Hồng
Nhung
Măng là
mầm non của tre, nứa, được gọi bằng nhiều tên khác nhau như duẩn, mao duẩn,
trúc duẩn, trúc nha... Nhiều nước ở phương Đông măng được xem là một trong
những loại thực phẩm thông dụng được yêu thích.
Dinh dưỡng
từ măng
Trước đây,
có quan niệm cho rằng măng là một trong những đồ ăn vô bổ, thậm chí không ít
người nghĩ rằng ăn nhiều măng sẽ “hại máu”. Ở nước ta, măng cũng là một nguyên
liệu được dùng để chế biến nhiều món ăn như: măng xào, nộm măng, măng nấu với
thịt, cá, ếch… đều ngon.
Trong các
bữa cơm chay, măng lại càng là món ăn chủ đạo. Trước đây, nhiều nơi thiếu lương
thực còn lấy măng ăn thay cơm, điều đó cho thấy chất dinh dưỡng trong măng rất
phong phú.
Về giá trị
dinh dưỡng của măng tươi cũng tương tự như rau tươi, nhưng măng có nhiều chất
xơ hơn rau và măng càng già tỷ lệ chất xơ càng cao, cứng hơn và khó tiêu hơn.
Măng khô, do phơi khô bớt nước nên tỷ lệ các chất dinh dưỡng cũng cao hẳn lên.
Có nhiều
loại măng khác nhau, tuỳ theo nguồn gốc có măng tre, măng vầu, măng nứa, măng
giang..., tuỳ theo hàm lượng nước chứa trong thành phần mà người ta làm măng
khô, măng tươi, tuỳ theo cách chế biến có măng luộc, măng xào, măng hầm, măng
chua, măng ớt... phù hợp với khẩu vị của từng vùng, miền.
Nhiều
nghiên cứu cho thấy, trong măng có chứa các loại đường, mỡ, protein và các
nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể như sắt, can-xi… trong đó protein có
chứa ít nhất 18 loại axit amin có thành phần khác nhau.
Chất
cenllulose có nhiều trong măng góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe,
chống bệnh máu nhiễm mỡ, cao huyết áp, béo phì, trĩ, đái đường, ung thư hay
bệnh vành tim. Vì cenllulose có khả năng làm giảm sự hấp thụ mỡ, tăng cường
hoạt động của nhu động ruột, thúc đẩy sự bài tiết.
Ngoài ra,
với hàm lượng Mg khá phong phú và một loại đường đa có trong thành phần khiến
măng có khả năng nhất định trong việc phòng ung, kháng ung và được coi là một
trong những thực phẩm chống ung thư.
Măng làm
thuốc
Theo dinh
dưỡng y học cổ truyền, măng có vị ngọt hơi đắng, tính hơi hàn, có công dụng hóa
đàm hạ khí, thanh nhiệt trừ phiền, tiêu thực giả độc, thông lợi nhị tiện,
thường được dùng để làm thức ăn và làm thuốc cho những người bị cảm mạo phong
nhiệt, ho do phế nhiệt có nhiều đờm vàng, phù thũng do viêm thận, do suy tim và
thiểu dưỡng, sởi và thủy đậu ở trẻ em, sốt cao phiền khát, ăn uống chậm tiêu,
tiểu tiện bất lợi, đại tiện không thông...
Chữa ho đờm
nhiệt: Măng
tươi 60g, luộc chín, thái miếng rồi đem xào với gừng tươi thái chỉ và dầu vừng,
chế đủ gia vị, ăn nóng sẽ giúp ho do đàm nhiệt thuyên giảm, lồng ngực bớt đầy
tức khó chịu. Hoặc Măng tre 20g, chua me đất 20g, rễ dâu (cạo vỏ, tẩm mật, sao
vàng) 10g, gừng tươi 8g. Tất cả rửa sạch, giã nát, thêm một chút đường hoặc mật
ong, hấp cơm rồi cho uống, ho do phong nhiệt dần sẽ khỏi.
Chữa táo
bón do nhiệt:
Măng tươi 60g, luộc chín, thái miếng, đem ninh với 100g gạo tẻ thành cháo, chế
đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Chữa mụn
đầu đinh: Măng mới
nhú ra khỏi mặt đất 20g, bồ công anh 10g, gừng tươi 5g, tất cả rửa sạch, thái
vụn, sắc với 2 bát nước lấy 1 bát, chia uống 2 lần trong ngày.
Chữa hen
phế quản: Măng tre
40g, ốc sên 2 con (loại có vỏ to, màu vàng nâu, miệng không có vảy); ốc đem đập
vỏ, bỏ nội tạng chỉ lấy thịt, sát với phèn chua, rửa sạch cho hết nhớt, nướng
vàng, cho vào nồi đun lấy nước đặc ; măng tre giã nát ép lấy nước rồi hòa với
nước ốc cho uống, dùng liên tục cho đến khi bệnh ổn định.
Chữa sởi, thủy đậu: Măng tươi, cá diếc, gừng
tươi, hạt tiêu lượng vừa đủ và một chút rượu vang. Cá diếc làm sạch, măng rửa
sạch thái miếng, gừng tươi thái chỉ, tất cả cho vào nồi đun chín, chế thêm gia
vị, chia ăn vài lần. Trẻ bị sởi, thủy đậu ở giai đoạn đầu chữa sởi sẽ nhanh
khỏi, người lớn bị táo bón ăn vào sẽ nhanh tiêu.
Tuy được sử dụng phổ biến nhưng măng chứa nhiều
chất glycocid có khả năng biến đổi thành acid cyanhydric gây độc hại cho cơ thể
khi sử dụng. Để đảm bảo an toàn khi sử dụng chúng ta có thể áp dụng những cách
khử độc sau đây:
- Bóc hết bẹ lá (vỏ măng), rửa sạch đất cát rồi
cắt thành lát mỏng hoặc xé nhỏ thành sợi đem ngâm vào nước sạch qua đêm cho bớt
độc rồi rửa lại trước khi chế biến.
- Măng tươi luộc đi luộc lại khoảng 2 - 3 lần
rồi xả lại bằng nước sạch.
- Măng tươi để cả vỏ rồi xếp gọn vào trong nồi.
Cho thêm vài trái ớt đã bỏ hạt, cho nước gạo vào ngập gần hết măng. Đun lửa
vừa, khi thử thấy măng mềm thì tắt lửa, lột vỏ, rồi xả lại vài lần bằng nước
sạch.
- Măng khô lúc sử dụng để chế biến thành các món
ăn nên chần lại bằng nước nóng hoặc luộc lại càng tốt. Muối măng chua cũng là
một biện pháp là giảm tính độc của măng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét