18/03/2022

Chùa Việt (phần 8)

 

(Phần 8)

Tháp chùa Việt

Trong lịch sử Việt Nam ghi lại một số ngọn tháp nổi tiếng: Tháp Báo Thiên (Đại Thắng Tư Nghiêm bảo tháp) là 1 trong Tứ đại khí; tháp Tường Long ở Đồ Sơn, tháp Long Đọi ở Hà Nam, tháp Phật Tích ở Bắc Ninh, đều dựng đời Lý.

 


Tháp Báo Thiên

Nhưng nay không còn ngọn tháp nào còn cả.

Theo ghi chép thì tháp chùa Việt cổ đời Lý Trần đều xây bằng đá, gạch, không thấy tháp gỗ.

Các tháp đều có 4 cạnh, nhiều tầng. Đây là kiến trúc tượng trưng cho Trục Vũ trụ, tháp là hình ảnh của núi Vũ trụ Tu Di (Meru), do đó bốn góc có 4 Thiên vương đứng gác. Tháp có 11, 12, 13, 14 tầng, số tầng không cố định tùy thuộc vào quan niệm. 

Lúc này không còn 3 phần tương ứng Tam giới rõ ràng như Stupa; tuy vậy các tầng tháp cũng có thể chia ra: 

- Các tầng bên dưới là Dục giới.

- 4 tầng tiếp theo là Sắc giới gồm 4 tầng thiên: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền .

- 4 tầng trên cùng là Vô Sắc giới gồm:Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Chỉ đến đời Nguyễn mới xây tháp tám cạnh, tiêu biểu là tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ bảy tầng, là vì tương ứng với 7 vị Phật quá khứ.

 

Một số tháp khác có 9 tầng gọi là tháp Cửu Phẩm Liên hoa, tương ứng với 9 phẩm của Tịnh Độ, từ Hạ phẩm hạ sinh đến Thượng phẩm thượng sinh. Những tháp dựng ngoài trời cửu phẩm này đều dựng muộn, không phải tháp cổ. Nhưng có loại tháp đặc biệt là Tháp gỗ - hay Cối phật, cái này sẽ nói sau.

Tháp Phổ Minh

 

Ngôi tháp chùa cổ nhất Việt Nam nay còn lại là tháp Phổ Minh ở chùa Phổ Minh, Nam Định, xây từ thế kỉ 13. Ngôi tháp dáng đẹp cao 14 tầng, đế và tầng 1 làm bằng đá, các tầng trên xây bằng gạch. Trước kia gạch mộc đỏ tươi giống tháp Bình Sơn, đến đời Nguyễn thì trát vữa lên, nên có hình dạng như ngày nay.

Trước tháp có mấy bệ chân cột mà tương truyền là để kê chân Vạc Phổ Minh, các vạc lớn nhất của VN, một trong Tứ đại khí. Vạc to đến độ hai người có thể chạy đuổi nhau trên miệng vạc. Giặc Minh đã phá hủy vạc nên không còn gì cả.

Tháp Phổ Minh có hình dáng thuôn lên rất đẹp, giống một chiếc bút viết lên trời

 Tháp Bình Sơn

 

Một ngọn tháp nổi tiếng rất đẹp khác, nhưng có lẽ rất ít người biết, là tháp Bình Sơn ở Vĩnh Phúc.

Tháp là tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc thời Lý, Trần cách đây 800 năm, làm hoàn toàn bằng gạch nung. Sau bao nhiêu năm mà màu gạch vẫn đỏ tươi, họa tiết khắc chạm vẫn sắc nét. Một số phiên bản của tháp còn được đặt tại Bảo tàng Lịch sử, như sự khẳng định của văn hóa Việt Nam.

Tháp Bình Sơn hiện còn lại có 11 tầng, phần trên cùng đã hoàn toàn mất. Trải tám trăm năm, dù móng bằng gạch khá sâu nhưng cũng bị xói lở, tháp nghiêng. Năm 1969 người ta đã dỡ toàn bộ ngọn tháp ra, thì thấy nhiều viên gạch được kết nối bằng mộng bằng chì. Sau khi đổ móng bê tông chân tháp, sau hơn 2 năm tháp được dựng lại nguyên như trước đó.

Những phần chân đế phải dùng gạch bổ sung do gạch cũ đã bị xói mất. Nhìn là thấy ngay, vì lớp gạch mới sau vài chục năm đã xỉn màu, còn gạch cũ vẫn đỏ tươi.

Những viên gạch cổ tám trăm năm tuổi với những hình hoa cúc xoắn, rồng cuộn, cánh sen, thể hiện quan niệm và mỹ thuật của người xưa.

Tháp Bình Sơn là tháp rỗng lòng, tức là mặc dù có 15 tầng (các tầng trên cùng bị mất), nhưng cái "tầng" đó chỉ là phía bên ngoài, còn bên trong thì rỗng thẳng từ dưới lên trên, như một cái ống. Sau thời gian tu sửa, người ta đã lắp một cột thu lôi bám trong lòng tháp dẫn xuống đất. Thế là trẻ con trong vùng đã tạo ra trò chơi là trèo trong lòng tháp.

Hiện nay tháp đứng chơ vơ, không được bảo vệ, nên càng ngày càng xuống cấp.

Các chùa gần đây cũng bắt đầu dựng nhiều tháp, bên trong đặt các pho tượng Phật. Tháp chùa Trấn Quốc xây bằng gạch đỏ khá đẹp, 11 tầng, mỗi tầng sáu cạnh, mỗi cạnh có pho tượng bằng đá trắng ngồi trong, tổng cộng 66 tượng. 

Tháp chùa Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng bày cực nhiều tượng đá, tầng nào cũng nhiều đến mức quá, vì không chỉ xung quanh mà ở giữa cũng chi chít.

Gần đây ở HN có chùa Bằng A dựng tòa tháp - hiện tại là cao nhất - 13 tầng, mỗi tầng tám cạnh, mỗi cạnh trổ cửa sổ, đặt một pho tượng Phật bằng đồng nặng hơn trăm cân. Tổng cộng 104 pho tượng, trở thành tháp đặt nhiều tượng đồng nhất.

Tượng Phật tháp chùa Bằng A, ngồi quay ra tám hướng.

Tháp mộ

Bên cạnh các Tháp Phật - Tháp Vũ trụ, các ngôi chùa còn có các tháp mộ.

Tháp mộ là nơi đặt hài cốt của các vị sư đã từng tu tại chùa. Theo như truyền thống của Phật giáo từ Ấn Độ, thì các vị sư sau khi viên tịch sẽ được hỏa táng (lễ trà tỳ), nếu như ở một mức độ nào đó thì có thể còn lại các Xá lị. Xá lị có thể được lưu giữ như báu vật của chùa. Nếu không còn xá lị, thì tro cốt được táng trong các tháp.

Không rõ thời xưa, các vị sư ở Việt Nam có được hỏa táng không, còn gần đây thì hình như đều chôn trực tiếp và xây tháp lên trên. Một số tháp của thiền sư đặc biệt như Chuyết Chuyết, Như Trí,..., thì nguyên vẹn nhục thân ngồi trong tháp.

Tháp mộ sư thường có 3 tầng bốn mặt, tháp nhỏ 2 tầng, nhưng cũng có tháp nhiều tầng hơn, tùy quan niệm và tùy chùa. Tháp xây gạch hoặc đá, thường ở phía sau chùa.

Tháp đá Đăng Minh ở chùa Côn Sơn, nơi táng Xá lị của Thiền sư Huyền Quang, là vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm (Trúc Lâm đệ tam tổ). Tháp xưa đời Trần có lẽ cũng bị hư hại nhiều, những chi tiết sửa lại gần đây.

Tháp mộ sư độc đáo và thuộc loại đẹp nhất có lẽ là tháp của chùa Bút Tháp. Tháp bằng đá hình lục giác, cạnh thẳng đứng chứ không nhỏ lại như các tháp khác. Tầng dưới có mái trùm ra, cột điêu khắc rồng cuốn rất đẹp, bên trong tầng để tượng thiền sư Chuyết Chuyết.

 


Tuy nhiên, nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết lại được tìm thấy ở chùa Phật Tích. Nếu thế thì tháp này chỉ là thờ vọng, không có di cốt bên trong.

 Ngôi chùa mà tôi thấy có nhiều tháp mộ sư nhất có lẽ là chùa Bổ Đà ở Bắc Giang. Tôi chưa thấy ngôi chùa nào nhiều tháp đến thế, cả một vạt đồi toàn tháp mộ, trải dài từ trên xuống dưới.





Những ngôi tháp mộ bằng đá ong ở chùa Nôm



 Gác chuông

Bên cạnh Tháp Phật, Tháp vũ trụ, Tháp mộ, Tháp thờ, tại chùa chiền còn một hình thức kiến trúc đẹp nữa là Tháp chuông, hay chỉ đơn giản là Gác chuông, cũng mang hình dáng một ngọn tháp.

Gác chuông - như tên gọi, mục đích là để treo chuông, để khi gõ chuông tiếng được vang xa, khắp nơi đều nghe được.

Chuông, khánh là đồ nhạc khí linh thiêng, theo niềm tin tôn giáo thì khi gõ chuông khánh, thần linh kinh động linh ứng, mỗi lời cầu nguyện theo một tiếng chuông sẽ có tác dụng gấp cả vạn lần. Những quả chuông quý trên khắc các bài kinh văn, mỗi khi gõ lên thì tương ứng với bài kinh đó được tụng cả vạn lần.

Gác treo chuông của chùa cổ thường không được cao lắm, vì các cụ xưa trình độ kiến trúc cũng có hạn, không thể kéo chuông nặng lên những tháp gạch cao, mà cũng không có chỗ để đứng gõ (khác với chuông phương tây kéo dây, treo cao bao nhiêu cũng được). Do đó các gác chuông thường vững chãi và thấp, hoặc làm gác ngay trong chùa.

Càng về sau này, với bêtông ximăng cốt thép, người ta lại bắt đầu dựng tháp chuông chùa cao ngất ngưởng, mỗi lần gõ phải trèo lên rạc cẳng.

Gác chuông cổ đẹp nhất mà tôi biết là gác chuông chùa Keo, đã trở thành biểu tượng kiến trúc chùa cổ, và cũng là biểu tượng của tỉnh Thái Bình.

 

 


Gác chuông chùa Keo hình dáng tuy không thật cao thanh thoát, nhưng lại vững chãi gần gũi, chắc khỏe, được coi là mang dáng một búp sen chưa nở. Bốn cây cột chính cao từ nền lên đến đỉnh nóc, bốn phía còn các cột phụ cho tầng một.

Tầng một bốn phía để trống, treo một khánh đá lớn. Tầng hai, tầng ba, tầng nóc đều treo mỗi tầng một quả chuông. Toàn bộ gác chuông liên kết bởi những lỗ mộng, con sơn, vì kèo, đấu, đố, cốn, theo như truyền miệng thì không dùng đến đinh. 

Tuy nhiên gần đây trùng tu lại gác chuông, đổi các kết cấu gỗ mục, nên trông gác chuông có vẻ mới hẳn lên.

Ngoài gác chuông chùa Keo có kiến trúc đẹp nhất, nhiều chùa cũng có gác chuông. Gác chuông thường nằm ở trước chùa chính, tại sân trước, cũng có trường hợp nằm ở sân trong. Nhiều chùa thì tam quan cũng là gác chuông luôn.

Gác chuông cũng khá nổi tiếng của chùa Trăm Gian - Hà Tây nằm bên sườn đồi phía trước chùa.

Có những ngôi chùa không làm gác chuông bên ngoài, mà làm gác ngay trong chùa.

Nghĩa là mái chùa không là những lớp mái lớn đơn thuần nữa, mà được nâng cao một phần tạo thành những gác nhỏ để treo chuông, khánh.

Chùa Nành là ngôi chùa có kiến trúc khá đặc biệt kiểu này. Gian tiền đường được tạo thành hai căn gác nhỏ tạo nên một kiểu rất riêng và cũng đẹp.

 


Chuông chùa

"Xây chùa, tô tượng, đúc chuông

"Trong ba việc ấy thập phương nên làm

Chuông Nhật Tảo được xem là quả chuông duy nhất có niên đại từ thế kỷ X còn thấy ở Việt Nam.

Các cụ ngày xưa đã nói thế, đủ biết vai trò quan trọng của Chuông chùa thế nào. Chùa không có chuông thì còn chưa thể gọi là đầy đủ.

Chuông là loại pháp khí thuộc loại cổ nhất của hầu hết tất cả các nền văn minh, và đặc biệt luôn được dùng trong tôn giáo do âm thanh đặc biệt của nó tạo ra. Tiếng chuông trầm, ngân xa bao giờ cũng gợi đến tâm linh, tôn giáo, huyền bí.

Trong Phật giáo, chuông không chỉ là pháp khí hỗ trợ khi hành lễ, mà còn mang ý nghĩa lời cầu nguyện. Trên chuông khắc các bài kinh, mỗi khi gõ chuông, tức là gửi lời kinh ấy đi theo âm thanh đến khắp mười phương tám hướng. Một lời cầu nguyện kèm một tiếng chuông có thể nhân gấp nhiều lần lời cầu.

 

Chuông phương đông khác hoàn toàn phương Tây ở chỗ âm thanh tạo ra do gõ từ bên ngoài vào, chứ không phải bên trong ra. Do đó muốn gõ chuông phải đứng cạnh chuông, chứ không thể kéo dây như phương tây.

Tiếng chuông phương Đông không to như phương Tây, nhưng trầm và âm đọng lại lâu hơn. Nếu đứng nghe hồi chuông nhà thờ, có thể thấy tiếng chuông dồn dập liên tục vang xa, nhưng hết chuông thì âm thanh cũng gần như tắt luôn. Ngược lại, không thể gõ thật to chuông phương đông liên tục dồn dập được, mà thường gõ từng tiếng đều, khi hết tiếng ngân mới gõ tiếp. Những khi dồn về sau thì gõ nhẹ lại, tạo thành tiếng ngân nga mãi trong không gian.

Quả chuông thường có hình trụ tròn, treo lên bằng quai có khắc hình đầu rồng. Thực ra đó không phải là rồng, mà là con Bồ Lao, giống con của rồng, là loài thần thú thích nghe âm thanh, gìn giữ bảo vệ cho chuông.

 

Quả chuông Việt Nam cũng có những đặc trưng khác khá nhiều so với chuông Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc.

Chuông bao giờ cũng được chia thành bốn phần theo chiều dọc bởi các gờ nổi lên. Có ít nhất một gờ ngang chạy dọc phần gần đáy, làm quả chuông được tạo thành các phần trống có thể ghi chữ. Nơi các gờ dọc và ngang gặp nhau tạo thành bốn núm chuông. Thường các núm khắc chữ Xuân - Hạ - Thu - Đông.

Trên phần trống khắc các bài văn chuông, gọi là bài "minh", hoặc các bài kinh Phật. Các bài minh có thể ghi sự tích, lịch sử chùa giống bia, hoặc công đức của người góp công, hoặc ghi danh những người được tôn thờ. Văn chuông cũng có giá trị không kém văn bia.

Chuông Việt Nam bao giờ thân cũng thẳng đứng, miệng chuông Việt Nam luôn có một gờ rộng hơn thân xòe ra. Đó là đặc điểm phân biệt với chuông nước khác.

Dưới đây là chuông của TQ, Nhật Bản. Có thể thấy các chuông này thường không có cạnh đứng, mà hoặc phình ở giữa, hoặc loe ở miệng. Thậm chí miệng chuông còn lượn sóng. Phần chia trên thân chuông cũng rất phong phú. Nhiều chuông còn có rất nhiều hàng núm đồng để tạo tiếng vang.

Phải công nhận rằng thật ra chuông TQ, NB muốn đúc phải có trình độ cao hơn hẳn so với đúc chuông VN.

Chuông to nhất trong lịch sử Việt Nam ghi lại là chuông chùa Diên Hựu, hay còn gọi là chuông Quy Điền, do Thái hậu Ỷ Lan cho đúc. Chuông to nặng, bao nhiêu không rõ, có tài liệu cho rằng nặng một vạn hai nghìn cân (cân ta), nhưng có tài liệu lại thấy ghi một vạn hai nghìn cân là quả chuông bé; tức là chuông còn to hơn nữa. 

Khi đó đã phải dựng một tòa gác rất lớn để treo chuông, nhưng treo lên thì chuông đánh không kêu, có lẽ là do đúc to quá nên bị nứt. Do đó đành bỏ chuông ra ngoài ruộng, rùa chui vào sống bên trong rất nhiều, nên gọi là chuông Quy Điền.

Chuông là một trong Tứ đại khí của nước ta. Chuông Quy Điền để ở ruộng chùa Diên Hựu suốt bốn trăm năm, cho đến khi Vương Thông khi chiếm thành Thăng Long đã phá hủy lấy đồng đúc vũ khí. 

Thời gần đây, ở chùa Cổ Lễ cũng đúc một quả chuông lớn, nặng 9 tấn, cao hơn 4m. Sợ Pháp phá hủy, người dân đã vần chuông xuống ao chùa, ngâm ở đó để dấu mấy chục năm. Giờ thì chuông vẫn để ở đó.

Năm 2003 thì đúc một quả chuông nữa với kích thước tương tự, treo trong gác chuông mới xây bằng xi măng. Tuy nhiên chuông này đánh tiếng không trong.

Cùng với chuông là Khánh.

Khánh được làm bằng đồng hoặc đá, có hai núm ở hai mặt, có thể gõ. Tuy vậy tiếng của Khánh tắt rất nhanh, và gần như chỉ có người gõ là nghe rõ, từ xa chả thấy gì hết. Khánh mang tính pháp khí, trang trí nhiều hơn công dụng tạo âm thanh.

 

Trên khánh cũng là chỗ để khắc chữ, nhưng bài văn, và hình ảnh rồng phượng... Khánh thường là đồ cổ, vì gần đây thấy người ta toàn đúc chuông chứ ít thấy đâu đúc khánh.

Khánh đá chùa Kiến Sơ, một cổ vật đặc biệt được treo trên các trụ và đà cũng bằng đá

 

 


...........................

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét