con rùa cứng và trơn quá, nó chụp không được. Nó chờ con rùa ló đầu ra liền chụp. Con rùa lại rút đầu vào, rái cá chờ chụp chân nhưng rùa cũng rút chân luôn. Còn cái đuôi, rái cá vừa định chụp thì rùa vội rút đuôi vô mai.. Sáu bộ phận rùa đều rút vô mai hết, con rái cá đi tới đi lui cạp không được, cuối cùng nó bỏ đi.

   Phật nói người tu phải khéo giữ sáu căn như con rùa khéo giữ các bộ phận của nó vậy. Nếu các bộ phận rút vô mai hết thì rái cá không ăn được. Cũng vậy, chúng ta nếu khéo phản quan sáu căn của mình quay lại, không cho dính với sáu trần, đó là kế sách an toàn nhất. Người không dính với sáu trần thì người đó sẽ được giải thoát sanh tử.

   Cho nên Lục Tổ Huệ Năng khi nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến câu “bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền đại ngộ và thốt lên: 

   1.Không ngờ Tự Tánh vốn tự Thanh Tịnh.
   2.Không ngờ Tự Tánh vốn Không Dao Động.
   3.Không ngờ Tự Tánh vốn Không Sanh Diệt.
   4.Không ngờ Tự Tánh vốn tự Đầy Đủ.
   5.Không ngờ Tự Tánh hay Sanh Muôn Pháp.
   Ngay đó Ngũ Tổ biết Ngài đã ngộ đạo.

   Vậy Ngài ngộ đạo qua pháp gì? Qua lời dạy an tâm. 
   Tâm không dính sáu trần thì được tự tại. Bởi vì tâm không dính với sáu trần thì không khởi niệm nghĩ gì cả. Tất cả nghĩ tưởng của chúng ta đều duyên theo sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà có. 
   Thí dụ: ngồi niệm Phật hoặc ngồi thiền, không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc nhưng còn thấy pháp trần. Những bóng dáng cũ hôm qua, hôm kia còn lưu lại trong tâm, bây giờ nó sống dậy. Thấy các bóng dáng đó thì phải bỏ đi, không chạy theo nó, đó là chúng ta tu. Đi ra nhìn thấy sắc, thinh, hương, vị, xúc, mình không dính. Ngồi lại pháp trần dấy hiện lăng xăng, mình buông đi, không dính. Tu như vậy là bỏ các thứ dính mắc, không cho sáu căn kẹt nơi sáu trần. Do đó mà tâm được định. Tu là cốt để được định, từ định phát sinh trí huệ.

   Đến đây, tôi sẽ nói về các Thiền sư. Thiền sư Trung Quốc đầu tiên là Tổ Huệ Khả. Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang. Ngài đến chùa Thiếu Lâm chín năm ngồi xây mặt vào vách. Bấy giờ Tổ Huệ Khả tên là Thần Quang, nghe danh của Ngài. Khi đến thấy Tổ ngồi xây mặt vào vách, ngài Thần Quang không biết làm sao thưa hỏi. Lúc đó núi Thiếu Thất ở miền bắc Trung Quốc, nhằm mùa đông giá rét, vậy mà Ngài đứng suốt đêm ngoài sân, tuyết ngập tới đầu gối.

   Sáng, Tổ xoay lại thấy liền hỏi: “Ông cầu việc gì mà khổ hạnh như vậy?”. Ngài Thần Quang thưa: “Con muốn cầu pháp thoát ly sanh tử, xin ngài dạy cho”. Tổ quở: “Ngày xưa chư Bồ tát muốn cầu pháp thoát ly sanh tử, các ngài hi sinh cả thân mạng, ông chỉ dùng chút ít khổ hạnh thôi mà cầu pháp thoát sanh tử được sao?”. Nghe vậy, Thần Quang ra sau nhà bếp chặt một cánh tay dâng lên để tỏ lòng thiết tha cầu pháp. Tổ gật đầu khen khá, liền đặt tên là Huệ Khả.

   Đây là chỗ tất cả chúng ta lưu ý. Người tu thì phải xả thân cầu đạo, còn chúng ta tu thì lại quí thân. Như vậy có trái với đạo lý không? Thế nên người tu dù tại gia hay xuất gia phải có gan, dám chịu cảnh túng quẫn, nghèo thiếu, dám quên thân mạng thì nhất định sẽ đạt đạo. Vì vậy, sự việc Tổ Huệ Khả chặt tay cúng dường là một hình ảnh tượng trưng cho lòng quyết tâm cầu đạo.

   Khi đã được Tổ nhận, một hôm ngài Huệ Khả thưa: “Bạch Hòa thượng, tâm con không an, xin Hòa thượng ban cho con pháp an tâm”. Lúc đó Tổ Bồ Đề Đạt Ma nhìn thẳng vào mặt ngài Huệ Khả bảo: “Đem tâm ra đây ta an cho”. Ngài Huệ Khả sửng sốt không biết tâm ở đâu mà đem. Ngài xoay lại tìm tâm nhưng không thấy bóng hình nó ở đâu, ngài thưa: “Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được”. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Ngay đó ngài Huệ Khả liền biết lối vào.

   Chỗ nầy tôi đã kể nhiều lần, nhưng mỗi lần kể là một lần mới, vì vậy ít nhất cũng năm ba người biết được lối vào. Tâm không an là tâm nào? Đó là tâm vọng tưởng, nó nghĩ cái nầy, nó nghĩ cái kia lăng xăng nên gọi là tâm không an. Tổ bảo: “Đem tâm ra ta an cho”, thì làm sao mà đem? Quí vị có ai đem được không? Không được. Tại sao? Vì nó không thật, tìm lại là nó mất tăm mất dạng. Vậy tâm lăng xăng đó thật hay giả? Giả nên gọi là vọng tưởng, vọng tưởng là hư dối không thật.

   Lâu nay chúng ngỡ cái nghĩ suy là tâm mình thật. 
   Nó là vọng tưởng hư dối, mà chúng ta vì si mê lầm lẫn cho là thật. Rồi bị nó dẫn chạy liên miên, hết chỗ nầy sang chỗ nọ. Ngồi tọa thiền một giờ nó dẫn mình chạy không biết mấy chục lần. Cho nên khi ngài Huệ Khả xin Tổ dạy pháp an tâm, Tổ không dạy một pháp nào cả chỉ bắt quay lại tìm xem tâm ấy ở đâu. Tức là chiếu soi cái suy nghĩ đó xem nó ở đâu, nhưng khi tìm lại thì nó mất. Cái nghĩ suy ấy mất tức là tâm an rồi. Đó là an tâm mà không dùng một pháp môn nào hết. Lối tu nầy gọi là đốn ngộ hay đốn giáo.

   Chỉ nhìn thẳng trở lại thấy tâm không thật thì tự nó an, không qua một pháp nào hết. Cho nên Tổ đạt Ma khi sang Trung Hoa, ngài tuyên bố: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Đó là bốn câu châm ngôn của Thiền tông. Bất lập văn tự là  không dùng văn tự. Giáo ngoại biệt truyền là truyền ngoài giáo lý. Trực chỉ nhân tâm là chỉ thẳng tâm người. Kiến tánh thành Phật là nhận ra bản tánh thì thành Phật.

   “Đem tâm ra ta an cho” là giáo ngoại biệt truyền, bởi vì câu nầy không có trong kinh nào hết. Phật nói pháp nầy pháp nọ, chớ không bảo đem tâm ra ta an cho. Tự mình dùng trí phản chiếu lại mình, tự nhiên nghĩ suy lăng xăng không còn nữa. Nó lặng hết là an rồi.

   Biết tâm hư dối là vọng tưởng, khi vọng tưởng lặng mà vẫn hằng giác hằng tri, đó chính là tánh giác của mình. Vì vậy trực chỉ nhân tâm là chỉ thẳng tâm người, để nhận ra tánh giác là nhân thành Phật. Đơn giản như vậy cụ thể như vậy. Cái nhìn đó chân thật mà không qua phương tiện nên nói thẳng tắt. Thẳng tắt tức là trực chỉ, chỉ thẳng không quanh co. Khi tánh giác của mình hiển lộ, đó là nhân thành Phật.

   Vì sao bình thường tánh giác không hiển hiện được? Là vì vọng tưởng che phủ, hết niệm nầy đến niệm kia liên tục mãi. Đồng thời chúng ta lại nhận vọng tưởng là mình, quên hẳn tánh giác. Bây giờ vọng tưởng dấy lên, mình biết nó vọng, hư dối, không theo nó, gạt qua một bên thì lần lần nó lặng. Nó lặng thì tánh giác hiện ra. Như có phút giây nào, chúng ta ngồi yên một chỗ, dưới gốc cây chẳng hạn. Mình nhìn trời nhìn mây không có một ý nghĩ nào hết, thời gian đó quí vị có biết không? Biết, mây bay biết mây bay, chim kêu biết chim kêu mà không suy nghĩ. Cái biết không do suy nghĩ chính là tâm mình mà mình quên. Chúng ta chỉ nhớ tâm lăng xăng lộn xộn thôi, trong khi cái lặng lẽ hiện tiền mình lại quên.

   Tâm nghĩ suy nào buồn, thương, giận, ghét, nó thường trực hay vô thường? Khi đang buồn mà gặp việc hài lòng thì vui lên liền. Như vậy buồn qua mất rồi. Hoặc lúc đang vui, có ai nói gì trái ý liền buồn giận ngay. Rõ ràng nó luôn luôn sanh diệt theo cảnh, không có thật. Chúng ta quên cái thật chạy theo cái giả nên Phật nói mình mê. Mê là gì? Mê là quên, quên thật theo giả.

   Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói thí dụ anh chàng say có hòn ngọc quí cột trong chéo áo mà không biết. Khi được người bạn chỉ mới biết, tuy biết rồi nhưng rồi lại quên hòn ngọc ấy nên vẫn sống lang thang. Có của quí mà không nhớ, không nhớ nên phải chịu khổ. Chúng ta hiện giờ cũng vậy, tâm vọng tưởng buồn thương giận ghét liên miên, là hư ảo giả dối không thật, mà mình lại theo nó, còn cái chân thật hiện tiền lại bỏ quên. Cho nên Phật dạy tu là dừng vọng tưởng. Vọng tưởng dừng rồi thì chân tâm hiện ra, không tìm, không kiếm ở đâu hết.

   Chân tâm là tánh giác không có sanh diệt, còn những nghĩ suy là niệm khởi sanh diệt. Chúng ta đang sống với niệm sanh diệt, quên sống với tâm vô sanh của mình. Vì vậy Phật, Tổ bảo chúng ta dừng lại, đừng chạy theo niệm lăng xăng sanh diệt nữa. Dừng lại để chúng ta thấy được tâm chân thật của chính mình. Xoay lại tìm đó chính là phản quan. Cho nên qua lời chỉ bảo của Tổ Đạt Ma, ngài Huệ Khả “biết được lối vào”. Biết được lối vào mà không cần một phương tiện nào hết.

   Nhiều người nói tu  thiền khó. Tu niệm Phật hoặc tu các pháp quán hơi thở v.v… dễ hơn. Tại sao tu thiền khó? Bởi vì nó không có phương tiện. Nếu có dùng phương tiện rồi cũng phải bỏ. Lúc đầu dùng phương tiện để điều phục vọng tưởng, khi tâm yên thì phương tiện cũng phải bỏ, còn phương tiện thì chưa phải cứu kính. Như pháp niệm Phật, niệm cho tới chánh niệm. Tuy nhiên, được chánh niệm vẫn chưa là chỗ cứu kính, phải niệm tới vô niệm, chỉ còn một tâm thanh tịnh mới là chân thật, là cứu kính. Như vậy cũng không phải dễ.

   Ngài Triệu Châu khi có người hỏi: “Con chó có Phật tánh không?. Lần thứ nhất ngài đáp: “Không”. Hỏi: “Tại sao trong kinh nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh mà con chó lại không?”. Ngài trả lời: “Có mà không biết tức là không”. Cũng vậy, chúng ta có chân tâm nhưng không biết thành ra cũng như không. Vì chân tâm khó thấy, nó không có tướng để hiện như vọng tưởng, nên chúng ta không nhận ra được. Còn vọng tưởng duyên theo bóng dáng của sáu trần; nhớ người thì hiện bóng người, nhớ vật thì hiện bóng vật, cho nên mình dễ thấy.

   Người khác hỏi:“Con chó có Phật tánh không?”. Ngài Triệu Châu lại đáp: “Có”. Hỏi:“Tại sao có Phật tánh mà lại chui vào cái đãy da lông lá lù xù vậy?”. Ngài nói: “Vì biết mà cố phạm”. Câu nầy rất quan trọng. Thí dụ: Phật tử nam giữ năm giới, trong đó có giới không uống rượu. Khi gặp bạn bè mời, nể tình uống một chút. Mình biết uống là phạm giới mà vẫn uống, vậy có phải biết mà cố phạm không? Còn quí Phật tử nữ buôn bán ngoài chợ, món đồ đó mua một trăm, nhưng khi người ta hỏi thì nói hai trăm để nâng giá bán lên. Biết nói dối là phạm tội mà vì quyền lợi vẫn cứ nói dối. Như vậy có phải biết mà cố phạm không? Đó là do nghiệp dẫn. Đã bị nghiệp dẫn thì mê mờ, làm sao nhận ra tánh giác nữa.

   Như vậy tất cả chúng ta tu để làm gì? Tu để phá tan mây mù nghiệp thức che phủ tánh giác của mình. 
   Nghiệp từ những vọng tưởng khởi niệm lành dữ, tạo thành nghiệp lành nghiệp dữ. Nên vọng tưởng là nhân của nghiệp. Khi những vọng tưởng yên lặng thì nghiệp theo đó hết. Như vậy niệm không còn thì nghiệp không còn. Tâm niệm rỗng lặng thì tự nhiên an lành tự tại, không dính không mắc. Còn tâm niệm lăng xăng lộn xộn thì đưa tới chỗ dính mắc. Dính mắc là bị nghiệp lôi, không dính mắc là không bị nghiệp lôi. Người không bị nghiệp lôi là người giải thoát sanh tử. Còn người bị nghiệp lôi là người đi trong vòng sanh tử. Rõ ràng như vậy.

   Tổ Đạo Tín khi còn là một Sa di mười bốn tuổi, ngài gặp Tổ Tăng Xán liền quì bạch:“Bạch Hòa thượng, xin ngài dạy cho con pháp giải thoát”. Tổ Tăng Xán nhìn thẳng vào mặt ngài hỏi:“Ai trói buộc ngươi?”. Ngài hoảng hốt tìm lại không thấy ai trói buộc mình nên đáp: “Dạ, không ai trói buộc con”. Tổ bảo: “Không ai trói buộc cầu giải thoát làm gì?”. Ngay đó, ngài Đạo Tín ngộ đạo, biết cách tu. Đơn giản làm sao!

   Thường chúng ta hay nghĩ mình bị trói buộc, bị mất tự do. Thế gian gọi là “thê thằng tử phược”, vợ con là sợi dây trói buộc. Nhưng trong đạo thì ai trói buộc chúng ta, quí vị tìm kỹ xem. Thế nhưng chúng ta vẫn cảm nhận mình đang bị thập triền thập sử trói buộc mình. Thập triền sử là gì? Là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến. Nó ở ngoài hay ở trong chúng ta? Nó ở trong chúng ta, không như thê thằng tử phược ở ngoài thế gian.

   Vì nó cột bên trong, nên chúng ta phải dẹp hết tham sân si… mới không còn bị trói buộc nữa. Nếu tâm khởi tham là do đâu mà khởi tham. Như mắt thấy hoa đẹp thì khởi tham, là do sắc trần tiếp xúc với nhãn căn sanh ra nhãn thức phân biệt, thì có thấy đẹp xấu không? Thấy thì thấy mà không có niệm khởi phân biệt đẹp xấu. Không khởi niệm nghĩ thì không dính. Còn vừa khởi nghĩ phân biệt đẹp xấu là dính mắc liền.

   Nhưng người ta lại cho rằng thấy hoa mà không biết phân biệt đẹp xấu là khờ. Nhưng không ngờ người khéo phân biệt là người dính mắc hơn ai hết. Vì tâm họ nhạy quá nên khó tu. Thấy mà không dính mắc thì tâm mới an. Cho nên Tổ bảo: “Cái gì trói buộc ngươi?”. Nếu còn niệm luyến ái là còn trói buộc. Nhưng ngài Đạo Tín tìm lại không thấy một niệm nào hết. Không có niệm thì không có gì trói buộc, đó là giải thoát rồi, cầu pháp làm gì!

   Như vậy, chúng ta tu mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm đều biết quay lại mình. Thấy rõ những vọng tưởng là hư dối, thì dù nó nghĩ hay, nghĩ tốt mình cũng không theo. Lúc đó tự nhiên tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì không còn gì trói buộc hết. Cho nên biết không phải cảnh bên ngoài trói buộc, mà chính từ nội tâm chúng ta dấy lên niệm trói buộc. Vì vậy kinh gọi là thập triền sử. Triền là trói buộc, sử là dẫn lôi. Rõ ràng giải thoát không phải ở ngoài, mà ở ngay trong nội tâm mình.

   Bài kệ “Cư trần lạc đạo” của Sơ Tổ Trúc Lâm có hai câu kết như thế nầy: Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. Hai câu nầy thật là chí lý. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích là trong nhà có hòn ngọc quí, đừng tìm kiếm ở đâu nữa. Hãy xoay lại tìm hòn ngọc của chính mình. Thường thường quí Phật tử tìm Phật ở trên núi hay chỗ nào linh thiêng, chớ không chịu tìm Phật của chính mình. Mình có hòn ngọc quí sẳn một bên mà bỏ quên, lại đi tìm ở đâu xa tít thì làm sao thấy được.

   Phật trên núi là Phật ở ngoài, không phải Phật của mình. Phật của mình chính là tự tâm thanh tịnh sáng suốt ngay nơi mình. Đó mới là Phật thật. Vì vậy chúng  ta phải xoay lại mình, nhìn lại những tâm niệm lăng xăng là vọng tưởng hư ảo, không theo không dính nó, đó là mình trở về với ông Phật của mình. Những thứ đó lặn hết thì ông Phật mình hiện ra, đó là hòn ngọc sẵn trong chéo áo. Chúng ta trở lại tìm ngay nơi mình thì đúng. Ngược lại là sai.

   Muốn thế, chúng ta phải tu bằng cách nào? Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền, là đối với cảnh trần mà tâm không dính mắc, đó là thiền. Không dính mắc với sáu trần, đó là cơ hội để thấy ông Phật của mình. Đối với sáu trần bên ngoài, chúng ta không dính mắc là tu thiền. Đâu cần phải ngồi lim dim mới gọi là tu thiền.

   Phần nhiều chúng ta đợi ngồi mới tu. Bởi vì bình thường quen cho tâm phóng chạy ra ngoài, nên khi đi đứng sinh hoạt, chúng ta kềm không nổi. Nghe người ta nói cái gì hay hoặc làm cái gì lạ cũng chăm chú nhìn, thành ra khó tu. Nên bây giờ buộc lòng  tối, khuya phải ngồi cho tỉnh lại. Nhờ tĩnh lặng mới thấy từng niệm dấy lên, buông xả không theo nó. Tu như vậy đến khi nào thuần rồi, đi ra ngoài thấy người thấy cảnh không chạy theo nữa thì bấy giờ trong bốn oai nghi đều là thiền. Câu đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền đã định nghĩa thiền hết sức rõ.

   Chúng ta từ thấp lên cao, ngồi yên một chỗ trong thiền đường là để dẹp pháp trần. Khi thuần rồi đi ra ngoài đối với sáu trần gỡ lần, không cho dính nữa, lúc đó chúng ta tự tại. Tu hành đến chỗ tự tại mới gọi là giải thoát sanh tử; còn dính còn cột, dù cột với pháp tu thì vẫn còn sanh tử.

   Đức  Phật dạy các pháp tu như Tứ diệu đế, Lục diệu pháp môn v.v… cho tới Bát nhã, đều là phản quan tự kỷ hết. Như vậy tu theo Phật là trở lại mình. Phản quan tự kỷ là soi sáng lại chính mình, nhận ra ông Phật nơi chính mình, không phải từ bên ngoài mà được. Phật là giác, mà giác không ai đem đến được, phải từ tâm mình phát ra. Chúng ta tu là xoay lại tâm mình, chớ tìm ở bên ngoài thì không bao giờ được giác ngộ. Nên nói “bất tùng tha đắc”, là không từ ngoài mà được.

   Ngày nay đa số người tu hướng bên ngoài cầu. Hướng về phương Tây lạy Phật Di Đà cầu Phật độ, hướng về phương Đông lạy Phật Dược Sư cầu Phật độ v.v… mà không nhớ ông Phật của mình. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dùng từ “quên mình theo vật”. Trong nhà thiền có câu chuyện của Thiền sư Cảnh Thanh đời Tống ở Trung Quốc.

   Một hôm, Sư ngồi trong thất có chú thị giả bên cạnh. Bên ngoài con rắn bắt con nhái, nó kêu ệch ệch. Ngài hỏi thị giả: “Tiếng gì đó?”. Thị giả thật thà trả lời: “Tiếng con rắn bắt con nhái kêu”. Ngài nói: “Chúng sanh khổ lại có khổ chúng sanh”. Như vậy cái gì là chúng sanh khổ, cái gì là khổ chúng sanh? Con rắn bắt con nhái, con nhái giãy giụa kêu la thì con  nhái là chúng sanh khổ, còn khổ chúng sanh là chú thị giả. Thị giả thấy sao nói vậy, có gì là khổ? Tôi kể thêm một câu chuyện nữa.

   Một hôm, Ngài ngồi trong thất, nge tiếng mưa rơi xuống mái chùa. Ngài hỏi thị giả: “Tiếng gì đó?”. Thị giả trả lời: “Tiếng mưa rơi”. Ngài nói: “Chúng sanh quên mình theo vật”. Sao vậy? Mưa rơi thì nói mưa rơi, sao ngài quở quên mình theo vật?

   Trở lại đức Phật trong kinh Lăng Nghiêm. Phật bảo La Hầu La đánh tiếng chuông kêu boong rồi hỏi A Nan: “Ông nghe không?”. A Nan thưa: “Dạ nghe”. Khi tiếng chuông dứt, Phật lại hỏi: “Ông nghe không?”. A Nan thưa: “Dạ không nghe”. Phật bảo đánh tiếng chuông nữa hỏi: “Ông nghe không?”. A Nan thưa: “Dạ nghe”. Một hồi tiếng chuông lặng, Phật lại hỏi: “Ông nghe không?”. A Nan thưa: “Dạ không nghe”. Phật bảo: “Chúng sanh quên mình theo vật”.

   Đó là điều hết sức cụ thể và cũng hết sức lạ lùng, chỉ có Phật mới dám chỉ điều đó. Bởi vì chúng ta cứ nghĩ mắt mình thấy là thấy hình tướng sự vật. Khi không có hình tướng sự vật thì nói không thấy. Nghe là khi có âm thanh, không có âm thanh thì nói không nghe. Sự thật âm thanh là tiếng động bên ngoài, nó có rồi mất. Khi có tiếng thì tai mình nghe có tiếng. Khi không tiếng thì tai mình nghe không tiếng, sao lại bảo không nghe. Không nghe là điếc rồi. Nếu điếc thì đánh tiếng chuông thứ hai đâu có nghe. Vậy tiếng chuông kêu thì chúng ta nghe, khi tiếng chuông lặng thì chúng ta cũng nghe, nhưng nghe tiếng chuông lặng. Có động, không động chúng ta đều nghe, đâu phải là không nghe.

   Cũng vậy, trước mắt có cảnh thì chúng ta thấy có cảnh, không cảnh thì chúng ta thấy không cảnh, chớ đâu phải không thấy. Như vậy chúng ta trả lời trong cái nhớ cảnh mà quên tánh thấy, nhớ tiếng mà quên tánh nghe. Bởi quên thấy nên cảnh mất rồi nói tôi không thấy, quên nghe nên tiếng lặng rồi nói tôi không nghe. Mà thật ra tánh nghe hằng hữu, tánh thấy hằng hữu nhưng chúng ta lại quên. Chỉ nhớ cái sanh diệt bên ngoài, nên bị quở là quên mình theo vật. Đã quên mình theo vật thì bị vật chuyển, chuyển tức là lôi đi. Nhớ mình thì không cái gì chuyển được.

   Thế nên sự tu hành cốt ở chỗ chúng ta phải hằng nhớ lại mình. Ngoài không theo sáu trần. Trong không theo vọng tưởng thì bản tâm chân thật hiện tiền. Nó luôn sẳn đủ, chớ không thiếu vắng bao giờ. Vì vậy phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc là châm ngôn của người tu. Bất kỳ tu pháp môn nào cũng phải trở lại mình. Nếu quên mình mà cầu ở bên ngoài thì không thể được.

   Chúng ta dù tại gia hay xuất gia đều phải phản quan soi chiếu lại mình, thì đó là người biết tu, người không phụ mình quên mình. Quên mình thì trầm luân trong sanh tử, chịu nhiều khổ đau. Trở về với mình thì tự do tự tại, giải thoát khỏi mọi khổ đau. Đó là ý nghĩa bài giảng hôm nay.


***
Hòa thượng THÍCH THANH TỪ